LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn đầu tiên em xin gửi đến quý thầy, cô trong trường Đại học
Nội Vụ Hà Nội và các thầy, cô trong khoa Quản lý nhà nước cùng với sự đồng
ý của thầy Ts. Tạ Quang Ngọc đã tận tụy truyền dạy kiến thức cho em, để em
có thể hoàn thành tốt bài tiểu luận này.
Trong quá trình làm bài của mình, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của các anh chị cán bộ văn phòng UBND xã cung cấp số liệu cho em được
hoàn thành công việc một cách thuận lợi nhất. Nhưng do điều kiện về thời
gian có hạn và khó khăn nhất định trong công tác tìm hiểu thực tế nên bản
tiểu luận này còn mang nhiều tính chất chủ quan.
Đồng thời em cũng xin gửi lời cám ơn tới anh Hồ Hữu Dũng công chức
tư pháp UBND xã Nghĩa Bình cùng các bác, các cô, chú đang công tác tại
UBND xã nơi em lấy số liệu.
Với thời gian cho phép, khả năng nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế
còn hạn chế nên bài tiểu luận kết thúc học phần của em còn nhiều thiếu sót.
Nhưng với sự nghiên cứu nghiêm túc, sự đam mê tìm tòi học hỏi, em rất
mong nhận được chỉ bảo tận tình của quý thầy cô.
Ngày 14 tháng 1 năm 2017
Sinh viên thực hiện
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................1
MỤC LỤC........................................................................................................2
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ UBND XÃ NGHĨA BÌNH........3
1. ĐĂC ĐIÊM TỰ NHIÊN, CƠ CÂU TÔ CHƯC CHINH TRI, VĂN HÓA XÃ HỘI CUA UBND XÃ NGHĨA
BÌNH................................................................................................................................................3
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của UBND Xã Nghĩa Bình....................................................3
1.2. Đặc điểm về địa lí, cơ quan ở địa phương.............................................................................3
1.3. Chức năng quyền hạn.............................................................................................................3
CHƯƠNG II: NỘI DUNG VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ
BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT....................................................................6
1. Khái niệm:..................................................................................................................................6
2. Mục đích của phổ biến giáo dục pháp luật:..............................................................................6
3. Các văn bản phổ biến giáo dục pháp luật được áp dụng tại xã:...............................................7
4. Thực trạng chấp hành pháp luật tại xã Nghĩa Bình...................................................................8
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở XÃ NGHĨA BÌNH.......................8
1. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.................................................................8
2. Kết quả đạt được.....................................................................................................................26
2.1. Công tác xây dựng kiểm tra rà soát văn bản........................................................................26
2.2. Công tác tuyên truyền TTPBGDPL........................................................................................26
2.3. Công tác hòa giải...................................................................................................................26
2.4. Công tác quản lý hộ tịch.......................................................................................................26
2.5. Công tác chứng thực.............................................................................................................27
3. Nội dung và hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đối với từng đối tượng.......................27
3.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân nói chung..................................27
3.2. Hình thức và biện pháp thực hiện:.......................................................................................29
4. Những hạn chế trong việc thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đó
là:..................................................................................................................................................33
5. Nguyên nhân, hạn chế:............................................................................................................34
III. MỘT SỐ ĐỀ XUÂT CÁC GIẢI PHÁP NHĂM NÂNG CAO CÔNG TÁC TTPBGDPL Ở ĐIA PHƯƠNG:
......................................................................................................................................................34
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN..........................................................................37
LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật là một hoạt động
đưa pháp luật về gần với nhân dân hơn, đây là một hoạt động vô cùng cần
thiết và quan trọng.
Quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động
thực thi pháp luật, là cầu nối để truyền tải pháp luật vào cuộc sống. Muốn
thực hiện pháp luật dưới hình thức nào thì trước hết phải có hiểu biết pháp
luật. Vậy nên em xin đề cập đến hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục
pháp luật ở xã Nghĩa Bình. Tại cơ quan em có điều kiện được thực tập và tìm
hiểu với công việc tư pháp, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Việc
tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật giúp hình thành ý thức pháp luật
trong nhân dân, tạo lòng tin vào pháp luật, thói quen và ý thực tôn trọng pháp
luật của mỗi người dân nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong
đời sống và xã hội.
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật là hoạt động gắn với
các cơ quan Nhà nước nhằm mục đích đáp ứng ý thực về pháp luật của người
dân. Bởi vậy công tác này được các cơ quan đẩy mạnh thực hiện và đưa ra
những kế hoạch để hoàn thành tốt công tác này.
Là một sinh viên, trong quá trình làm bài em đã được tìm hiểu về công
việc tư pháp, các hoạt động về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật qua
đó thấy được phần nào những khó khăn, vướng mắc cũng như kết quả đã đạt
được tại địa phương.
