Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

DẪN LUẬN NGÔN NGỮ học hệ CĐCQ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.65 KB, 89 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI

TÀI LIỆU BÀI GIẢNG
(Lƣu hành nội bộ)

DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC
(Dành cho sinh viên cao đẳng hệ chính quy)

Tác giả: Đặng Lê Thủy Tiên

Năm 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÔN NGỮ VÀ NGÔN NGỮ HỌC ................................... 3
1. Ngôn ngữ .................................................................................................................................................. 3
2. Ngôn ngữ học............................................................................................................................................ 9
3. Một số phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học ............................................................................... 12
CHƢƠNG I: NGỮ ÂM HỌC ...................................................................................................................... 14
1. Khái quát về Ngữ âm học ....................................................................................................................... 14
2. Các đơn vị của ngữ âm ........................................................................................................................... 17
3. Bài tập ..................................................................................................................................................... 26
CHƢƠNG II: NGỮ NGHĨA HỌC .............................................................................................................. 26
1. Khái quát về ngữ nghĩa học .................................................................................................................... 26
2. Ngữ nghĩa học từ vựng ........................................................................................................................... 27
3. Ngữ nghĩa học cú pháp ........................................................................................................................... 31
CHƢƠNG 3: NGỮPHÁP HỌC................................................................................................................... 41
1. Khái quát về ngữ pháp học ..................................................................................................................... 41
3. Cú pháp học ............................................................................................................................................ 75
4. Bài tập .................................................................................................................................................... 82


TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................................................. 83


MỞ ĐẦU: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÔN NGỮ VÀ NGÔN NGỮ HỌC
1. Ngôn ngữ
1.1. Ngôn ngữ là gì?
Có ngôn ngữ và khả năng sử dụng ngôn ngữ là đặc trưng quan trọng phân biệt
con người và động vật. Không có một con người bình thường nào không dùng ngôn
ngữ. Ngôn ngữ gần gũi, thân thiết như những gì gần gũi và thân thiết nhất mà con
người có thể có. Nhưng ngôn ngữ là gì? Một trong những câu hỏi đầu tiên mà Ngôn
ngữ học phải trả lời và cũng là một trong những vấn đề đầu tiên mà một người học
Ngôn ngữ học phải biết.
Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu đặc biệt, được dùng để làm phương tiện
giao tiếp quan trọng nhất và phương tiện tư duy của con người.
Trên thế giới hiện nay, có khoảng 7 đến 8 nghìn ngôn ngữ khác nhau, tuy đa
dạng về cơ cấu, sinh động về chủng loại nhưng chúng đều có một đặc điểm chung là
được dùng làm phương tiện giao tiếp, làm công cụ của tư duy, công cụ để nhận thức
của từng cộng đồng người, của từng dân tộc. Mỗi ngôn ngữ đều gắn liền với lịch sử
hình thành và phát triển của từng dân tộc nhất định. Do vậy, nắm bắt được một ngôn
ngữ, chúng ta không chỉ được trang bị thêm về một phương tiện giao tiếp mà còn
được hiểu thêm về một dân tộc nào đó với những đặc trưng văn hoá của họ, cách tư
duy của họ về tự nhiên, xã hội.
Trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta thường dùng những từ như ngôn ngữ của
loài hoa, ngôn ngữ của loài vật, ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ hội họa, ngôn ngữ điêu
khắc, ngôn ngữ cơ thể, ngôn ngữ lập trình, ngôn ngữ toán... Nhưng từ ngôn ngữ
trong những cách dùng như vậy không được hiểu theo nghĩa gốc của nó, mà chỉ được
dùng với nghĩa phái sinh theo phép ẩn dụ, dựa trên cơ sở nét tương đồng giữa ngôn
ngữ với những đối tượng được nói đến: công cụ dùng để biểu đạt, để thể hiện một
điều gì đó.
1.2. Bản chất của ngôn ngữ

1.2.1. Ngôn ngữ là một hiện tƣợng xã hội và là một bộ phận cấu thành quan
trọng của văn hóa
Ngôn ngữ có thể được hiểu như là sản phẩm của nhân loại nói chung hay như
là sản phẩm của một cộng đồng cụ thể. Dù hiểu như thế nào thì ngôn ngữ cũng là
một hiện tượng xã hội. Ngôn ngữ chỉ được hình thành và phát triển trong xã hội.
Không có ngôn ngữ nào tách rời khỏi cộng đồng và không một người nào khi mới
sinh ra, sống tách rời khỏi cộng đồng mà khả năng sử dụng ngôn ngữ được hình
thành. Điều đó làm cho ngôn ngữ khác về cơ bản với những hiện tượng có tính chất
bản năng ở con người như ăn, uống, đi lại.
Ngôn ngữ chỉ được hình thành do quy ước nên không có tính chất di truyền
như những đặc điểm về chủng tộc. Đứa trẻ sinh ra mang những đặc điểm di truyền


của những người thuộc thế hệ trên nó như màu da, màu mắt, màu tóc.... nhưng ngôn
ngữ mẹ đẻ của nó có thể không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ của bố mẹ nó.
Ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là một bộ phận cấu
thành quan trọng của văn hóa. Mỗi hệ thống ngôn ngữ đều mang đậm chất dấu ấn
văn hóa của cộng đồng người bản ngữ. Chính vì vậy, muốn sử dụng một ngôn ngữ,
không chỉ phải biết ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, mà còn phải nắm vững cái dấu ấn
văn hóa được thể hiện trong ngôn ngữ đó nữa. Giữ gìn và phát triền một ngôn ngữ
cũng chính là góp phần giữ gìn và phát triển một nền văn hóa.
1.2.2. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt
Trước hết ngôn ngữ là một hệ thống, ví như tất cả những hệ thống khác, ngôn
ngữ là một thể thống nhất các yếu tố có quan hệ với nhau. Mỗi yếu tố trong hệ thống
ngôn ngữ có thể coi là một đơn vị. Các đơn vị trong hệ thống ngôn ngữ được sắp xếp
theo những quy tắc nhất định. Sự tồn tại của đơn vị ngôn ngữ quy định sự tồn tại của
đơn vị ngôn ngữ kia.
Ngôn ngữ là một hẹ thống dấu hiệu vì mỗi đơn vị ngôn ngữ là một dấu hiệu.
Như tất cả những loại dấu hiệu khác, dấu hiệu ngôn ngữ là một thực thể mà hình
thức vật chất của nó bao giờ cũng biểu đạt một cái gì đó. Nghĩa là một dấu hiệu ngôn

ngữ có hai mặt: hình thức âm thanh và cái mà hình thức đó biểu đạt.
Ví dụ: từ “cây” trong tiếng Việt là một dấu hiệu ngôn ngữ. Âm “cây” chính là
cái biểu đạt. Nói chính xác hơn, hình ảnh âm thanh “cây”, tức là dấu vết tâm lí của
cái âm đó, chứ không phải bản thân âm như một hiện tượng thuần vật lí là cái biểu
đạt, vì cái biểu đạt của dấu hiệu ngôn ngữ tồn tại ngay cả khi ta không phát âm ra
thành lời. Khái niệm “cây” (thực vật có rễ, thân, lá rõ rệt hoặc nhân vật có hình thù
những thực vật có thân, lá) là cái được biểu đạt. Cái biểu đạt của dấu hiệu ngôn ngữ
được tạo nên từ chất liệu âm thanh (theo nghĩa âm thanh như vừa nêu). Khi dấu hiệu
ngôn ngữ được thể hiện bằng chữ viết thì chất liệu âm thanh đó được thay thế bằng
những đường nét.
Theo cách hiểu chung nhất, tín hiệu là dấu hiệu vật chất được qui ước để
báo cho biết điệu gì, để truyền đi một thông báo nào đó.
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu bởi mỗi một đơn vị trong hệ thống ngôn
ngữ đều là những tín hiêụ - mang đầy đủ 4 thuộc tính của tín hiệu: tính hai mặt, tính
võ đoán, tính qui ước và tính hệ thống.
Mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ
không phải là mối quan hệ một đối một (1- 1) mà là mối quan hệ đa trị: một hình
thức thể hiện nhiều nội dung và nhiều hình thức thể hiện một nội dung.
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu không chỉ có giá trị đồng đại mà còn có giá
trị lịch đại. Bởi bất cứ một thứ tiếng nào cũng là sản phẩm của của quá khứ để lại sẽ


tiếp tục tồn tại và phát triển. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp và tư duy vượt thời
gian qua các thời đại, các thế hệ.
Với cách hiểu như vậy, tín hiệu có 4 thuộc tính sau:
a. Tính hai mặt (mặt vật chất và mặt nội dung): mỗi một tín hiệu là một
tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu hiện (vật chất) và cái được biểu hiện
(nội dung).
b. Tính võ đoán: mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là võ
đoán. Vì không có một lí do nào để buộc cái biểu hiện phải thể hiện cái

