Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng nam (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.14 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN HIỆP

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN HIỆP

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


GS.TS. NGUYỄN NGỌC ANH

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp
với các đề tài khác.
Tác giả luận văn

Phạm Văn Hiệp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰVIỆT NAM ...............................................................................................5
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam .................................................................................................5
1.2. Các dấu hiệu định khung tăng nặng ...................................................................15
1.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt khác .................................................................................................19
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ...............................................................................25
CHƢƠNG 2. ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM TỪ 2012-2016 .............................................37
2.1. Những vấn đề chung về định tội danh ...............................................................37
2.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Quảng Nam từ
năm 2012 - 2016 ........................................................................................................45

CHƢƠNG 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI LỪA
ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM .........64
3.1. Một số bất cập hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản ở tỉnh Quảng Nam ..........................................................................................64
3.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. ........................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự.

BLHS

: Bộ luật Hình sự.

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự.

CTTP

: Cấu thành tội phạm.

HĐTP


: Hội đồng Thẩm phán.

HĐXX

: Hội đồng xét xử.

HSST

: Hình sự sơ thẩm.

SĐBS

: Sửa đổi bổ sung.

TNHS

: Trách nhiệm hình sự.

VAHS

: Vụ án hình sự.

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa.


DANH MỤC BẢNG BIỂU


Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.

2.2.

Cơ cấu tội phạm do Toà án đã xét xử từ năm 2012 đến
năm 2016 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Tỷ lệ phần trăm các loại tội phạm đã xét xử từ năm
2012 đến năm 2016

Trang

48

48

Cơ cấu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nhóm tội phạm
2.3.

xâm phạm sở hữu (do Tòa án đã xét xử) trên địa bàn

49

tỉnh Quảng Nam từ năm 2012 đến năm 2016
Tỷ lệ phần trăm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nhóm
2.4.


tội phạm xâm phạm sở hữu (do Tòa án đã xét xử) trên

49

địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2012 đến năm 2016
Cơ cấu và tỷ lệ về giới tính (nữ) phạm tội lừa đảo
2.5.

chiếm đoạt tài sản trong tổng số tội phạm trên địa bàn

50

tỉnh Quảng Nam từ năm 2012 đến năm 2016
Cơ cấu và tỷ lệ % bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
2.6.

tài sản theo các mức hình phạt (CTTP cơ bản và CTTP
tăng nặng) quy định tại Điều 139 BLHS 51năm 1999

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan trọng, thân
thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lập
pháp của bất kỳ quốc gia nào. Trong các hình thái xã hội khác nhau, Nhà nước đều
sử dụng các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của con người và
hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của con người đều bị áp dụng những hình thức

trách nhiệm pháp lý nhất định như: trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm hoàn trả
vật, tài sản trong pháp luật dân sự hay điều tra, truy tố xét xử một người khi họ có
hành vi xâm hại đến quyền sở hữu ở mức độ nghiêm trọng. Thông qua việc đánh
giá coi hành vi xâm phạm quyền sở hữu của con người là tội phạm và áp dụng đối
với người phạm tội một hình phạt, Nhà nước luôn thể hiện thái độ đấu tranh không
khoan nhượng đối với loại hành vi này.
Những năm gần đây nền kinh tế nước ta nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng
phát triển nhanh và mạnh, kéo theo sự thay đổi về mọi mặt trong đời sống xã hội,
đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế, từ đó tạo ra vị thế ổn
định và phát triển đi lên. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế
thị trường đã có những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội như sự tha hoá trong
lối sống, tiêu cực, tệ nạn xã hội và đặc biệt tội phạm có điều kiện phát sinh, tồn tại.
Trong đó, có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đây là một trong những tội xâm phạm
sở hữu có diễn biến phức tạp, xảy ra thường xuyên và ngày càng gia tăng với nhiều
thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, từ chủ thể thực hiện tội phạm đến các đối tượng bị xâm
hại đều rất đa dạng, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị rất lớn, có những vụ lên đến
hàng chục tỷ đồng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh trật tự của đất nước nhưng các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Nam
chưa có tổng kết để rút kinh nghiêm.
Trước tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tác động tiêu cực trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... cũng như trước sự đòi hỏi mới
của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Việc nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản dưới một góc nhìn từ thực tiễn tại một địa phương cụ thể không chỉ có ý
1


nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong thực tiễn áp dụng của công
tác định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm đưa ra những giải pháp
hoàn thiện việc áp dụng tội này trong BLHS Việt Nam. Chính vì vậy, tác giả đã lựa
chọn đề tài: "Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực

tiễn tỉnh Quảng nam" để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về các tội
xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng như: “Một
số vấn đề lý luận chung về định tội danh” của PGS,TS. Lê Cảm; “Trách nhiệm hình
sự đối với các tội xâm phạm sở hữu”, của TS. Nguyễn Ngọc Chí; “vấn đề định tội
danh trong các tội xâm phạm sở hữu” của TS. Nguyễn Ngọc Chí, tạp chí Nhà nước
và pháp luật số 11,6,2,8-1997; TS. Đào Trí Úc (2001) Tìm hiểu khái niệm và những
đặc trưng cơ bản của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 6/2001; GS,TS. Nguyễn Ngọc Anh (2009) Hoàn thiện quy định của Bộ
luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu, tạp chí Công an nhân dân, số 5/2009; Các
luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả nổi tiếng như: TS. Trịnh Hồng Dương,
GS,TS. Võ Khánh Vinh, Trần Thị Phương Hiền, các tác giả đã nghiên cứu rất sâu
sắc về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này. Tuy nhiên chưa công trình
nghiên cứu nào nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực tiễn hoạt động
định tội danh và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tội này trong
phạm vi địa phương tỉnh Quảng Nam.
Với cách tiếp cận riêng của mình, tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung
lý luận của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dựa trên những số liệu từ thực tiễn tỉnh
Quảng nam trong 5 năm qua (từ năm 2012 đến năm 2016). Hoạt động định tội danh
và quyết định hình phạt là hai nội dung có mối quan hệ khắn khít với nhau, tuy
nhiên với phạm vi khối lượng cho phép của luận văn tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu hoạt động định tội danh và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng loại tội
phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nhằm tiếp tục góp phần giúp các cơ quan tố
tụng thực thi pháp luật hình sự, cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương có được
bức tranh toàn cảnh về hoạt động định tội danh và giải pháp nâng cao hiệu quả áp

2



dụng đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam tại
tỉnh Quảng Nam. Do đó, việc lựa chọn đề tài mà tác giả nghiên cứu hoàn toàn mới,
không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu. Làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam, nêu và phân tích những vấn đề
chung về định tội danh về mặt lý luận cũng như đánh giá hoạt động định tội danh,
từ đó rút ra được những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế và đề ra một số
giải pháp khắc phục trong hoạt động định tội danh và hiệu quả áp dụng tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Quảng Nam trong 5 năm qua (từ năm 2012 đến năm
2016), góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn
thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
Nêu và phân tích rõ khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam; các dấu hiệu định khung tăng nặng;
phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt khác; nêu và phân tích lịch sử hình thành và phát triển của các quy
phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trình bày những vấn đề lý luận về định tội danh và đánh giá hoạt động định
tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam trong 5
năm qua (từ năm 2012 đến năm 2016).
Phân tích những tồn tại hạn chế trong việc áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tội này trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam trong thời gian đến.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu. Là những vấn đề lý luận và thực tiễn định tội danh
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; từ đó chỉ ra
được các hạn chế cũng như đề xuất các biện pháp khắc phục trong việc áp dụng Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản


3


dưới góc độ pháp luật hình sự và hoạt động định tội danh cũng như đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng đối với loại tội phạm này trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận. Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta, cũng như của các cấp chính quyền tỉnh Quảng Nam về hoạt động
phòng, chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình viết luận văn, tác giả đã sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự, như phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp lịch sử và hệ thống, phương pháp
phân tích...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn thạc sĩ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống dưới góc độ pháp lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở
một địa bàn cấp tỉnh cụ thể nên vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về
mặt thực tiễn trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, theo đó luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn là:
6.1. Về mặt lý luận. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong
quá trình học tập và nghiên cứu của học viên.
6.2. Về mặt thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao
hiệu quả, chất lượng các vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố cục
gồm ba chương:
Chương 1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

Chương 2. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiến tỉnh Quảng
Nam từ năm 2012 đến 2016
Chương 3. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự và
nâng cao hiệu quả áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