Do đó em đã chọn đề tài:
“ Tìm hiểu qui định pháp luật về tổ chức và hoạt động ở UBND xã
Nghĩa Bình ”
Lý luận về công tác tư pháp, tuyên truyền giáo dục pháp luật rất phong
1
phú và cũng vì hạn chế về thời gian và kiến thức thực tiễn nên tránh khỏi có
những thiếu sót nhất định. Vì vậy em mong sự đóng góp ý kiến từ các thầy, cô
giáo để nhận thức của em về vấn đề này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Ngày 14 tháng 1 năm 2017
Sinh viên
2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ UBND XÃ NGHĨA BÌNH
1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, CƠ CẤU TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ,
VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA UBND XÃ NGHĨA BÌNH
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của UBND Xã Nghĩa Bình
UBND xã Nghĩa Bình được thành lập ngày 10/9/1985 theo Nghị định
số 28/CP của Chính phủ , ngày 9/07/1985. Sau 29 năm phát triển, đến năm
2014 bộ máy làm việc của cấp xã, chính quyền đã đuợc kiện toàn.
1.2. Đặc điểm về địa lí, cơ quan ở địa phương
1. Xã Nghĩa Bình sau khi chia tách có diện tích tự nhiên 1.800,46 ha;
dân số 3.654 người với 915 hộ và 8 xóm dân cư: Bình Nghĩa, Bình Thái, Bình
Lâm, Bình Hải, Bình Thành, Bình Hạnh, Bình Yên, Đồng Chùa.
2. Thuận lợi: Luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo kịp thời
của UBND huyện, phòng tư pháp huyện; Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy,
HĐND, UBND xã; Sự phối hợp của các Ban ngành đoàn thể, của chi ủy, Ban
cán sự xóm; Sự tin tưởng, đồng thuận của các tầng lớp nhân dân.
3. Khó khăn: Là một xã mới chia tách, cơ sở vật chất còn thiếu thốn cả
về trụ sở làm việc cũng như các phương tiện, trang thiết vị phục vụ cho hoạt
động của chính quyền địa phương.
4. Đội ngũ cán bộ, công chức hầu hết mới đảm nhiệm chức vụ lần đầu
nên còn bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiệm.
5. Nhưng với tinh thần chủ động, quyết tâm khắc phục khó khăn trong
chỉ đạo điều hành nên UBND xã Nghĩa Bình đã hoàn thành các mục tiêu, chỉ
tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng đã đề
ra.
1.3. Chức năng quyền hạn
Ban tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND xã, tham mưu
3
UBND xã thực hiện chức năng quản lí nhà nước về : Công tác xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lí văn bản quy phạm pháp luật; phổ
biến, giáo dục pháp luật; quy phạm án dân sự; chứng thực; hộ tịch; trợ giúp
pháp luật; hòa giải cơ sở và các công tác tư pháp khác.
Ban tư pháp chịu sự chỉ đạo, quản lí về tổ chức, biên chế và công tác
của UBND xã, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên
môn, nghiệp vụ của Phòng tư pháp.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể:
*) Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật :
- Trình UBND Xã các văn bản để tổ chức thực hiện các chế độ, chính
sách và pháp luật về quản lý Nhà nước trong hoạt động tư pháp trên địa bàn
xã;
- Thẩm định và chịu trách nhiệm trước UBND xã về nội dung thẩm
định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do HĐND - UBND xã ban
hành theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh theo sự chỉ
đạo của UBND xã và hướng dẫn của phòng tư pháp ;
- Rà soát hệ thống văn hóa văn bản quy phạm pháp luật do HĐND và
UBND xã ban hành.
*) Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
- Giúp UBND xã tự kiểm tra văn bản do UBND xã ban hành, hướng
dẫn các thôn thực hiện tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật;
- Thực hiện kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và
UBND xã, theo quy định của pháp luật. Trình Chủ tịch UBND xã quyết định
các biện pháp xử lí văn bản ban hành trái pháp luật theo thẩm quyền.
*) Phổ biến giáo dục pháp luật:
- Xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm trình
4
UBND xã phê duyệt và tổ chức thực hiện ;
- Làm thường trực hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật của xã ;
- Hướng dẫn kiểm tra , xây dựng , quản lý và khai thác tủ sách pháp
luật ở xã , các cơ quan, đơn vị trên địa bàn xã ;
- Thẩm định hương ước , quy ước của thôn , khu cụm dân cư trước khi
trình Chủ tịch UBND xã phê duyệt .
*) Giúp UBND xã và Phòng Tư pháp quản lý Nhà nước về thi hành án
dân sự của xã theo quy định của pháp lệnh thi hành án dân sự ;
*) Hướng dẫn , kiếm tra hoạt động chứng thực của UBND xã Thực hiện
chứng thực theo ủy quyền của Chủ tịch UBND xã ;
*) Hướng dẫn, kiểm tra việ đăng ký và quản lý hộ tịch ; Quản lý các sổ
sách , biểu mẫu về hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp ;
*) Thực hiện trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách
theo quy định ;
*) Tổ chức , triển khai thực hiện các quy định về công tác hòa giải trên
địa bàn theo sự chỉ đạo của Phòng Tư pháp và Ủy ban nhân dân xã ; Tổ chức
bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở địa phương theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp ;
*) Chỉ đạo , hướng dẫn , kiểm tra chuyên môn nghiệp vụ về công tác tư
pháp
*) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của UBND xã hoặc
theo Quy định của pháp luật ;
*) Tham mưu cho UBND xã và triển khai công tác trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước.