được biểu hiện.
c. Tính qui ước: vật chất A được “gán” cho nội dung B là do qui ước giữa
các thành viên trong cộng đồng.
d. Tính hệ thống: không có tín hiệu đơn lẻ, mỗi một tín hiệu luôn nằm trong
một hệ thống nào đó. Một hệ thống tín hiệu đơn giản nhất phải tồn tại hai
đơn vị. Một tín hiệu chỉ có giá trị trong hệ thống, ở hệ thống này nó có
giá trị này song trong hệ thống khác nó có giá trị khác.
Chúng ta có thể đưa ra một phép so sánh giữa hệ thống tín hiệu thông
thường và hệ thống tín hiêụ ngôn ngữ như sau:
Hệ thống tín hiệu thông thƣờng
số lượng các yếu tố hữu hạn
cơ cấu tổ chức đơn giản
mối quan hệ vật chất - nội dung là 1-1
chỉ có giá trị đồng đại

Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ
Số lượng các yếu tố là vô hạn
cơ cấu tổ chức phức tạp
không có sự tương ứng 1- 1 giữa vật
chất và nội dung
có giá trị đồng đại và lịch đại

con người hoàn toàn có khả tạo ra và con người luôn phải kế thừa và
huỷ bỏ
chỉ có khả năng định hướng phát
triển

 Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt
1.3. Chức năng của ngôn ngữ
Gắn liền với vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ là vấn đề chức năng của ngôn

ngữ. Ngôn ngữ ra đời do nhu cầu giao tiếp và phát triển cùng sự phát triển của tư duy
con người, do đó ngôn ngữ có hai chức năng chính: chức năng là công cụ giao tiếp
và chức năng là phương tiện của tư duy.


1.3.1. Ngôn ngữ là công cụ của giao tiếp
1.3.1.1 Giao tiếp là gì?
Giao tiếp theo cách hiểu rộng nhất là một hoạt động rất cần thiết trong đời
sống của con người cũng như của loài vật. Đó là một hoạt động có tính hai chiều, là
sự trao đổi tin tức giữa cá thể này với các thể khác để thực hiện một chức năng, một
nhiệm vụ nào đó; như làm cho các thể khác hiểu mình, đáp ứng nhu cầu hay mong
muốn của mình. Đối với loài vật, giao tiếp có thể là sự thông báo trạng thái tâm lý
(sự vui mừng, sự sợ hãi, mối nguy hiểm…) hoặc trạng thái sinh lý (đói, khát, giao
phối…). Như vậy, giao tiếp của loài vật xảy ra do những nguyên nhân có tính bản
năng, di truyền.

Giao tiếp của con người phong phú, đa dạng và khác hẳn về chất so với giao
tiếp của loài vật. Con người không chỉ dùng âm thanh, ánh sáng, điệu bộ, cử chỉ mà
còn dùng các hình vẽ, biểu đồ, cờ hiệu và đặc biệt là ngôn ngữ để giao tiếp. Bằng
ngôn ngữ, con người không chỉ mô tả được các thuộc tính, các mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng trong thực tế, mà còn biểu thị được các hoạt động, các mối liên hệ
trong thế giới tưởng tượng (cuộc sống dưới âm ty, trên thiên đường). Bằng ngôn ngữ
con người có thể mô tả được các sự vật hiện tượng các mối quan hệ của chúng ở
những khoảng thời gian khác nhau (trong hiện tại, quá khứ hoặc tương lai). Bằng
ngôn ngữ, con người trao đổi với nhau các thông tin về tư tưởng, tình cảm, trí tuệ…
để cùng hiểu nhau, thông cảm cho nhau, cùng hành động trong việc tìm hiểu và cải
tạo thế giới để phục vụ cho lợi ích của con người.
1.3.1.2. Giao tiếp ngôn ngữ là gì?
Trước hết cần phân biệt giao tiếp và thông tin. Thông tin chỉ là sự cung cấp tin
tức đơn thuần, mang tính chất một chiều. Giao tiếp ngôn ngữ cũng như giao tiếp

bằng các phương tiện khác là thông tin đa chiều, ít nhất cũng có hai chiều: phát và
nhận. Mỗi chiều có một vai nghĩa. Trong giao tiếp ngôn ngữ hình thành các vai giao
tiếp: nguồn - đích = người nói - người nghe. Giữa hai vai này thiết lập một mối liên
hệ tiếp xúc và phân chia lợi ích về mặt thông tin. Trong giao tiếp ngôn ngữ còn có
thể xuất hiện vai thứ ba là người quan sát hay bình luận và vai này luôn có khả năng
chen vào hình thành vai người nói hoặc người nghe. Dù hai chiều hay đa chiều thì
đều phải có sự trao đổi thông tin hai chiều.
1.3.1.3 Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời
Do yêu cầu giao tiếp mà ngôn ngữ hình thành và có thể nói rằng nếu không có
giao tiếp thì không có ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một phương tiện để giao tiếp, để liên
kết những cá thể thành cộng đồng xã hội. “ở đâu có giao tiếp thì ở đó có ngôn ngữ
và khi ngôn ngữ xuất hiện thì đó là ngôn ngữ của tôi đồng thời là ngôn ngữ của
anh”(Mác)


Ngoài ngôn ngữ, con người vẫn có thể giao tiếp bằng nhiều các phương tiện
khác nhưng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất.
Ngôn ngữ có khả năng biểu đạt cực kỳ to lớn mà không một hệ thống kí hiệu
nào có được. Ngôn ngữ có thể thay thế (dịch, giải thích) được tất cả các phương tiện
khác mà không có chiều ngược lại.
Đặc biệt khi có chữ viết, ngôn ngữ có thể mở rộng giao tiếp qua không gian,
vượt thời gian…
Các phương tiện giao tiếp khác là hết sức hữu hạn và nghèo nàn so với ngôn
ngữ. Dùng ngôn ngữ, con người dễ dàng diễn đạt được một cách chính xác, cụ thể,
phong phú, đa dạng tất cả mọi suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc… rất đa dạng
và phức tạp của mình.
1.3.1.4. Chức năng làm phƣơng tiện tƣ duy

Ngôn ngữ của con người không chỉ tồn tại dưới dạng thành tiếng mà có thể tồn
tại dưới dạng biểu tượng âm thanh ở trong óc, dãy chữ viết ở trên giấy (trong thực tế

con người có thể nói một mình, đọc một mình, viết ra giấy mà không nhằm trao đổi
với ai).
Ngôn ngữ và tư duy thống nhất với nhau: không có ngôn ngữ thì cũng không
có tư duy và ngược lại không có tư duy thì ngôn ngữ cũng chỉ là các âm thanh trống
rỗng (thực chất không có ngôn ngữ).
Ngôn ngữ và tư duy thống nhất những không đồng nhất. Sự không đồng nhất
đó thể hiện rõ nét nhất là ở mối quanhệ của chúng với hiện thực. Chúng ta hãy xem
xét chức năng của từng yếu tố.
Chức năng quan trọng nhất của tư duy là phản ánh thế giới khách quan. Sự
vật, hiện tượng trong thực tế khách quan tác động lên các giác quan của con người
với tất cả các đặc điểm riêng của chúng được đưa về bộ óc của chúng ta qua các dây
thần kinh được phân bố khắp cơ thể. Tại đây, bộ óc làm việc và cho một kết quả cuối
cùng là các khái niệm, phán đoán, suy lý. Những kết quả đó ta gọi là tư duy (tư
tưởng).
Chức năng trọng yếu nhất của ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp. Con người
dùng ngôn ngữ để truyền đạt tư tưởng, để thông báo.
Tư duy có tính nhân loại, còn ngôn ngữ có tính dân tộc. Tư duy là một phạm
trù của logíc học. Như vậy, ngôn ngữ là công cụ cho tư duy, là công cụ cho sự hình
thành các khái niệm, là công cụ cho sự diễn đạt các phán đoán và đồng thời là
phương tiện giao tiếp.
a. Chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ


Chức năng gia tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện tư duy, bởi
việc giao tiếp bằng ngôn ngữ chỉ có thể giúp người ta trao đổi tư tưởng, tình cảm với
nhau, do đó hiểu biết lẫn nhau và cùng tổ chức công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt
động nếu bản thân ngôn ngữ tàng trừ những kinh nghiệm những tư tưởng và tình
cảm của con người. Chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ biểu hiện trên hai khía
cạnh:
b. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng

Nếu không có ngôn ngữ làm công cụ ghi lại kết quả các quá trình nhận thức
thế giới - những tư tưởng thì không thể nào nắm bắt được tư duy một cách hoàn toàn
và chính xác. Không có từ nào, câu nào mà lại không biểu hiện khái niệm hay tư
tưởng. Ngược lại không có ý nghĩ, tư tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hiện thực thực tế của tư tưởng.
c. Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng
Mọi ý nghĩ, tư tưởng chỉ trở nên rõ ràng khi được biểu hiện bằng ngôn ngữ cho
dù đấy là ngôn ngữ tồn tại dưới dạng âm thanh thành tiếng hay ngôn ngữ tồn tại dưới
dạng biểu tượng âm thanh. Mặt khác, nhờ có chức năng thông báo của ngôn ngữ mà
những kết quả tư duy của con người mới được phổ biến và ngày càng phát triển phức
tạp. Đến lượt nó, khi tư duy phát triển phức tạp thì ngôn ngữ cũng phải thay đổi, phải
hoàn thiện để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giao tiếp thông báo. Khi tư duy
trong sáng thì thường ngôn ngữ biểu hiện ra cũng rõ ràng. Tư duy lộn xộn thì ngôn
ngữ cũng mơ hồ, khó hiểu. Điều đó chứng tỏ rằng giữa ngôn ngữ và tư duy có sự gắn
bó mật thiết.
d. Ngôn ngữ là phương tiện sáng tạo nghệ thuật (thi pháp)
Xã hội loài người phát triển từ bậc thấp lên bậc cao. Qua lao động bắt đầu biến
đổi thế giới và chính mình. Con người vừa khám phá thế giới vừa sáng tạo lại thế
giới, phản ánh những cái xung quanh mình và nhân loại bắt đầu xuất hiện khái niệm
"văn hoá" và trong văn hoá có thành tố rất quan trọng đó là nghệ thuật (con người
bên cạnh tư duy logic xuất hiện thêm một tư duy mới - tư duy hình tượng hay nghệ
thuật) nhờ tư duy hình tượng con người có thể tái tạo thế giới quanh ta bằng hình
tượng hay hình ảnh. Ngày nay nghệ thuật làm phong phú thế giới tinh thần của
chúng ta (nghệ thuật điêu khắc, âm nhạc, hội hoạ...)
Nghệ thuật của văn chương là nghệ thuật thi pháp (nghệ thuật tạo hình từ chất
liệu ngôn ngữ)
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.



2. Ngôn ngữ học
2.1 Ngôn ngữ học là gì?
Nói một cách khái quát nhất “Ngôn ngữ học (Linguistics) là một khoa học
nghiên cứu về ngôn ngữ của loài người” (A.Martinet). “Ngôn ngữ của loài người” ở
đây cần được hiểu không chỉ như một công cụ giao tiếp trọng yếu nhất của loài
người nói chung, mà còn là các thứ tiếng cụ thể của các cộng đồng người, các dân
tộc khác nhau trên thế giới.
Nói như vậy, Ngôn ngữ học là ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ nói
chung và từng ngôn ngữ cụ thể nói riêng.
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học
Đối tượng nghiên cứu của Ngôn ngữ học là ngôn ngữ. Song ngôn ngữ của con
người là một đối tượng đa dạng, đa diện và vô cùng phức tạp. Ngôn ngữ không chỉ là
tất cả những đơn vị, sự kiện và hiện tượng cấu thành ngôn ngữ mà còn là hoạt động
nói năng của con người.
Nếu như các ngành khoa học khác ngay từ đầu đã xác định được rõ ràng đối
tượng nghiên cứu thì Ngôn ngữ học không có cái may mắn đó. Ngôn ngữ học trong
suốt quá trình phát triển của mình và cho đến ngày nay vẫn đang tìm kiếm cho mình
đối tượng nghiên cứu.

Với cách nhìn tĩnh tại, coi ngôn ngữ như một đối tượng độc lập tách biệt khỏi
bối cảnh sử dụng và người sử dụng thì đối tượng chủ yếu của Ngôn ngữ học được
định hình gồm các nội dung sau:
Bản chất xã hội của ngôn ngữ: Ngôn ngữ gắn liền với con người, với xã hội, do
vậy, tìm hiểu bản chất xã hội của ngôn ngữ là một trong những nhiệm vụ cơ bản
của Ngôn ngữ học. Với nội dung này, Ngôn ngữ học phải giải đáp được những
vấn đề cơ bản như: nguồn gốc hình thành và sự phát triển của ngôn ngữ, bản chất
và chức năng cơ bản của ngôn ngữ…
- Hệ thống cấu trúc ngôn ngữ: Ngôn ngữ học phải mô tả một cách khoa học hệ
thống cấu trúc ngôn ngữ. So với các hệ thống khác, hệ thống ngôn ngữ có những
đặc trưng gì khác biệt để nó có thể thực hiện được chức năng giao tiếp.

Ngôn ngữ học không chỉ nghiên cứu ngôn ngữ nói chung mà còn phải nghiên
cứu những đặc điểm riêng biệt của từng ngôn ngữ cụ thể, phải tìm ra cái chung và cái
riêng trong các ngôn ngữ, xác định mối quan hệ họ hàng giữa chúng, … tiến hành
phân loại một cách hệ thống các ngôn ngữ trên thế giới…
-

Với những nội dung trên, Ferdinand de Saussure khẳng định: “Đối tượng duy
nhất và chân chính của Ngôn ngữ học là ngôn ngữ, xét trong bản thân nó và vì bản
thân nó”


Với cách nhìn “động” hơn, ngôn ngữ được xem xét trong bối cảnh giao tiếp và
gắn liền với người sử dụng thì đối tượng nghiên cứu của Ngôn ngữ học được mở
rộng hơn. Để nhận diện rõ đối tượng nghiên cứu của Ngôn ngữ học chúng ta cần
phải phân biệt các khái niệm: ngôn ngữ, lời nói, hoạt động ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và trọng yếu nhất của mọi thành
viên trong một cộng đồng xã hội; đối với cộng đồng này, hệ thống ngôn ngữ đồng
thời cũng là phương tiện tư duy, phương tiện để tiếp nhận, tích luỹ và truyền đạt
truyền thống văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. “Nó vừa là một sản
phẩm xã hội của năng lực ngôn ngữ, vừa là một hợp thể gồm những quy ước tất yếu
được tập thể xã hội chấp nhận, để cho phép các cá nhân vận dụng năng lực này”
(F.de.Saussure)
Lời nói là hành động của cá nhân, của người sử dụng hệ thống ngôn ngữ
chung để có tác động đến các thành viên khác của xã hội nói cùng thứ ngôn ngữ ấy;
là hành động của cá nhân khi dùng những phương tiện ngôn ngữ khác nhau vốn có
của tập thể xã hội ấy để truyền đạt đi những nội dung khác nhau nhằm mục đích
truyền đạt thông tin, kêu gọi người nghe có hành động tương ứng.
Hoạt động ngôn ngữ được hiểu như sau: trong giao tiếp diễn ra hiện tượng
trao đổi các ngôn bản (lời nói), nó một mặt là hành động nói - sản sinh ngôn bản, mặt
khác nó là hành động hiểu và lĩnh hội ngôn bản của người cùng đối thoại. Các hành

động nói và hiểu đó được gọi là các hành động ngôn ngữ. Hệ thống các hành động
ngôn ngữ là hoạt động ngôn ngữ.
Ngôn ngữ và lời nói thống nhất nhưng không đồng nhất. Ngôn ngữ là hệ thống
các đơn vị vật chất ở dạng tiềm năng, trừu tượng hóa khỏi bất cứ một sự áp dụng cụ
thể nào. Lời nói là kết quả của sự hiện thực hoá những đơn vị ngôn ngữ vào giao tiếp
gắn liền với những nội dung cụ thể. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói là mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng: cái chung chỉ có thể tồn tại trong cái riêng,
thông qua cái riêng; bất cứ cái riêng nào cũng đều có tính chất chung. Ngôn ngữ
chính là hệ thống những yếu tố và nguyên tắc chung có giá trị định hướng, làm cơ sở
để cấu tạo nên các cái riêng (lời nói). Hoạt động ngôn ngữ chính là tập hợp các hoạt
động sử dụng cái chung để tạo nên những cái riêng và hoạt động hiểu những cái
riêng thông qua cái chung.
2.3. Hệ thống và cấu trúc ngôn ngữ
Theo cách hiểu chung nhất, hệ thống là một thể thống nhất bao gồm các yếu tố
có sự ràng buộc lẫn nhau theo một cách thức nhất định. Mỗi một yếu tố trong số này
chỉ thể hiện tính xác định định tính của mình trong thành phần của chỉnh thể, của
toàn bộ tập hợp.
Hệ thống là một thể thống nhất của những yếu tố mà giữa các yếu tố có những
quan hệ quy định lẫn nhau và chính quan hệ giữa các yếu tố sẽ đem lại giá trị cho
từng yếu tố. (F. De. Saussure)