4


CHƢƠNG 1
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰVIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XIV của BLHS năm
1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm chung
đối với các tội xâm phạm sở hữu như sau: các tội xâm phạm sở hữu là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản
của cơ quan, tổ chức hoặc của công dân.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nằm trong nhóm tội phạm này. Vì vậy, khái
niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung của các tội xâm
phạm sở hữu đồng thời phải thỏa mãn các dấu hiệu đặc thù riêng.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì: "Lừa đảo là hành vi gian dối
để làm người khác tin nhằm thực hiện những mục đích vụ lợi, trái pháp luật. Động
cơ của người thực hiện hành vi lừa đảo là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác
hoặc làm cho người khác hiểu sai sự thật mà tin tưởng ủng hộ mình. Để thực hiện
thành công việc chiếm đoạt tài sản của người khác thì người có hành vi lừa đảo
thường sử dụng những lời nói gian dối như: thuyết trình, quảng cáo hay, tốt,...
Nhưng tất cả những việc làm đó không đúng với bản chất của vật hoặc sự việc;

người lừa đảo còn sử dụng các thủ đoạn và các hành vi gian dối khác như: Giả danh
những người có uy tín có trách nhiệm quyền hạn, có địa vị cao trong xã hội hoặc
làm giả các loại công văn, giấy tờ, chữ ký của những người có thẩm quyền để làm
cho người có tài sản tin tưởng vào họ và giao tài sản" [35].
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu, với
mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, kẻ phạm tội phải sử dụng thủ đoạn

5


gian dối, làm cho người bị hại tưởng giả là thật, tự nguyện đưa tài sản cho người
phạm tội.
Theo Điều 139 BLHS năm 1999 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như
sau:
"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có
giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai
năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

6


5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm
triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm" [9].
Từ những quy định trên ta có thể đưa ra khái niệm về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản như sau: tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt, được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối.
Tuy nhiên, tội phạm là thể thống nhất của bốn yếu tố: khách thể của tội phạm;
mặt khách quan của tội phạm; chủ thể của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm.
Song, khái niệm trên chỉ khái quát về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, muốn
hiểu rõ hơn về loại tội phạm này chúng ta phải xem xét các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng bao gồm:
1.1.2. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Đây

cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản (Điều 133), tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản (Điều 134), tội cướp giật tài sản (Điều 136) BLHS năm 1999. Đặc điểm
này được thể hiện trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhà làm luật không
quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt. Vì vậy,
nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi
chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Trong luật hình sự, quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Quan hệ xã hội này bị
tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thông qua việc làm biến đổi tình

7


trạng bình thường của những đối tượng vật chất (tài sản) là một bộ phận của quan
hệ sở hữu. Tài sản là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, là vật có
giá trị và giá trị sử dụng. Theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì tài sản bao
gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản [6].
Tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể thuộc bất cứ hình
thức sở hữu nào được pháp luật thừa nhận và phải được thể hiện dưới dạng vật chất
vì những gì không thuộc về thế giới vật chất sẽ không thể là đối tượng của hành vi
chiếm đoạt. Vì vậy, quyền về tài sản không phải mọi trường hợp đều là đối tượng
tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ như Bản di chúc về quyền thừa kế
tài sản của một người. Nhưng những giấy tờ thể hiện quyền về tài sản như hóa đơn
lĩnh hàng... lại có thể là đối tượng của lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những
trường hợp nhất định.
Đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu là các tài sản thuộc sở hữu
của cá nhận, pháp nhân và chủ thể khác...Nếu đối tượng bị xâm hại là tài sản của

Nhà nước thì đó là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i,
khoản 3, Điều 48 của BLHS năm 1999.
Pháp luật nói chung cũng như luật hình sự nói riêng luôn luôn bảo về quyền sở
hữu hợp pháp và chỉ bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp nên về nguyên tắc tài sản được
luật hình sự bảo vệ phải là tài sản hợp pháp. Nhưng điều đó không có nghĩa những
hành vi xâm phạm tài sản bất hợp pháp của công dân khác không bị coi là phạm tội.
Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, dù tài sản đó là tài sản bất hợp pháp vẫn bị coi
là trái pháp luật và có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, pháp luật hình sự
xử lý những người phạm tội lừa đảo để bảo vệ quyền sở hữu và để đảm bảo trật tự
an toàn chung của xã hội.
1.1.3. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, hành vi
khách quan là biểu hiện cơ bản nhất.
Mặt khách quan được quy định trong Luật hình sự có những nội dung sau:
- Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;