5
CHƯƠNG II: NỘI DUNG VỀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN,
PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1. Khái niệm:
- Phổ biến pháp luật là hoạt động truyền đạt thông tin về pháp luật đến
cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân cư trú trong xã hội, để cán bộ,
công chức và nhân dân hiểu biết và tuân thủ pháp luật.
- Giáo dục pháp luật là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có định
hướng lên các đối tượng giáo dục hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm
đối với pháp luật và hành vi xử sự theo pháp luật hiện hành
2. Mục đích của phổ biến giáo dục pháp luật:
Được xem dưới nhiều góc độ khác nhau như là đối tượng, cấp độ hình
thức hoặc thời gian cần thiết cho hoạt động đó. Có thể khái quát mục đích của
hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay qua
các nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất: Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao
nhận thức pháp lý, sự hiểu biết về pháp luật, hình thành tri thức pháp luật cần
thiết cho công dân. Đây là mục đích hàng đầu của tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật ở nước ta. Bởi lẽ đại bộ phận nhân dân đang ở trong tình
trạng ít hiểu biết về pháp luật. Do đó, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật nhằm mở rộng khối kiến thức pháp lý, nâng cao khả năng hiểu biết kiến
thức pháp luật là hết sức cần thiết.
- Thứ hai: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm khơi dậy
tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Để hình thành lòng
tin và đem lại thái độ đúng đắn, tích cực đối với pháp luật ở mỗi người cần
phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan, trước hết là vấn đề tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật. lòng tin vào pháp luật là lòng tin vào công lý vào lẽ
công bằng được tạo lập bởi pháp luật.
6
- Thứ ba: Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nhằm hình thành
thói quen xã hội theo pháp luật với động cơ tích cực.
Tuyên tuyền, phổ biến giáo dục pháp luật không chỉ cung cấp những
kiến thức lý luận hay các quy định pháp luật cụ thể mà quan trọng hơn là tạo
lập được thói quen xử sự theo pháp luật ở mỗi người trong xã hội. Thói quen
này được hình thành không phải là thụ động, vô thức mà dựa trên nền tảng
của động cơ. Hành vi hợp pháp tích cực. Chỉ có như vậy pháp luật mới
“Sống” và phát huy các giá trị của nó, thực sự là công cụ để nhân dân sử dụng
trong các tình huống cụ thể, nhằm vận động quyền lực của nhân dân có hiệu
quả.
3. Các văn bản phổ biến giáo dục pháp luật được áp dụng tại xã:
- Xác định rõ vị trí, vai trò của công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo
dục pháp luật đối với việc thi hành pháp luật trên thực tế nhằm nâng cao ý
thức pháp luật góp phần xây dựng một xã hội sống và làm việc theo hiến
pháp và pháp luật. Trong thời gia thực tập tại (Ban tư pháp) UBND xã Nghĩa
Bình em đã được tiếp xúc và tìm hiểu với rất nhiều các quy định của đảng và
nhà nước về vấn đề này, cũng như các hoạt động cụ thể tại địa phương, như
qua việc tìm hiểu một số văn bản pháp luật như:
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 02/1998/CT-TTg ngày 7 tháng 1
năm 1998 về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai
đoạn hiện nay.
- Quy định số 03/1998/QĐ-TTg ngày7 tháng 1 năm 1998 về việc ban
hành triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm
2002 thành lập hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17 tháng 1 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình phổ biến , giáo dục phaps liật từ
năm 2003 đến năm 2007
7
- Chỉ thị số 32/CT/TW ngày 19 tháng 12 năm 2003 của Ban bí thư
trung ương Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật trong nhân dân.
- Báo cáo tổng kết chương trình phổ biến , giáo dục pháp luật của chính
phủ từ năm 2003-2007
- Nghị quyết số 61/2007/NQ- CP ngày 07/12/2007 của chính phủ V/v
tiếp tục thực hiện chỉ thị số 32/CT- TW, Quyết định số 37/QĐ- TTg ngày
12/3/2008 đến năm 2012,
- Quyết định số 1212/ QĐ- UBND ngày 08/5/2008 của UBND tỉnh lâm
Đồng V/v ban hành chương trình phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 20082012. và nhiều Quyết định ban hành các Đề án có liên quan
- Một số văn bản pháp luật của địa phương hướng dẫn chi tiết, các kế
hoạch cụ thể cho từng năm,quý hay đợt tuyên truyền giữa các cơ quan ban
ngành có liên quan.
4. Thực trạng chấp hành pháp luật tại xã Nghĩa Bình
Trong những năm gần đây ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân
dân xã Nghĩa Bình từng bước được nâng lên, đã có nhiều chuyển biến về mặt
nhận thức, ý thức được vai trò pháp luật đối với cuộc sống của mình. Công
tác tuyên truyền pháp luật kết hợp với nhiều cơ quan ban ngành khác đã triển
khai một cách nghiêm túc các kế hoạch, hình thức tuyên truyền phong phú
chuyển tải kịp thời các văn bản pháp luật đến với nhân dân đi vào cuộc sống
để nhân dân cảnh giác tránh xa tội lỗi.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT Ở XÃ NGHĨA BÌNH
1. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
Trong những năm qua cấp uỷ, chính quyền các xã luôn quan tâm đến
công tác Tư pháp, xã bố trí 02 cán bộ Tư pháp có đủ năng lực chuyên môn
8
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, Hội đồng tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật và đội ngũ tuyên truyền viên thường xuyên được củng cố kiện toàn, chất
lượng chuyên môn công tác Tư pháp - Hộ tịch của UBND góp phần vào việc
phát triển kinh tế- xã hội và giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn xã.