Ta chỉ có thể nói đến sự tồn tại của một hệ thống chỉ khi các yếu tố tham gia
vào những mối quan hệ nào đó với các yếu tố khác không phải theo kiểu mỗi yếu tố
chỉ biết riêng bản thân mình, mà là trong thành phần của một chỉnh thể có tổ chức.
Tức là, khi tham gia vào những mối quan hệ nào đó thì nó không tham gia với tư
cách là một đơn vị riêng lẻ.
Các yếu tố tạo nên hệ thống liên kết với nhau thành một chỉnh thể có tổ chức
nhằm mục đích nhất định và để đạt được mục đích, mỗi yếu tố đều phải thực hiện
một chức năng nào đó. Nói khác đi, các nhân tố liên kết các yếu tố thành hệ thống là

kết quả, mục đích mà hệ thống cần đạt tới; hoạt động của hệ thống luôn được định
hướng bởi mục đích này.
Thông thường, trong hệ thống các mối quan hệ liên kết các yếu tố của nó
không phải là đồng loại: một số quan hệ thì chặt chẽ, một số quan hệ khác thì kém
chặt chẽ hơn. Hơn thế, những quan hệ này còn khác nhau về chất. Nói cách khác,
trong lòng một hệ thống (phức tạp, tương đối phức tạp) lại có những tiểu hệ thống và
trong những tiểu hệ thống đó có một số tiểu hệ thống liên hệ với nhau theo quan hệ
tầng bậc, những tiểu hệ thống khác thì liên hệ với nhau theo quan hệ song song.
2.3.1. Khái niệm cấu trúc
Đi cùng với khái niệm hệ thống là khái niệm cấu trúc. Nếu hệ thống là một tập
hợp các yếu tố liên kết với nhau bằng những quan hệ nhất định, thì cấu trúc là kiểu
của các quan hệ này. Cờu trúc là phương thức tổ chức hệ thống. Như vậy, cấu trúc là
thuộc tính, đặc trưng của hệ thống. Nếu chúng ta biết được cơ cấu của hệ thống (biết
được các tiểu hệ thống, mối liên hệ giữa các tiểu hệ thống, mối liên hệ giữa các yếu
tố trong tiểu hệ thống) tức chúng ta biết được cấu trúc của hệ thống đó.
Theo cách hiểu chung nhất thì cấu trúc là tổ chức bên trong của hệ thống, là
tổng thể các mối quan hệ trong hệ thống, là phương thức tổ chức mạng lưới của các
yếu tố trong nội bộ hệ thống.
2.3.2. Mối quan hệ giữa hệ thống và cấu trúc
Một đối tượng trọn vẹn là một hệ thống bao gồm các yếu tố và cấu trúc là tổng
thể các mối quan hệ giữa các yếu tố đó.
Một hệ thống khi bị phá vỡ cấu túc thì không còn là hệ thống nữa mặc dù các
yếu tố vẫn tồn tại. Ngược lại, khi các yếu tố đơn lẻ được tổ chức lại, kết cấu với nhau
cho một mục đích nào đó, thực hiện một chức năng nào đó thì lại trở thành hệ thống.
Mỗi một yếu tố trong hệ thống luôn có nhiều mặt, nhiều thuộc tính mà khi kết
hợp, tác động với các yếu tố khác của hệ thống thì không phải tất cả các mặt, các
thuộc tính của nó đều tham gia mà chỉ có một (một số) mặt, một (một số) thuộc tính
của nó tham gia mà thôi. Cùng một số các yếu tố khi tác động lẫn nhau bằng các mặt,
các thuộc tính khác nhau thì tạo nên các hệ thống khác nhau.



2.3.3. Các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ
Khác với nhiều hệ thống khác, ngôn ngữ là một hệ thống rất phức tạp, gồm
những yếu tố đồng loại và không đồng loại với nhau. Các đơn vị ngôn ngữ được sắp
xếp theo các cấp độ sau:
a. Cấp độ âm vị: là cấp độ của các ân vị, đơn vị âm cơ bản nhỏ nhất của hệ thống
ngôn ngữ. bản thân âm vị không có nghĩa, mà chỉ có chức năng tạo vỏ ngữ âm của
các đơn vị mang nghĩa. Nói cách khác, âm vị chỉ có chức năng khu biệt nghĩa.
b. Cấp độ hình vị: là cấp độ của các hình vị, đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa.
Trong từ “con mèo” có 2 hình vị, trong từ “teacher” tiếng Anh có 2 hình vị.
c. Cấp độ từ: là cấp độ của các từ, đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng hoạt động
độc lập, tức có khả năng đảm nhiệm một chức năng cú pháp trong câu hay có quan
hệ kết hợp với những đơn vị có khả năng đó.
d. Các đơn vị thuộc bình diện lời nói: Ngoài âm vị, hình vị và từ, nhiều tài liệu ngôn
ngữ học còn đề cập đến ngữ đoạn và câu như những đơn vị ngôn ngữ. Tuy nhiên,
đứng trên quan điểm phân biệt chặt chẽ hai bình diện ngôn ngữ và lời nói thì chỉ có
âm vị, hình vị vầ từ mới được xem là những đơn vị thuộc hệ tôn ti của các đơn vị
ngôn ngữ. Còn ngữ đoạn và câu thuộc bình diện lời nói, vì chúng không phải là đơn
vị có sẵn mà chỉ được hình thành khi nói và số lượng vô hạn.
Ngữ đoạn là đơn vị lời nói đảm nhiệm một chức năng cú pháp trong câu. Câu là đơn
vị lời nói nhỏ nhất dùng đề giao tiếp. Đoạn văn và văn bản cũng là những đơn vị lời
nói dùng để giao tiếp, tuy nhiên đó không phải là những đơn vị lời nói nhỏ nhất thực
hiện chức năng này.
3. Một số phƣơng pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học
3.1. Phƣơng pháp luận ngôn ngữ học
Phƣơng pháp luận (methodologie) là lý luận chung về phương pháp nhận
thức, nêu lên những phương pháp nhận thức cụ thể và phạm vi sử dụng chúng phù
hợp với đối tượng nghiên cứu là ngôn ngữ.
Phƣơng pháp luận ngôn ngữ học, theo quan điểm chủ nghĩa Mác Lê-nin,
lấy chủ nghĩa DVBC và CNDVLS làm cơ sở để xây dựng mối quan hệ giữa

phương pháp và lý luận đặc thù ngôn ngữ học với thế giới quan Mác Lê-nin. Hiển
nhiên là tự bản thân chúng, các phương pháp không thể được dựng lên thành
phương pháp luận, hoặc lý thuyết nhận thức trong ngôn ngữ học.
3.2. Phƣơng pháp ngôn ngữ học

Phƣơng pháp (PP) là sự khái quát hóa các biện pháp và thủ pháp đặc thù,
chuyên dùng trong nghiên cứu ngôn ngữ.
Hệ phƣơng pháp là toàn bộ các biện pháp, các thủ pháp khác nhau được
vận dụng để tiến hành phân xuất và đưa ra xem xét các sự kiện ngôn ngữ.
3.3. Các thủ pháp nghiên cứu

Các thủ pháp, biện pháp NC là những thao tác, cách xử lý các thông tin cụ
thể thuộc về một phương pháp, phương thức nghiên cứu xác định.
Trong NNH, thuật ngữ PP không chỉ được dùng với nhiều nghĩa khác nhau,


mà ngay trong những nhà nghiên cứu cũng phân loại PP theo nhiều cách khác nhau
do dựa vào các cơ sở khác nhau.
Nếu cùng xuất phát từ cả hai phía (bên trong và bên ngoài) trong việc xác
định PPNCNNH, thì về cơ bản có thể nói đến ít nhất ba PPNNH sau:
1- Phương pháp miêu tả
2 - Phương pháp so sánh
3 - Phương pháp đối chiếu
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng chỉ có hai phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ
quan trọng: Phương pháp miêu tả và và phương so sánh. Phương pháp đối chiếu
cũng là một loại phương phương so sánh, nằm trong phương pháp so sánh.
3.4. Các phƣơng tiện miêu tả

Theo Nguyễn Thiện Giáp (2009, tr.16), phương tiện miêu tả là một đơn vị,
một mô hình cấu tạo, mạch ngữ điệu,... được dùng trong lời nói để biểu hiện

những kiểu nội dung khác nhau, truyền đạt những thông tin khác nhau. Phương
tiện miêu tả là hình thức bên ngoài của một thủ pháp nào đó. Căn cứ vào đặc điểm
miêu tả, có thể chia các phương tiện miêu tả thành miêu tả hình thức hóa và miêu
tả không hình thức hóa, miêu tả bằng lời và miêu tả không bằng lời.