8


- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã
hội;
- Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ,
phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội,...).
Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có các dấu hiệu đặc trưng sau:
1.1.3.1. Dấu hiệu hành vi
Cũng như các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác, hành vi
khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ
đoạn gian dối. Người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ tài sản tin nhầm
mà trao tài sản. Vấn đề này được hiểu là người phạm tội đã sử dụng mọi phương

pháp để che giấu bằng cách đưa ra những thông tin không đúng sự thật như dùng lời
nói dối trá; giấy tờ giả mạo; giả danh người có chức vụ quyền hạn; giả danh các tổ
chức để ký kết hợp đồng không ngay thẳng hoặc kết hợp tất cả các cách làm nói
trên. Với những thủ đoạn này người phạm tội làm cho người chủ tài sản tin nhầm
tưởng giả là thật, tưởng kẻ gian là người ngay mà “tự nguyện” trao tài sản để họ
chiếm đoạt tài sản đó. Tức là phải bằng hành vi gian dối thì người chủ tài sản mới
tin và giao cho tài sản; và với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì tội phạm được hoàn
thành khi hành vi chiếm đoạt tài sản đã xảy ra.
Khoản 1 Điều 139 BLHS năm 1999 đã quy định: “… Dùng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản” [9], có nghĩa là thủ đoạn gian dối với hành vi chiếm đoạt có mối
quan hệ chặt chẽ đi liền không thể tách rời nhau.
Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xét về mặt khách quan
là hành vi làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản của mình; tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó. Xét về mặt thực tế, hành vi chiếm đoạt là
quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản, vừa làm cho người chiếm đoạt có
được tài sản. Về mặt pháp lý, quá trình này không làm chủ sở hữu mất quyền sở
hữu mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu.

9


Như vậy, để thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội phải
có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước, sau đó mới dùng thủ đoạn gian dối làm cho
người quản lí tài sản tin trao tài sản cho người phạm tội để người phạm tội chiếm đoạt
tài sản. Nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không
phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy từng trường hợp cụ thể thủ đoạn đó có thể là
hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác như tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Đây cũng là dấu hiệu hay bị nhầm lẫn khi áp dụng trên thực tế.
Đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người bị hại tự nguyện

giao tài sản cho người phạm tội - vì tin tưởng vào những lời nói, việc làm của người
phạm tội và cho rằng việc giao tài sản cho người phạm tội là hoàn toàn đúng đắn.
Nói một cách nôm na, khi bị lừa người bị hại không biết mình đang bị lừa. Đây
cũng là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác.
Trên thực tế, có những trường hợp người phạm tội cũng có thủ đoạn gian dối
với mục đích chiếm đoạt tài sản nhưng những hành vi này đã được BLHS quy định
thành tội độc lập thì không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản mà bị truy cứu về một tội khác tương ứng như: hành vi làm vé tàu, xe giả
đem bán lấy tiền là phạm tội làm vé giả quy định tại Điều 164 của BLHS năm 1999,
hành vi dùng thủ đoạn gian dối trong việc cân, đong, đo, đếm, tính gian,... gây thiệt
hại nghiêm trọng cho khách hàng lại thuộc hành vi phạm tội lừa dối khách hàng quy
định tại Điều 162 BLHS năm 1999, hành vi làm hàng giả, buôn bán hàng giả để lừa
dối người tiêu dùng là hành vi phạm tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả quy định
tại các điều 156, 157, 158 của BLHS năm 1999.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành khi có hậu quả xảy ra,
kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Đây là dạng tội ghép, tội phạm đồng thời
phải thực hiện hai hành vi là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt. Coi là chiếm
đoạt được khi:
Thứ nhất, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản
thì hành vi chiếm đoạt được là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Vì đã tin

10


vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã giao nhầm tài sản cho
người phạm tội.
Ví dụ: A muốn chiếm đoạt chiếc xe máy của B nên hỏi mượn xe của B với lý
do đi đến Ngân hàng rút tiền trong tài khoản. B tưởng thật nên đồng ý cho mượn.
Sau khi mượn được xe, A đem đến hiệu cầm đồ đặt lấy 5 triệu đồng để ăn tiêu, sau