Trong công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật UBND xã đã
quan tâm chỉ đạo cán bộ Tư pháp tham mưu xây dựng kế hoạch tuyên truyền
pháp luật sát với tình hình thực tế của địa phương, luôn duy trì Hội đồng phối
hợp tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật và đội ngũ tuyên truyền viên
pháp luật của Uỷ ban nhân dân xã từ 5 đến 7 thành viên, quan tâm đầu tư kinh
phí chi cho công tác tuyên truyền pháp luật theo quy định, việc triển khai
tuyên truyền pháp luật tới nhân dân trên hệ thống đài truyền thanh xã, qua các
hội nghị tập huấn ngoài ra ở các thôn, cụm dân cư trong xã được chủ động
lồng ghép đa dạng với các hình thức như: Họp sinh hoạt câu lạc bộ trợ giúp
pháp lý, sinh hoạt các đoàn thể nhân dân, sinh hoạt chi bộ, chi hội....... Bên
cạnh đó Uỷ ban nhân dân xã đã thực hiện niêm yết công khai các thủ tục hành
chính về hộ tịch tại bộ phận một cửa, bố trí công chức tư pháp hộ tịch làm tốt
công tác đăng ký hộ tịch, ngoài ra trực tiếp làm công tác chứng thực đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ, có đầy đủ các mẫu dấu chứng thực, sổ chứng thực theo quy
định.
Tủ sách pháp luật của các Uỷ ban nhân dân xã được quản lý và khai
thác sử dụng có hiệu quả, hiện nay có xã đã có gần 200 đầu sách pháp luật,
phục vụ tốt cho việc nghiên cứu tìm hiểu pháp luật của cán bộ và nhân dân.
Việc theo dõi quản lý tủ sách pháp luật theo quy định, việc phân loại xắp xếp
các loại sách khoa học thành 4 loại sách gồm: Các Bộ luật, Luật; Pháp lệnh;
sách tham khảo, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ; công báo, báo chí, từ
năm 2012 đến nay tủ sách pháp luật của các xã được mua bổ sung các đầu
sách pháp luật mới, phục vụ tốt cho cán bộ và nhân dân tới tìm đọc.
9
Đối với công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, Uỷ ban nhân dân xã đã
thường xuyên triển khai tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân các
quy định của Nghị định 158/ 2005/ NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ
về Đăng ký và quản lý hộ tịch để nhân dân trong xã biết và thực hiện nghiêm
túc các quy đinh của nhà nước về đăng ký hộ tịch.
Nhận thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác Tư pháp
hộ tịch trong việc phát triển kinh tế - văn hoá- xã hội và giữ gìn an ninh trật tự
trên địa bàn xã, trong thời gian qua cấp uỷ, chính quyền xã Nghĩa Bình đã
tăng cường quan tâm củng cố công tác Tư pháp của bằng việc: Cử và tạo điều
kiện cho công chức Tư pháp- Hộ tịch xã được theo học các lớp đào tạo hệ vừa
học, vừa làm Đại học Luật ở Huyện để nâng cao trình độ chuyên môn; giới
thiệu công chức Tư pháp- Hộ tịch xã tham gia Ban chấp hành Đảng uỷ xã
nhiệm kỳ 2011- 2015; quy hoạch công chức Tư pháp - Hộ tịch xã vào đội ngũ
cán bộ lãnh đạo nguồn kế cần cho giai đoạn tiếp theo; chú trọng công tác bồi
dưỡng nghiệp vụ hoà giải cho đội ngũ hoà giải viên ở các thôn bản trong xã,
tăng cường củng cố và kiện toàn Hội đồng tuyên truyền phổ biến giáo dục
pháp luật và đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật cấp xã, phối hợp Mặt trận tổ
quốc cùng các ban, ngành đoàn thể trong xã tổ chức tốt công tác truyên truyền
giáo dục pháp luật trong các hội, đoàn thể quần chúng nhân dân, khẳng định
vị trí của công tác Tư pháp - Hộ tich cơ sở trong việc phát triển - kinh tế -xã
hội trên địa bàn xã.