CHƢƠNG I: NGỮ ÂM HỌC
Dạng vật chất cơ bản, hình thức tồn tại cơ bản của ngôn ngữ là âm thanh - âm
thanh của ngôn ngữ - ngữ âm.
Ngôn ngữ biểu hiện dưới hình thức âm thanh luôn là hình thức giao tiếp quan
trọng nhất của xã hội loài người. Âm thanh ngôn ngữ luôn là hình thức tồn tại chủ
yếu, là chỗ dựa cho các hình thức tồn tại khác.
Đặc biệt, đối với việc học ngoại ngữ, nghiên cứu ngữ âm có tác dụng quyết
định trong giai đoạn đầu và hỗ trợ trong suốt quá trình nắm vững bất cứ một ngôn
ngữ nào (đặc biệt là đối với các ngôn ngữ sử dụng hệ thống chữ viết ghi âm). Vì cả
bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết đều liên quan trực tiếp đến việc nắm vững ngữ âm
- hình thức âm thanh của ngôn ngữ.
1. Khái quát về Ngữ âm học
1.1. Đối tƣợng của Ngữ âm học
Ngữ âm học là khoa học nghiên cứu về âm thanh của ngôn ngữ. Bộ môn này
còn nghiên cứu mối quan hệ giữa chữ viết và hình thức âm thanh của ngôn ngữ.
Tương ứng với hai mặt tự nhiên và xã hội của ngữ âm, Ngữ âm học có hai
môn môn khác nhau:
Ngữ âm học (nghĩa hẹp): Đây là phân môn nghiên cứu mặt tự nhiên của ngữ
âm, tức là phân tích miêu tả âm thanh của ngôn ngữ theo góc nhìn sinh lí học (Ngữ
âm học cấu âm) hoặc vật lí học (Ngữ âm học âm học), hay theo sự tiếp nhận của
người nghe (Ngữ âm học thính giác). Ngữ âm học nghĩa hẹp áp dụng các phương
pháp khoa học tự nhiên nghiên cứu những đặc trưng vật lí hay âm học của các âm
thanh thực tế và những phương cách cấu âm của chúng, không cần biết chúng thuộc
vào ngôn ngữ nhất định nào.

Âm vị học: Đây là phân môn nghiên cứu mặt xã hội hay chức năng của ngữ
âm trong từng ngôn ngữ. Phân môn này, với những phương pháp và khái niệm riêng
của mình, sẽ cho ta biết trong một ngôn ngữ nhất định có những đơn vị ngữ âm gì,
đặc điểm phân bố và sự tương tác của chúng ra sao trong khi kết hợp thành các phát
ngôn. Nói cách khác, đối tượng của âm vị học là sự tổ chức của ngữ âm trong một
ngôn ngữ cụ thể.
1.2. Bản chất và cấu tạo của ngữ âm
1.2.1. Về mặt âm học
Cũng như các âm khác trong tự nhiên, âm trong ngôn ngữ là một sự chấn
động của không khí bắt nguồn từ sự rung động của một vật thể nào đó.


Âm truyền đi trong không khí dưới hình thức những làn sóng nối tiếp nhau,
với tốc độ chừng 340m/giây. Mỗi âm được phân biệt bằng ba yếu tố sau đây:
1.2.1.1. Độ cao
Cao độ do tần số dao động (chu kỳ dao động của vật thể được thực hiện trong
một giây) của vật thể quyết định và tỷ lệ thuận với tần số dao động.
Cao độ của âm thanh lời nói được quyết định bởi tần số dao động của dây
thanh. Dây thanh chấn động càng nhanh - tần số càng cao, thì cho ra những âm càng
cao. Dây thanh chấn động chậm - tần số càng thấp, thì cho ra những âm càng thấp.
Do cấu tạo của dây thanh là khác nhau ở mỗi cá nhân, nên âm thanh lời nói ở
mỗi cá nhân là không như nhau về cao độ. Đó là cao độ tuyệt đối: cao độ tồn tại
giữa những chủ thể nói năng khác nhau khi so sánh giọng của họ với nhau. Song
trong cùng một chủ thể nói năng, có khi lên cao hay xuống thấp giọng. Đó là cao độ
tương đối: cao độ tồn tại giữa những thời điểm phát âm của cùng một chủ thể khi so
sánh chúng với nhau. Như vậy, nếu cao độ tuyệt đối giải thích vì sao giọng phụ nữ
và trẻ em thường cao hơn giọng đàn ông và ngươì lớn; thì cao độ tương đối có giá
trị biểu đạt tư tưởng, tình cảm…, là yếu tố tạo nên thanh điệu, trọng âm, ngữ điệu
của lời nói.
1.2.1.2. Cường độ(độ to)

Cường độ do biên độ dao động - trị số lớn nhất có thể đạt được của một vật
thể biến thiên tuần hoàn trong một nửa chu kì - của vật thể quyết định.
Cường độ âm thanh ngôn ngữ được quyết định bởi độ mạnh, tức là biên độ
giao động của dây thanh. Dây thanh chấn động mạnh so với tư thế nghỉ - biên độ
giao động lớn thì âm thanh phát ra mạnh và ngược lại.
Trong âm thanh lời nói, cường độ tương đối là yếu tố cơ bản để biểu đạt tư
tưởng. Nó là yếu tố cơ bản tạo nên hiện tượng trọng âm.
1.2.1.3. Âm sắc (sắc thái của âm thanh)
Âm thanh ngôn ngữ cũng như hầu hết các âm thanh tự nhiên đều là phức hợp
của một âm trầm nhất (có tần số thấp nhất) - âm cơ bản và một loạt âm cao hơn (có
tần số bằng bội lần tần số âm cơ bản) - hoạ âm.
Âm sắc là sắc thái riêng của âm. Âm sắc được tạo nên do mối tương phản
giữa âm cơ bản và các hoạ âm về cao độ và cường độ.
Nguồn gốc của sự khác nhau về âm sắc là do sự khác nhau của các hộp cộng
hưởng. Nói cụ thể hơn là do các khoang cộng hưởng khác nhau có tần số dao động
riêng khác nhau. Khi âm thanh đi qua một khoang cộng hưởng thì sẽ có một (một
số) hoạ âm nào đó có cùng tần số dao động với tần số dao động riêng của khoang
cộng hưởng nên sẽ bị cộng hưởng là cho âm thanh bị biến đổi đi; khi đi qua một
khoang cộng hưởng khác thì sẽ có một (một số) hoạ âm khác bị cộng hưởng và âm
thanh lại bị biến đổi khác đi.