đó bỏ trốn. Như vậy A đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và hành vi chiếm đoạt
được là hành vi nhận xe của B.
Thứ hai, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của người phạm
tội thì hành vi chiếm đoạt được là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ phải giao cho người
bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã nhận
nhầm tài sản (nhận thiếu, nhận sai loại tài sản được nhận). Do đó thủ đoạn gian dối
phải gắn với hành vi chiếm đoạt tài sản.
Qua đó ta thấy được hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
tương tự với hành vi khách quan của nhiều tội phạm khác. Vì vậy, để định tội danh
chính xác phải đặt hành vi khách quan trong mối liên hệ với các yếu tố khác, nghiên
cứu một cách toàn diện các yếu tố cấu thành tội phạm.
1.1.3.2. Dấu hiệu hậu quả
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã
hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
Trước hết, phải khẳng định rằng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có cấu thành
vật chất nên tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt đựơc tài sản.
Hậu quả mà tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra là thiệt hại về tài sản mà cụ
thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Theo khoản 1 Điều 139 BLHS năm 1999 thì giá
trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm; nếu tài
sản bị chiếm đoạt dưới hai triệu đồng thì phải kèm theo điều kiện đã bị xử phạt hành
chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1.1.3.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã

11


hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hậu quả thiệt hại cho quan hệ sở hữu phải là
kết quả của hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản và hành vi phạm tội phải là nguyên

nhân gây ra thiệt hại cho người sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Điều này có
nghĩa là việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ phải xác định hậu quả là
giá trị tài sản bị chiếm đoạt mà còn đòi hỏi làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi lừa đảo với hậu quả đó. Bởi vì, con người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách
quan của họ gây ra.
Mối quan hệ nhân quả trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là:
- Hành vi gian dối phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt tài sản;
- Hành vi gian dối là cơ sở chủ yếu quyết định việc chiếm đoạt được tài sản
của người phạm tội.
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi khách quan và hậu quả không chỉ có ý nghĩa về mặt định tội mà còn có ý
nghĩa trong việc quyết định hình phạt vì việc chiếm đoạt được tài sản của người
phạm tội có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm khác cho xã hội.
1.1.4. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tại Điều 2 BLHS năm 1999 quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự: “Chỉ
người nào phạm một hay nhiều tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự” và Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự,
đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Ngoài ra, ở những tội
nhất định còn đòi hỏi chủ thể phải có các dấu hiệu khác thể hiện những đặc điểm
nhất định của chủ thể. “Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng phải có chủ thể, không có
chủ thể thì không có tội phạm” [7].
Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải có tính có lỗi, chỉ những người có
lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới có thể là chủ thể của tội
phạm, đó là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định.
Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình

12



và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo luật hình sự Việt Nam, người có
năng lực TNHS là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc
trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực TNHS quy định tại Điều 13 BLHS
năm 1999.
Điều 12 BLHS 1999 quy định độ tuổi chịu TNHS như sau:
1. “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [9].
Theo đó, ta thấy được chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngoài việc
thoả mãn về năng lực TNHS phải thoả mãn cả về độ tuổi: Trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự trong mọi
trường hợp phạm tội - quy định từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 139 BLHS năm 1999;
Nguời từ đủ 14 tuổi trở lến đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản theo khoản 3 (đây là tội rất nghiêm trọng - mức cao nhất của khung
hình phạt đến 15 năm tù), khoản 4 (là tội đặc biệt nghiêm trọng - mức cao nhất của
khung hình phạt là chung thân) Điều 139 BLHS năm 1999.
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường nên không có sự
ngoại lệ đối với người nước ngoài, người không quốc tịch khi thực hiện hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên lãnh thổ Việt Nam, trừ một số người được hưởng quyền miễn
trừ tư pháp, trách nhiệm hình sự của họ đựơc giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Như vậy, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đọat tài sản là người từ đủ 14 tuổi trở
lên, có năng lực TNHS và đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy
định tại Điều 139 BLHS năm 1999.
1.1.5. Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đựơc thực hiện do lỗi cố ý,
mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
- Dấu hiệu lỗi trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự Việt Nam, một người