1.1 Nội dung quản lý nhà nước về công tác tư pháp của Uỷ ban nhân
dân cấp xã theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV,
Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ và quyền hạn quản
lý công tác tư pháp trên địa bàn do mình quản lý. ủy ban nhân dân cấp xã là
chủ thể chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp cấp
trên về các hoạt động tư pháp tại địa phương trong phạm vi thẩm quyền của
10
mình. Theo Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, để quản lý công
tác tư pháp trên địa bàn, ủy ban nhân dân cấp xã có các nhiệm vụ, quyền hạn
sau: 2.1. Xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình và kế hoạch công tác
tư pháp cấp xã Công tác tư pháp cấp xã bao gồm nhiều hoạt động có quan hệ
đến các ban, ngành và đoàn thể ở địa phương, do vậy, để phối hợp triển khai
đồng bộ và toàn diện cần dự kiến trước các hoạt động và các đảm bảo các
điều kiện thực hiện trong phạm vi các chương trình và kế hoạch cụ thể. Các
chương trình, kế hoạch của ủy ban nhân dân cấp xã về công tác tư pháp có
một vị trí quan trọng trong quá trình triển khai công tác tư pháp. Căn cứ vào
tình hình công tác tư pháp trong địa bàn, các văn bản này có tính chất chỉ đạo
và định hướng cho các hoạt động tư pháp, đảm bảo phù hợp với thẩm quyền
phân cấp quản lý, điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa bàn, đảm bảo tính tập
trung thống nhất từ trung ương đến địa phương trong quá trình triển khai thực
hiện công tác tư pháp. Các công việc cụ thể trong quá trình xây dựng, thực
hiện các chương trình và kế hoạch công tác tư pháp ở cấp xã, bao gồm:
- Căn cứ vào chương trình và kế hoạch công tác tư pháp của cấp trên và
điều kiện thực tế ở địa phương, ủy ban nhân dân cấp xã ban hành chương
trình, kế hoạch công tác tư pháp dài hạn và hàng năm. Trong chương trình cần
xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung công việc, các biện pháp thực hiện,
trong đó phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức và cá nhân thực hiện;
- Tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động được đề ra trong chương
trình, kế hoạch;
- Kiểm tra, đôn đốc các tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện
các chương trình, kế hoạch công tác tư pháp trong quá trình tổ chức thực hiện;
- Định kỳ tổ chức giao ban, sơ kết, tổng kết công tác tư pháp ở cấp xã,
chia sẻ kinh nghiệm để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tư pháp trong thời
gian tiếp theo; đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng các tổ
11
chức, cá nhân có thành tích trong công tác tư pháp cơ sở; Việc triển khai thực
hiện nhiệm vụ này do công chức tư pháp - hộ tịch chủ trì giúp ủy ban nhân
dân cấp xã thực hiện. Công chức tư pháp - hộ tịch có vai trò là người trực tiếp
xây dựng, theo dõi, báo cáo tình hình thực hiện các chương trình - kế hoạch
công tác tư pháp. Để đảm bảo tính phù hợp, đúng đắn của chương trình, kế
hoạch công tác tư pháp, việc xây dựng chúng cần phải có sự tham gia góp ý
kiến của một số công chức chuyên môn cấp xã, các tổ chức, đoàn thể quần
chúng có liên quan trên địa bàn. ủy ban nhân dân cấp xã, với tư cách là chủ
thể quản lý nhà nước chịu trách nhiệm về việc ban hành, tổ chức thực hiện và
kiểm tra tình hình thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác tư pháp, phải
tạo cơ chế làm việc cho công chức tư pháp - hộ tịch trong việc phối hợp với
các công chức chuyên môn, cơ quan, đoàn thể liên quan trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ.
1.2. Quản lý công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở cấp xã.
Để thực hiện chức năng quản lý của mình, Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm
quyền ban hành các quyết định, chỉ thị theo quy định của pháp luật. Các văn
bản này chỉ giới hạn thực hiện trong phạm vi cấp xã. Văn bản pháp luật do ủy
ban nhân dân cấp xã ban hành phải bảo đảm đúng về thể thức, có nội dung
phù hợp với Hiến pháp, các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên,
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và bảo đảm tính thống nhất, tính
đồng bộ và khả thi. Quản lý công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở
cấp xã bao gồm các công việc cụ thể sau: - Nắm nhu cầu và lập kế hoạch soạn
thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị của ủy ban nhân dân cấp xã và tổ chức
thực hiện chương trình, kế hoạch đó; - Đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực
hiện các văn bản pháp luật của chính quyền cấp xã. - Tự kiểm tra và rà soát,
hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân cấp xã ban hành để phát hiện mâu thuẫn, chồng chéo, không
12
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của các văn bản.
Từ đó, đề xuất biện pháp xử lý đối với văn bản trái pháp luật. Ngoài ra, với vị
trí là cấp cơ sở gần dân nhất, ủy ban nhân dân cấp xã còn có nhiệm vụ tổ chức
lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản pháp luật của
cơ quan cấp trên theo hướng dẫn của ủy ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tư
pháp; đặc biệt là nhiệm vụ theo dõi, báo cáo tình hình thi hành văn bản quy
phạm pháp luật trên địa bàn, phát hiện đề xuất; biện pháp giải quyết những
khó khăn vướng mắc với Phòng Tư pháp trong quá trình thi hành văn bản quy
phạm pháp luật ở cấp xã. Đây là một nhiệm vụ mới của ủy ban nhân dân cấp
xã, có vai trò quan trọng trong việc đánh giá tính phù hợp của các quy phạm
pháp luật khi được áp dụng trong thực tế. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, công
chức tư pháp - hộ tịch phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định về
soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, khả năng phát hiện vấn đề để đưa ra
dự thảo các văn bản phù hợp, theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó,
công chức tư pháp - hộ tịch phải nắm vững các đường lối, chính sách của
Đảng, các quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước và thẩm quyền của Uỷ
ban nhân dân cấp xã; đồng thời phải hiểu rõ tình hình chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội ở cơ sở để tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã ban hành hoặc
đề nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản kịp thời, có tính khả thi
cao và đáp ứng được với yêu cầu quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân cấp
xã.