Miệng của con người với tư cách là hộp cộng hưởng do vị trí của lưỡi, môi,
hàm thay đổi mà trở thành muôn vàn các hộp cộng hưởng khác nhau tạo nên cho âm
thanh lời nói có những sắc thái khác nhau. Các nguyên âm khác nhau là do chúng
có âm sắc khác nhau.
1.3. Về mặt cấu âm
Xem xét ngữ âm về mặt cấu âm tức là đứng về góc độ của người nói, góc độ
nguồn gốc phát sinh của ngữ âm.
1.3.1. Bộ máy cấu âm

Âm thanh của ngôn ngữ được tạo ra do sự hoạt động của bộ máy cấu âm của
con người. Bộ máy đó gồm phổi, thanh hầu và các khoang trên của thanh hầu. Các
chủng tộc đều có bộ máy cấu âm về cơ bản như nhau, chính vì vậy mà về nguyên
tắc không thể có âm nào người bản ngữ phát được mà người nước ngoài lại không.
Phổi và khí quản cung cấp và dẫn truyền luồng hơi, chứ không tham
gia trực tiếp vào việc phát âm.
Thanh hầu: là bộ phận trên cùng của khí quản, nhìn từ phía ngoài, đó là
chỗ nhô ra ở cổ người đàn ông hay người gầy ốm.
Vị trí và cấu tạo của dây thanh
Dây thanh là hai cơ mỏng nằm sóng nhau theo chiều dọc trong thanh hầu.
Trong thanh hầu có hai sụn hình chóp điều khiển hoạt động của dây thanh.
-

Cơ chế hoạt động của dây thanh

Do dây thần kinh chỉ huy, dưới sự điều khiển của hai sụn hình chóp, hai mép
của dây thanh khép lại làm cho áp suất không khí trong khí quản tăng lên. Sau một
thời gian ngắn, thanh môn mở ra cho phép luồng không khí đi từ khí quản lên thoát
ra ngoài. Thanh môn tiếp tục đóng rồi lại mở ra, … - dây thanh chấn động. Cứ như
vậy, dây thanh chấn động làm cho luồng không khí đi ra từ phổi thành từng đợt
cách nhau đều đặn tạo nên sóng âm. Các sóng âm này tiếp tục đi ra ngoài qua các
khoang cộng hưởng.
-

Các khoang cộng hƣởng:
Vị trí và cấu tạo

Miệng và mũi được ngăn ra bởi vòm miệng (vòm miệng được ngăn bởi ngạc
ở phía trước và mạc ở phía sau). Trong miệng, lưỡi khi nâng lên tạo thành hai
khoang: khoang miệng ở phía trước và khoang yết hầu ở phía sau. Yết hầu có một

lỗ nhỏ thông lên mũi, khi cần thiết được đóng lại bằng lưỡi con.
Miệng, mũi, yết hầu là ba khoang trống đóng vai trò của những hộp cộng
hưởng. Riêng yết hầu và miệng do hoạt động của lưỡi và môi nên có thể thay đổi về
thể tích, hình dáng, lối thoát không khí nên là hai khoang cộng hưởng quan trọng
nhất.
-

Cơ chế hoạt động


Các sóng âm đi qua các khoang cộng hưởng phụ thuộc vào sự thay đổi thể
tích, hình dáng và lối thoát không khí của các khoang này, sẽ bị biến đổi đi tạo
thành các âm có âm sắc khác nhau.
2. Các đơn vị của ngữ âm
2.1. Âm tố (phone, sound)
2.1.1.Khái niệm âm tố
Xét về mặt cơ sở tự nhiên, đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, chiếm một đoạn trong lời
nói là âm tố. Để ghi âm tố người ta theo quy ước chung, đặt kí hiệu ngữ âm trong
dấu ngoặc vuông.
Xét một số các khúc đoạn của lời nói “ba”, “hát”, “toàn” trong tiếng Việt;
“big”, “cat”, “car” trong tiếng Anh. Có thể thấy mỗi khúc đoạn âm thanh trên có
thể được phân chia thành những đơn vị nhỏ hơn. Xét về mặt cấu tạo, để tạo được
bất cứ một khúc đoạn âm thanh nào, hoạt động của cơ quan phát âm phải trải qua
những quá trình khác nhau về vị trí của lưỡi, sự tham gia của dây thanh, hình dáng
của môi, … Xét về mặt thẩm nhận âm thanh bằng thính giác, thì rõ ràng mỗi khúc
đoạn âm thanh trên (nói riêng) cũng như tất cả các khúc đoạn âm thanh của bất cứ
ngôn ngữ nào cũng đều phải được tạo nên bởi những thành tố không đồng chất nhỏ
hơn: “ba” gồm “b” và “a”; “hat” gồm “h”, “a” và “t”; hơn thế, mỗi đơn vị như
vậy lại được phát âm hết sức khác nhau ở các cá nhân khác nhau, thậm chí ngay
cùng một cá nhân trong những bối cảnh phát âm khác nhau. Những đơn vị như vậy

gọi là âm tố.
Như vậy có thể thấy, âm tố là những đơn vị cấu âm - thính giác nhỏ nhất
không thể phân chia được của âm thanh lời nói.
2.1.2. Phân loại âm tố
Số lượng âm tố là vô hạn, tuy nhiên giưã chúng có một số đặc trưng âm học
cũng như cấu âm chung nào đó cho phép phân loại chúng thành những tập hợp nhỏ
hơn mà hai tập hợp lớn đầu tiên là nguyên âm và phụ âm.
2.1.2.1. Nguyên âm (vowel)
a. Khái niệm nguyên âm
Nguyên âm là những âm chỉ bao gồm tiếng thanh, không có tiếng động được
tạo bằng luồng không khí phát ra tự do, không có chướng ngại.
b. Đặc điểm chung của nguyên âm
- Bản chất âm học: nguyên âm chỉ do tiếng thanh cấu tạo nên, được biểu diễn bằng
một đường cong tuần hoàn.
- Phương diện cấu âm: nguyên âm được tạo ra bởi sự căng thẳng toàn thể khí quan
phát âm để tạo ra một âm sắc nhất định. Luồng hơi cần thiết cho sự phát âm ra các
nguyên âm yếu và ra ngoài một cách tự do.
2.1.2.3. Phân loại các nguyên âm


a. Cơ sở của sự phân loại
Sự phân biệt phẩm chất các nguyên âm căn cứ vào âm sắc của chúng. Âm sắc
lại phụ thuộc vào khả năng cộng hưởng của các khoang miệng và yết hầu. Khả năng
cộng hưởng của các khoang lại phụ thuộc vào hình dáng, thể tích và lối thoát không
khí của chúng.
Như vậy, ba điều kiện cần và đủ để các hộp cộng hưởng thay đổi về thể tích,
hình dáng và lối thoát không khí cũng chính là ba tiêu chuẩn cơ bản nhất để phân
loại nguyên âm.
Tiêu chuẩn 1: Độ nâng của lưỡi (độ mở của miệng) - lưỡi nâng cao hay thấp /
miệng mở hay khép quyết định quan trọng đến thể tích của hộp cộng hưởng.

Tiêu chuẩn 2: Vị trí của lưỡi - lưỡi đặt trước, giữa hoặc sau quyết định quan
trọng đến hình dáng của hộp cộng hưởng.
Tiêu chuẩn 3: Hình dáng của môi - môi tròn hay không tròn quyết định đến
hình dáng của lối thoát không khí.
2.1.2.2. Phụ âm (consonant)
a. Khái niệm phụ âm
Phụ âm là những âm cơ bản chỉ có sự tham gia của tiếng động, được cấu tạo
do sự cản trở trên lối thoát của không khí đi ra từ phổi.
b. Đặc điểm chung của phụ âm
- Bản chất âm học: phụ âm là những âm được cấu tạo bởi sự có mặt của tiếng động.
Một tỉ lệ lớn các phụ âm có sự tham gia của tiếng thanh.
- Phương diện cấu âm: phụ âm được tạo nên do sự cản trở không khí vốn cần thiết
để gây ra tiếng động. Khi cấu âm các phụ âm, bộ máy phát âm căng thẳng cục bộ,
gây nên trở ngại cho luồng không khí mạnh/tương đối mạnh từ phổi đi ra.
- Phụ âm hữu thanh và phụ âm vô thanh: Khi phát âm phụ âm hữu thanh dây thanh
chấn động còn khi phát âm phụ âm vô thanh thì dây thanh không chấn động. Phụ
âm hữu thanh gồm cả tiếng thanh và tiếng động còn phụ âm vô thanh thì chỉ có
tiếng động.
c. Phân loại các phụ âm
Cơ sở của sự phân loại
Phụ âm về cơ bản là tiếng động, được cấu tạo do sự cản trở không khí trên lối
thoát của nó. Các phụ âm khác nhau sẽ do cách cản trở không khí và vị trí cản trở
không khí quyết định. Vì vậy, hai điều kiện quan trọng làm nên sự khác biệt giữa
các phụ âm là cách cản trở và vị trí cản trở không khí. Đây cũng là hai tiêu chí cơ
bản để phân loại phụ âm:


Bảng phụ âm đầu tiếng Việt

Định

vị

Môi

Phương
thức
T

ồn

bẹt
Bật hơi

thanh

Không

c

bật hơi Hữu thanh b
Vang (mũi)

á
t

ồn

t

Thanh


lưỡi

hầu

c

k

d

m

n

Vô thanh

f

s

Hữu thanh

v

z

Vang (bên)