13


chỉ phải chịu TNHS về hành vi nguy hiểm cho xã hội khi họ có lỗi trong việc thực
hiện hành vi đó. Người thực hiện hành vi bị coi là có lỗi nếu họ có sự tự do lựa chọn
thực hiện hành vi đó trong khi họ có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác phù hợp với
đòi hỏi của xã hội: “Một hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là có lỗi, nếu
hành vi đó là kết qủa của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể
có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và quyết định một xử sự khác
phù hợp với đòi hỏi của xã hội” [13].
Về mặt hình thức, lỗi gồm hai yếu tố cấu thành đó là: lý trí - thể hiện khả năng
nhận thức của chủ thể; ý chí - thể hiện khả năng điều khiển hành vi của chủ thể.
Trong luật hình sự Việt Nam, lỗi đựợc chia thành hai loại: Lỗi cố ý và lỗ vô ý.
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp
và được hiểu là:
+ Về mặt lý trí: người phạm tội nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là
nguy hiểm cho xã hội mà cụ thể ở đây là người phạm tội đã xâm phạm đến quyền
sở hữu tài sản của người khác.
+ Về mặt ý chí: người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra mà cụ thể ở đây là
mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác.
- Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
+ Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội
hướng tới nhằm đạt đựơc khi thực hiện tội phạm.
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mục đích của người phạm tội là mong
muốn chiếm đoạt được tài sản, mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm. Mục đích này bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi phạm tội.
Bên cạnh dấu hiệu lỗi, dấu hiệu mục đích chúng ta cũng phải kể đến dấu hiệu
động cơ phạm tội trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện

hành vi phạm tội, động cơ phạm tội trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là động cơ
tư lợi như: do tham lam, để thoả mãn nhu cầu của cá nhân, ... nhưng đây không phải
là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, dấu hiệu

14


động cơ phạm tội không có ý nghĩa đối với việc định tội danh mà chỉ có ý nghĩa
trong quyết định hình phạt.
Việc nghiên cứu khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản có ý nghĩa rất lớn trong việc phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một
số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác.
1.2. Các dấu hiệu định khung tăng nặng
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS năm 1999), quy định bốn
khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội và được sắp xếp theo trình tự tăng
dần về độ nghiêm khắc, đó là khung hình phạt cơ bản, khung tăng nặng thứ nhất
(khoản 2), khung tăng nặng thứ hai (khoản 3) và khung tăng nặng thứ ba (khoản 4).
Trước khi tìm hiểu về ba khung tăng nặng trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chúng
ta tìm hiểu về khung hình phạt cơ bản được quy định tại khoản 1 của điều luật.
Khung hình phạt cơ bản (khoản 1 Điều 139 BLHS năm 1999):
Khoản 1 Điều 139 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, quy định chế tài lựa
chọn giữa hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tù. Người phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có thể bị áp dụng biện pháp cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm khi thoả mãn một trong hai dấu hiệu sau:
- Chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm
mươi triệu đồng;
- Chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới hai triệu đồng nhưng gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã
bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Cấu thành cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều

139 BLHS có nhiều tình tiết là yếu tố định tội, làm ranh giới phân biệt giữa hành vi
phạm tội với hành vi chỉ bị xử lý hành chính.
Khung tăng nặng thứ nhất (khoản 2 Điều 139 BLHS năm 1999):
Khoản 2 Điều 139 BLHS năm 1999, quy định chế tài lựa chọn từ 02 đến 07
năm tù khi thoả mãn một hoặc nhiều dấu hiệu sau:
a) “Có tổ chức;

15


b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng" [7].
Đây là các dấu định khung tăng nặng theo quy định tại khoản 2, các dấu hiệu
này được hiểu như sau:
Thứ nhất: lừa đảo chiếm đoạt tài sản "có tổ chức” - Đây là trường hợp phạm
tội có đồng phạm và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Theo khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 thì: “Phạm tội có tổ
chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực
hiện tội phạm” [11]. Nghĩa là, giữa những người đồng phạm vừa có sự liên kết chặt
chẽ với nhau vừa có sự phân hoá vai trò, phân công nhiệm vụ tương đối rõ ràng và
cụ thể. Nhóm tội phạm được hình thành với phương hướng hoạt động có tính lâu
dài, bền vững. Trong nhóm tồn tại quan hệ chỉ huy - phục tùng. Trong đó, có người
tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, tuỳ trường
hợp có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục
hoặc người giúp sức nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì

mới thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Người thực hành trong tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là người trực tiếp thực hiện thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai: lừa đảo tài sản "có tính chất chuyên nghiệp” - Tức là người phạm tội
lấy việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm nguồn thu nhập chính và là phương tiện sinh
sống của chính mình, người phạm tội phải thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản nhiều lần. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm tội là phương
tiện sinh sống chủ yếu thì không coi là có tính chất chuyên nghiệp và là trường hợp
phạm tội nhiều lần (tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 48 BLHS 1999).