1.3. Chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng quy ước, hương ước của thôn,
làng, bản, ấp, khóm, cụm dân cư phù hợp với pháp luật, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước Hương ước, quy ước là những văn bản quy phạm
xã hội trong đó quy định các quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng
thỏa thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính tự quản của nhân
dân. Cùng với pháp luật, hương ước, quy ước đảm bảo duy trì an ninh trật tự,
13
vệ sinh môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất,
khuyến khích học hành, giải quyết các tranh chấp, vi phạm nhỏ trong nhân
dân, xóa đói, giảm nghèo, góp phần duy trì và phát huy thuần phong mỹ tục,
đề cao các chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần
thực hiện chính sách dân số, bài trừ các hủ tục và tệ nạn xã hội. Hương ước,
quy ước có vai trò là bộ phận hỗ trợ đắc lực pháp luật trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội tại cộng đồng dân cư đối với những vấn đề và nội dung mà
pháp luật không điều chỉnh, đồng thời còn là công cụ thực hiện mở rộng, phát
huy dân chủ ở cơ sở, giúp nhân dân trong tiến trình tham gia giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước. Theo Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn và Nghị quyết số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17 tháng
4 năm 2008 hướng dẫn thi hành các điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và
Điều 26 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Uỷ ban nhân
dân cấp xã có nhiệm vụ chỉ đạo, hỗ trợ các làng, bản, thôn, ấp, khóm, cụm
dân cư xây dựng hương ước, quy ước với nội dung phong phú, thiết thực, phù
hợp với quy định của pháp luật hiện hành và chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước; kiểm tra việc tổ chức thực hiện hương ước, quy ước trên địa
bàn. Để triển khai thực hiện nhiệm vụ này, công chức tư pháp - hộ tịch phối
hợp công chức văn hoá - xã hội giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện các
công việc sau đây: - Xây dựng phương án, chương trình, kế hoạch và chỉ đạo,
hỗ trợ các làng, bản, thôn, ấp, khóm, cụm dân cư xây dựng hương ước, quy
ước phù hợp với nội dung đã được hướng dẫn; - Chuẩn bị hồ sơ dự thảo
hương ước, quy ước để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã trình Chủ tịch ủy
ban nhân dân cấp huyện phê duyệt; - Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc cấp xã
kiểm tra, tạo điều kiện cho việc phổ biến, tuyên truyền và tổ chức thực hiện
hương ước, quy ước; - Phát hiện và chấn chỉnh mọi biểu hiện sai trái, lệch lạc,
tiêu cực trong việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước; định kỳ báo
14
cáo Uỷ ban nhân dân cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp về việc xây
dựng và thực hiện hương ước, quy ước ở cấp xã.
1.4. Tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp
luật; quản lý, khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở cấp xã Pháp luật của Nhà
nước là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện nguyện vọng,
ý chí của nhân dân và phải được thực hiện thống nhất trong cả nước. Để nhân
dân hiểu biết, tuân thủ pháp luật và giám sát việc thực hiện pháp luật thì phải
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Theo quy định tại Hiến pháp và
các văn bản pháp luật khác thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật là nhiệm vụ của tất cả các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị, đoàn thể
quần chúng, trong đó các cơ quan tư pháp giữ một vai trò quan trọng. Nhiệm
vụ phổ biến, giáo dục pháp luật của cấp xã được thực hiện theo Quyết định số
37/2008/QĐ-TTg ngày 12 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012
với các nội dung cụ thể sau: - Xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến,
giáo dục pháp luật theo hướng dẫn của các cơ quan tư pháp cấp trên, phù hợp
với đặc điểm kinh tế - xã hội, yêu cầu và điều kiện thực tế của địa phương.