Quặt lưỡi


Gốc

t



x

Đầu lưỡi răng
Mặt

x

h

l

2.2.Âm vị
Mặt biểu đạt của ngôn ngữ không phải là âm thanh đơn thuần mà là âm thanh
được tổ chức dùng để biểu đạt tư tưởng của con người. Thật vậy, âm thanh con
người phát ra thì vô hạn, nhưng qui lại chỉ có mấy chục đơn vị trong mỗi ngôn ngữ.
Tiếng Việt có 53 âm vị trong đó có 22 phụ âm đầu, 8 phụ âm cuối, 9 nguyên âm
đơn, 6 nguyên âm đôi, hai bán nguyên âm cuối, 2 âm đệm và 6 thanh điệu. Tiếng
Anh có 49 âm vị trong đó có 24 phụ âm, 12 nguyên âm đơn, 8 nguyên âm đôi và 5
nguyên âm ba.
Trong thực tế giao tiếp hàng ngày mỗi một con người trong cộng đồng ngôn
ngữ của mình có thể sắp xếp các đơn vị đó lại để biểu đạt những đơn vị có nghĩa để
thể hiện tư tưởng của mình và giao tiếp được với người khác.
Ví dụ từ “ca” trong tiếng Việt có thể khu biệt được với “ga”, với “co” bởi

chúng có những đơn vị không giống nhau: c g, a o. Như vậy “ca” có hai đơn vị “c”
và “a”. Những đơn vị như vậy được gọi là âm vị.
Âm vị là đơn vị có chức năng khu biệt nhỏ nhất của mặt biểu đạt của ngôn
ngữ. Nó là đơn vị trừu tượng được ghi thành chữ viết.


Nói đến âm vị là đến một ngôn ngữ cụ thể, bởi trong ngôn ngữ này, hai âm
khác nhau được coi là hai âm vị thì ở ngôn ngữ khác vẫn hai âm ấy lại chỉ thuộc về
một âm vị. Ví dụ, trong tiếng Nga / mo/ có thể phát âm hai cách [et] và [ t]. Như
vậy, trong tiếng Nga [e] [ ] được tri nhận là một. Song trong tiếng Việt chúng được
tri nhận khác nhau - chúng là hai đơn vị khác nhau có khả năng khu biệt mặt biểu
đạt của âm thanh ngôn ngữ. Như vậy, việc coi các âm thanh khác nhau là một âm vị
hay là các âm vị khác là do qui ước xã hội.
2.2.1. Âm vị và âm tố
Quay trở lại với từ “ca” trong tiếng Việt, trong thực tế giao tiếp hàng ngày
“ca” được phát âm ít nhiều khác nhau ở những chủ thể phát âm khác nhau, thậm
chí ngay cùng một chủ thể phát âm ở những thời điểm, tình huống khác nhau cũng
là khác nhau.
Để hình thức hoá bằng âm thanh con chữ “c” thì mỗi cá nhân, thậm chí cùng
một cá nhân cũng không thể trong mọi lúc đều đặt lưỡi, để môi như nhau. Như vậy,
xét về mặt âm thanh: phẩm chất âm thanh về mặt vật lý (cấu âm và âm học) ở
những trường hợp cụ thể đó là không như nhau. Ta có vô hạn các âm tố [k] khi hình
thức hoá bằng âm thanh con chữ “c” và tương tự, ta cũng có vô hạn các âm [a] khi
hình thức thức hoá bằng âm thanh con chữ “a”. Vậy, âm tố là những âm cụ thể được
cấu tạo bằng bộ máy phát âm, được cảm thụ được bằng thính giác, là hình thức âm
thanh để thể hiện âm vị ở những cá nhân trong những bối cảnh giao tiếp khác nhau.
2.2.2. Biến thể âm vị
2.2.2.1. Khái niệm biến thể âm vị
Âm tố là những âm phát ra và được cảm thụ bằng thính giác. Bất kì âm nào
được dùng trong lời nói đều là âm tố. Có một số âm tố thể hiện âm vị này, lại có

một số âm tố thể hiện âm vị khác. Nói cách khác, khi nghe một số âm nào đó người
ta tri nhận chúng là sự thể hiện của một âm vị này, khi nghe một số âm khác người
ta tri nhận chúng là sự thể hiện của âm vị khác. Tất cả những âm tố cùng thể hiện
một âm vị là biến thể âm vị.
Các âm tố [k] đều là biến thể của âm vị /k/, các âm tố [a] đều là biến thể của
âm vị /a/ mặc dù khi phát âm chúng, ở mỗi cá nhân và tuỳ thuộc vào hoàn cảnh phát
âm mà khi thì đặt lưỡi ra trước một ít, về sau một ít, miệng rộng hay hẹp đi một ít…
Song dù khác nhau nhưng tất cả chúng ta vẫn nhận biết được nội dung của những
âm thanh đó là như nhau. Bởi, trong giao tiếp, mỗi chúng ta đều phát ra các âm
thanh bằng bộ máy phát âm và cảm thụ các âm thanh đó bằng thính giác song nội
dung của các âm thanh đó lại được chúng ta tri nhận thông qua bộ qui tắc được tạo
bởi qui ước xã hội - qui ước của các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau.


Trong số các biến thể của cùng một âm vị dạng thức nào phổ biến hơn cả và
ít chịu ảnh hưởng của bối cảnh nhất được gọi là tiêu thể. Tên gọi của một âm vị
được xác định theo tiêu thể
2.2.2.2. Biến thể tự do và biến thể bắt buộc
Trong số các biến thể của âm vị có hai loại: biến thể tự do và biến thể bắt
buộc. Biến thể tự do là những cách thể hiện âm vị ở mỗi cá nhân. Mỗi người có một
cách phát âm riêng, dường như không bị lệ thuộc vào bất cứ nhân tố nào.
Trái với biến thể tự do, các biến thể bắt buộc/biến thể kết hợp do bối cảnh
phát âm qui định. Biến thể môi hoá [to] khi phát âm âm /t/ trong “two” [tu] ở tiếng
Anh là biến thể kết hợp. Bởi khi xuất hiện liền trước /u/, /t/ luôn phải phát âm tròn
môi. Những biến thể như vậy là tất yếu.
Biến thể tự do thực ra cũng không hoàn toàn tự do mà vẫn bị qui ước bởi
cộng đồng sử dụng ngôn ngữ. Mỗi cá nhân chỉ có thể phát âm theo cách của mình
trong một phạm vi nào đó, quá phạm vi đó sẽ bị coi là ngọng. Giữa nhiều biến thể,
cộng đồng sử dụng một ngôn ngữ nào đó bào giờ cũng chỉ chọn ra một hoặc hai
biến thể và coi là chuẩn. Khi học ngoại ngữ cần phải nắm được những âm chuẩn đó

để luyện phát âm cho đúng.
Khi đặt chữ viết phải tìm cách ghi khác nhau cho mỗi âm vị, nhưng không đặt
ra yêu cầu ghi các biến thể hay các âm tố vì là không thể. Trái lại khi dạy hay học
đọc, phát âm thì luôn cần phải phân biệt rõ âm vị nào trong bối cảnh nào phải được
phát âm như thế nào.
2.3. Các hiện tƣợng siêu đoạn tính
2.3.1. Âm tiết
2.3.1.1. Khái niệm âm tiết
Trong khi nói năng, các âm tố ít khi được phát âm riêng lẻ, mà chúng thường
tạo thành các tổ hợp gồm các âm tố khác nhau.
Một tổ hợp các âm tố được cấu tạo bởi một hạt nhân (nguyên âm) và các âm
khác bao quanh (phụ âm) được gọi là âm tiết.
Trên đây là định nghĩa mang tính chức năng về âm tiết.
Tên gọi “nguyên âm” chỉ một âm tự nó có thể làm thành âm tiết được, còn
“phụ âm” dùng để chỉ những âm phải đi kèm cùng âm khác chứ không có khả năng
tồn tại độc lập được. Cách gọi tên các âm và cách định nghĩa âm tiết như trên là dựa
trên quan điểm chức năng. Đối với tiếng Việt và nhiều ngôn ngữ đơn lập khác cách
quan niệm như vậy là phù hợp. Song trong một số các ngôn ngữ thì định nghĩa như
vậy không hẳn là hợp lí. Trong tiếng Tiệp, “vlk” [vlk] (chó sói); trong tiếng Anh


“bottle” [ ] (cái chai) thì [- l -], [- t -] có thể đóng vai trò là hạt nhân của âm tiết và
được coi là nguyên âm (?) Thực ra thì vẫn có quan niệm như vậy song quan niệm
này sẽ không mang tính phổ quát. Với quan niệm đó thì “nguyên âm” và “phụ âm”
sẽ được hiểu khác nhau trong từng ngôn ngữ bởi mỗi ngôn ngữ có qui tắc tập hợp
âm khác nhau để tạo thành âm tiết.
Xét về cơ chế cấu tạo, âm tiết được xác định là một đợt căng của cơ thịt trong
bộ máy phát âm. cứ mỗi lần cơ thịt trong bộ máy phát âm căng lên tới đỉnh rồi hạ
dần xuống đến mức thấp nhất là một âm tiết được hình thành. Một chuỗi âm tiết
được phát ra liên tiếp chính là kết quả của những đợt căng lần lượt diễn ra nối tiếp

nhau của cơ thịt trong bộ máy phát âm.