16


Nghị quyết số 01 ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao đã hướng dẫn cụ thể chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp" khi có đầy đủ các điều kiện sau:
- Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị
truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích.
- Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả
của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Thứ ba: người phạm tội thuộc trường hợp "tái phạm nguy hiểm" - Cũng giống
như mọi trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, đây là trường hợp người phạm tội đã
bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa
án tích mà lại phạm tội lừa đảo chiếm đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 3, 4 Điều
139 BLHS năm 1999 hoặc đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội này
(theo khoản 2 Điều 49 BLHS 1999) [22].
Thứ tư: "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức" đây là trường hợp người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như
phương tiện để lừa dối hoặc núp dưới danh nghĩa cơ quan, tổ chức để thực hiện

hành vi lừa dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Đây là tình tiết định khung
hình phạt mới được quy định trên cơ sở tên gọi tội danh của Điều 134a BLHS năm
1985 là điều được sửa đổi bổ sung vào ngày 10/5/1997 (Tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN).
Thứ năm: "Dùng thủ đoạn xảo quyệt" để lừa dảo chiếm đoạt tài sản - Là
trường hợp người phạm tội có những thủ đoạn tinh vi hoặc gian dối cao làm cho
người bị hại và những người khác khó lường trước để đề phòng và cơ quan công an
cũng khó điều tra phát hiện.
Thứ sáu: "Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng" - Đây là trường hợp lấy giá trị tài sản định khung hình phạt.
Thứ bảy: lừa đảo chiếm đoạt tài sản "gây hậu quả nghiêm trọng": Là hành vi
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã gây ra những thiệt hại khác ngoài những

17


thiệt hại mà điều luật đã quy định đủ để cấu thành tội phạm.
Khung tăng nặng thứ hai (khoản 3 Điều 139 BLHS năm 1999):
Khoản 3 Điều 139 BLHS quy định chế tài lựa chọn từ 07 năm đến 15 năm tù
khi thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau:
a. “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;
b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng" [7].
Ở đây, ngoài tình tiết chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến
dưới năm trăm triệu đồng, tình tiết lừa đảo chiếm đoạt tài sản "gây hậu quả rất
nghiêm trọng" được hiểu là trường hợp hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
đã gây thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất cho người bị hại cũng
như cho xã hội (ngoài những thiệt hại mà bộ luật quy định đủ để cấu thành tội
phạm), cụ thể: "Làm chết hai người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương
tật của mỗi người từ 31% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 101% đến 200%,
nếu không thuộc các trường hợp nêu trên; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm
trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; gây thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ và tài sản mà hậu quả bao gồm từ hai đến ba tình tiết nêu trên" [32].
Ngoài những thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản có thể xác định được nêu trên
còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do
hành vi phạm tội gây ra như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Khung tăng nặng thứ ba (khoản 4 Điều 139 BLHS năm 1999):
Khoản 4 Điều 139 BLHS quy định chế tài lựa chọn từ 12 năm đến 20 hoặc tù
chung thân, khi thỏa mãn một hoặc nhiều dấu hiệu sau:
a. “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" [7].
Trong đó, tình tiết "gây hậu qủa đặc biệt nghiêm trọng" là trường hợp hành vi

18


phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã gây ra những thiệt hại về thể chất, về tài sản,
thiệt hại phi vật chất cho người bị hại cũng như cho xã hội (ngoài những thiệt hại
mà điều luật quy định để để cấu thành tội phạm), gồm những trường hợp sau: "Làm
chết ba người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người
trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31
% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với
tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, nếu không thuộc
một trong các trường hợp nêu trên; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm
trăm triệu đồng trở lên; gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả

thuộc bốn điểm trở lên (Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến
hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người
từ 31% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người
với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không
thuộc các trường hợp được nêu trên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 60% và còn gây thiệt hại về
tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; gây thiệt hại về tài sản có
giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng); gây thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai điểm trở lên (trong phần khung tăng nặng thứ
hai nêu trên)" [29].
Ngoài những thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu
trên còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do
hành vi phạm tội gây ra như: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
1.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt khác
1.3.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản:
Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có

19


×