Trong kế hoạch phải xác định cụ thể mục đích, yêu cầu, đối tượng, nội dung,
hình thức, biện pháp và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, tiến độ, thời
gian thực hiện, các biện pháp và hình thức phối hợp thực hiện; đồng thời quy
định việc báo cáo theo định kỳ và thường xuyên về tiến độ thực hiện phổ
biến, giáo dục pháp luật. - Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện hoặc kiến
nghị biện pháp phù hợp để tổ chức thực hiện kế hoạch này như điều chỉnh kế
hoạch, nội dung, tạo điều kiện về kinh phí, lực lượng và các điều kiện cần
thiết bảo đảm thực hiện. - Sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật ở xã, phường, thị trấn; - Báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật với cơ quan tư pháp cấp trên; đề nghị cơ quan nhà
15
nước có thẩm quyền khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích và tích
cực tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngoài ra, thực hiện Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, ủy ban nhân dân cấp xã có
nhiệm vụ tham gia vào việc thông tin kịp thời và công khai các chính sách,
pháp luật của Nhà nước, các quy định của chính quyền địa phương về thủ tục
hành chính giải quyết các công việc có liên quan đến dân, các nghị quyết của
Hội đồng nhân dân. Để thực hiện các công việc trên, công chức tư pháp - hộ
tịch cần theo dõi, cập nhật các văn bản pháp luật, bám sát sự chỉ đạo, hướng
dẫn của cơ quan cấp trên và nhiệm vụ chính trị của địa phương để chủ động
xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục
pháp luật trên địa bàn. Đồng thời phát huy và thu hút được sự tham gia của
đông đảo các tổ chức, đoàn thể và cá nhân ở địa phương có ý nghĩa quyết
định trong việc triển khai thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này. Một trong các
biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả là thông qua sách báo, tài liệu
tuyên truyền pháp luật. Đây là biện pháp có nhiều ưu thế, giúp cán bộ, công
chức và người dân chủ động trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng
những kiến thức pháp luật trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh và giải quyết các vướng mắc pháp luật trong đời
sống hàng ngày. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong việc tìm
hiểu, nghiên cứu sách báo, tài liệu, văn bản pháp luật, Đảng và Nhà nước chủ
trương xây dựng tủ sách pháp luật ở địa bàn cấp xã. Việc triển khai Tủ sách
pháp luật trên toàn quốc thực hiện theo Quyết định số 69/1998/QĐ-TTg ngày
31 tháng 3 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát hành Công báo
nước CHXHCN Việt Nam cho cấp xã, phường, thị trấn và Chỉ thị số
03/1999/CT-BTP ngày 08 tháng 3 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về
việc triển khai thực hiện các công tác trọng tâm của ngành Tư pháp năm 1999,
trong đó giao trách nhiệm ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ quản lý Tủ
16
sách pháp luật và hàng ngày tổ chức phục vụ cho cán bộ, nhân dân có nhu cầu
nghiên cứu được trực tiếp tìm hiểu các văn bản pháp luật của Nhà nước. Tiếp
đến, ngày 25 thỏng 01 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 06/2010/QĐ-TTg về việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật.
Công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã với nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cấp
xã quản lý nhà nước về công tác tư pháp là người trực tiếp quản lý việc khai
thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn. Để thực hiện nhiệm vụ
này, công chức tư pháp - hộ tịch cần tiến hành các công việc như thống kê đối
tượng phục vụ và nhu cầu bạn đọc, xây dựng kế hoạch và phương thức hoạt
động của tủ sách; xây dựng quy chế khai thác và duy trì tủ sách, xây dựng dự
toán kinh phí ban đầu và kinh phí hoạt động hàng năm của tủ sách; sưu tầm,
bố trí trang thiết bị cần thiết cho hoạt động của tủ sách; sắp xếp, phân loại,
bảo quản, giới thiệu sách; tổ chức phục vụ bạn đọc...… Ngoài ra, công chức
tư pháp - hộ tịch phải thường xuyên quan hệ với nhà trường, các ban, ngành,
đoàn thể ở cơ sở để tuyên truyền, vận động cán bộ, nhân dân và học sinh đọc
và tìm hiểu các loại tài liệu, sách, báo pháp luật có trong tủ sách; luân chuyển
sách, báo, tài liệu pháp lý giữa điểm bưu điện văn hoá xã, thư viện, tủ sách
pháp luật của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học và bộ đội biên
phòng đóng trên địa bàn là những hoạt động cần thiết để nâng cao hiệu quả
khai thác và sử dụng tủ sách pháp luật. Công chức phụ trách tủ sách không chỉ
đơn thuần là người giữ tủ sách, bảo quản và cho mượn sách mà còn là người
hướng dẫn cán bộ, nhân dân sử dụng sách, báo, tài liệu pháp lý; tuyên truyền,
động viên nhân dân tích cực tìm hiểu pháp luật. Có thể nói, tủ sách pháp luật
có phát huy được đầy đủ tác dụng thiết thực hay không, điều đó còn phụ
thuộc rất nhiều vào vai trò, trình độ, tinh thần trách nhiệm của công chức phụ
trách tủ sách pháp luật. Muốn vậy, công chức phụ trách tủ sách pháp luật luôn
phải tự học hỏi để nâng cao trình độ chính trị, pháp lý, chuyên môn, nghiệp
17
vụ nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ được giao. Để việc luân
chuyển, trao đổi sách, báo, tài liệu pháp luật được thuận lợi và đạt hiệu quả
cao, công chức tư pháp - hộ tịch cần báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc luân chuyển sách, báo, tài liệu pháp
luật để phối hợp thực hiện.