ơ

c

a

m

l

m

Đường cong biểu diễn sự biến thiên của cơ bắp bộ máy phát âm khi phát âm
hai âm tiết tiếng Việt “cơm lam” được biểu diễn như trên cũng hoàn toàn trùng với
đường cong biểu diễn cường độ âm thanh khi phát âm hai âm tiết đó.
Đỉnh âm tiết là điểm mà độ căng đạt tới mức cao nhất để bắt đầu giảm dần.
Ranh giới của âm tiết là điểm mà độ căng đạt tới mức thấp nhất và sau đó bắt
đầu tăng lên để cấu tạo âm tiếp theo. Âm tố nằm ở đỉnh bao giờ cũng được nghe
thấy trội hơn các âm tố khác. Nó được gọi là tạo đỉnh hay âm tiết tính (Syllabic).
Những âm tố trước hay sau đỉnh được gọi là phi âm tiết tính (non - syllabic).
2.3.1.2. Phân loại âm tiết
Khi phát âm các âm tiết, yếu tố âm tiết tính làm hạt nhân của âm tiết bao giờ
cũng có độ vang lớn hơn cả. Tuy nhiên yếu tố phi âm tiết tính đI sau nó (phụ âm,
bán nguyên âm kết thúc âm tiết) cũng làm ảnh hưởng tới độ vang này (hoặc làm gia
tăng, hoặc làm giảm bớt) và vì thế ảnh hưởng tới âm sắc của toàn bộ âm tiết.
Vì vậy, căn cứ vào cách kết thúc âm tiết, các nhà ngữ âm học đã phân âm tiết
thành các loại sau:

Âm tiết mở (opend syllabic): là những âm tiết khi kết thúc giữ nguyên âm sắc
của nguyên âm (là các âm tiết kết thúc bằng các nguyên âm)
- Âm tiết nửa mở (half - opend syllabic): là những âm tiết kết thúc bằng bằng bán
nguyên âm
- Âm tiết nửa khép (half - closed syllabic): là các âm tiết kết thúc bằng phụ âm
vang.
- Âm tiết khép (closed syllabic): là các âm tiết khi kết thúc độ vang của nguyên
âm giảm (là các âm tiết kết thúc bằng các phụ âm)
2.3.2. Thanh điệu
2.3.2.1. Khái niệm thanh điệu:
-


Những biến đổi về độ cao của âm tiết tạo nên những từ khác nhau, gọi là
thanh điệu. Các ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga..... không phải
không sử dụng sự biến đổi về độ cao để phân biệt nghĩa, nhưng sự phân biệt để áp
dụng cho cả một đoạn, một câu chứ không tạo nên một từ khác, đó là là những ngôn
ngữ không có thanh điệu.
Thanh điệu được tạo ra do sự rung bật của dây thanh: tùy theo sự rung động
đó nhanh hay chậm, nhiều hay ít, mạnh hay yếu, biến đổi ra sao..... mà ta có các
thanh khác nhau. Như vậy, sự rung động của dây thanh đảm nhận vai trò hai mặt:
một mặt nó tạo ra những âm hữu thanh (nguyên âm hay phụ âm), mặt khác nó tạo ra
sự dao động về cao độ (thanh điệu). Tất nhiên thanh điệu chỉ có mặt thực sự trong
phạm vi những âm hữu thanh, nhưng vẫn nghe thấy sự dao động về cao độ như một
cái gì liên tục, vì những chỗ trống do các âm thanh tạo ra đều được lướt qua và
không để ý tới.
Thanh điệu là sự thay đổi cao độ của giọng nói (sự thay đổi tần số âm cơ bản
trong một âm tiết) có tác dụng khu biệt nghĩa của từ.
2.3.2.2. Phân loại
a. Thanh bằng

Là loại thanh chỉ phân biệt nhau về mức độ cao thấp mà thôi, không có tính chất
chuyển hướng đi lên hay đi xuống. Nói cách khác, thanh bằng là loại thanh có thể
biểu thị bằng một điểm trên thang bậc độ cao.
Ngôn ngữ nào có hệ thống thanh hầu hết thuộc loại thanh bằng, thì gọi là ngôn ngữ
dùng thanh theo âm vực. Đa số ngôn ngữ có hai hoặc ba thành bằng. Có bốn thanh
bằng là sự hiếm hoi bắt gặp trong một vài ngôn ngữ ở Châu Phi (như tiếng Gweabo,
Egede và Kutep) và Châu Mĩ (như tiếng Maziteco). Còn năm thanh bằng thì chưa
bắt gặp trường hợp nào.
b. Thanh trắc
Là loại thanh phân biệt nhau về chiều hướng biến đổi. Nói cách khác, đây là loại
thanh không thể biểu thị bằng một điểm trên thang bậc độ cao. Có thể phân loại
thanh trắc như sau:
- Thanh trắc đơn giản: chỉ có một chiều biến đổi, lên hoặc xuống.
- Thanh trắc phức tạp: có nhiều chiều biến đổi, lên xuống hoặc xuống lên.
2.3.2.3. Sự biến thanh
Hiện tượng biến thanh là sự biến đổi thanh điệu do ảnh hưởng của một thanh
điệu khác.


Khi các thanh điệu cao thấp khác nhau đi liền nhau thường có ảnh hưởng lẫn
nhau. Nếu thanh cao đi trước thanh thấp đi sau thì thanh thấp sẽ bắt đầu cao hơn
thường lệ; và ngược lại nếu thanh thấp đi trước thanh cao thì thanh cao sẽ bắt đầu
thấp hơn thường lệ. Sự biến đổi như vậy thường hết sức uyển chuyển khó nhận biết
được bằng thích giác mà phải đo bằng máy. Song cũng có khi sự biến thanh là hết
sức rõ ràng và đơn giản: khi hai thanh giống hệt nhau đi cạnh nhau thì có một thanh
bị biến thành thanh khác. Hiện tượng như vậy được goi là hiện tượng đồng hoá. Ví
dụ trong tiếng Hán hai âm /ni/ và /hao/ khi đi cạnh nhau âm /ni/ sẽ biến thành /ni/
đọc /ni hao/.

2.3.3. Trọng âm

Trọng âm là biện pháp âm thanh làm nổi bật một đơn vị ngôn ngữ học lớn
hơn âm tố (âm tiết, từ, ngữ đoạn, hoặc câu) để phân biệt với những đơn vị ngôn ngữ
học khác ở cùng cấp độ.
Xét trên phương diện âm thanh được sử dụng để tạo trọng âm thì có thể kể tới
các loại trọng âm sau:
- Trọng âm lực (tạo điểm nhấn bằng cường độ)
- Trọng âm nhạc tính (tạo điểm nhấn bằng cao độ)
- Trọng âm lượng (tạo điểm nhấn bằng trường độ)
Xét trên phương diện cấu trúc của các đơn vị mà trong đó có một yếu tố được
làm nổi bật bằng trọng âm thì có trọng âm âm tiết, trọng âm từ, trọng âm cú đoạn,
trọng âm câu.
Xét trên phương diện chức năng có trọng âm cấu trúc có chức năng tạo đỉnh phân giới âm tiết và trọng âm logíc có chức năng tạo nghĩa - khu biệt.
2.3.4. Ngữ điệu
Ngữ điệu là sự biến đổi cao độ của giọng nói diễn ra trong một chuỗi âm
thanh lớn hơn âm tiết hay một từ.
Cũng như thanh điệu, cao độ này do tần số dao động của dây thanh quyết
định nhưng khác ở chỗ nó xuất hiện trên một ngữ đoạn hay cả một câu và khác nhau
về chức năng. Ngữ điệu có chức năng cú pháp: phân biệt câu trần thuật, câu hỏi, câu
cầu khiến, câu cảm thán…
Ngữ điệu có chức năng biểu cảm.
Ngữ điệu mang nét đặc trưng của từng ngôn ngữ.


×