1.5. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt
động hòa giải ở cơ sở; bồi dưỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ viên Tổ
hoà giải trên địa bàn theo sự hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên Tổ hoà
giải là một tổ chức của nhân dân, do nhân dân bầu ra và được thành lập ở
thôn, xóm, bản, ấp, khóm, tổ dân phố và các cụm dân cư, trực tiếp gắn bó
hàng ngày với nhân dân để kịp thời giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh
chấp nhỏ trong nhân dân, nhằm củng cố khối đoàn kết toàn dân, giữ gìn tình
làng, nghĩa xóm, làm tốt đẹp hơn quan hệ gia đình, họ hàng, làng, khu, xóm,
phố và góp phần tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân
dân, chủ động ngăn ngừa vi phạm pháp luật, hạn chế đơn thư khiếu kiện và
các vụ việc phải đưa ra Toà án giải quyết. Theo Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt
động hoà giải ở cơ sở năm 1998, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18
tháng 10 năm 1999 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLTBTP-BNV, nhiệm vụ Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức
và hoạt động hòa giải của ủy ban nhân dân cấp xã bao gồm các công việc cụ
thể sau: - Kiện toàn tổ chức, củng cố đội ngũ những người làm công tác hoà
giải: + Rà soát, nắm chắc số lượng tổ hoà giải và số lượng, chất lượng hoà
giải viên hiện có để ra quyết định công nhận; + Đối chiếu với yêu cầu nhiệm
vụ cụ thể của địa phương để thực hiện các thủ tục thành lập tổ hoà giải mới; +
Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn hướng dẫn việc
thực hiện các thủ tục, trình tự thành lập tổ hoà giải, bầu, miễn nhiệm Tổ
trưởng, tổ viên Tổ hoà giải theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn
18
của cơ quan tư pháp cấp trên; + Ra quyết định công nhận tổ hoà giải, tổ viên,
tổ trưởng tổ hoà giải trên cơ sở kết quả bầu của nhân dân; + Theo dõi hoạt
động hoà giải, nắm chắc những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức, hoạt
động của các tổ hoà giải và hoà giải viên. - Thực hiện việc bồi dưỡng nghiệp
vụ hoà giải, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ hoà giải theo sự hướng dẫn của
cơ quan tư pháp cấp trên: + Thường xuyên theo dõi, nắm bắt trình độ, năng
lực của đội ngũ tổ viên Tổ hoà giải ở cơ sở; + Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng
kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hoà giải cho tổ viên Tổ hoà giải (Kế hoạch
phải phù hợp với trình độ của các tổ viên Tổ hoà giải, phù hợp với yêu cầu
giải quyết các vụ việc hoà giải thường gặp trên địa bàn); + Sau khi các kế
hoạch bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hoà giải được phê duyệt,
với sự chỉ đạo của cơ quan tư pháp cấp trên, phối hợp với các luật gia, chuyên
gia có kinh nghiệm tổ chức thực hiện các kế hoạch đó; + Sưu tầm, tổng hợp
tài liệu nghiệp vụ cần thiết về công tác hoà giải để cung cấp cho các tổ hoà
giải, nếu có điều kiện cấp đến tận tổ viên Tổ hoà giải. - Sơ kết, tổng kết công
tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương và báo cáo công tác hoà giải với cơ
quan tư pháp cấp trên: + Theo dõi, tổng hợp, thống kê số liệu về các loại vụ
việc tiếp nhận, các vụ việc đã hoà giải thành, đang hoà giải, hoà giải không
thành, số vụ việc chuyển lên cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết, để từ đó
đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu, tồn tại, khó khăn, nguyên nhân, hiệu quả
của công tác này; + Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà
giải; + Báo cáo công tác hoà giải với cơ quan tư pháp cấp trên. - Tổ chức thi
đua, khen thưởng đối với hoạt động hòa giải ở địa phương: + Trên cơ sở mục
tiêu, phương hướng hoạt động hoà giải ở địa phương, phát động phong trào
thi đua trong hoạt động hoà giải ở cơ sở; + Sơ kết, tổng kết phong trào thi đua
trong hoạt động hòa giải ở cơ sở; + Thực hiện khen thưởng hoặc đề xuất cấp
trên khen thưởng những tập thể, cá nhân điển hình trong công tác hoà giải ở
19
cơ sở. - Tạo điều kiện, hỗ trợ về kinh phí và các điều kiện vật chất phục vụ
công tác hòa giải ở cơ sở từ nguồn ngân sách của ủy ban nhân dân cấp xã
hoặc huy động từ các tổ chức và cá nhân trên địa bàn. Hoà giải là việc hướng
dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thoả thuận, tự giải quyết với nhau
tận gốc các tranh chấp, mâu thuẫn, những việc vi phạm pháp luật có tính chất
nội bộ. Đây là hoạt động đòi hỏi người thực hiện phải hiểu biết pháp luật,
kinh nghiệm cuộc sống cũng như có phẩm chất đạo đức và uy tín với cộng
đồng. Do đó, công chức tư pháp - hộ tịch với vai trò là đầu mối, giúp Uỷ ban
nhân dân hướng dẫn và quản lý các tổ chức hoà giải ở cơ sở có trách nhiệm
thu hút được sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể, các cá nhân để từ đó lựa
chọn được những người có phẩm chất đạo đức, có uy tín, có năng lực, hiểu
biết pháp luật tham gia vào công tác hoà giải ở cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả,
chất lượng hoạt động hoà giải ở cơ sở.
1.6. Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong công tác thi hành án
dân sự trên địa bàn theo quy định của pháp luật Thi hành án là hoạt động cụ
thể của các cơ quan, tổ chức và công dân theo một trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định, nhằm đưa những nội dung được quyết định (phán quyết) trong
các bản án, quyết định của Toà án hoặc các quyết định khác theo quy định của
pháp luật được thực hiện trong thực tế, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Trong công tác thi hành án dân
sự, ủy ban nhân dân cấp xã tham gia với tư cách là cơ quan phối hợp với cơ
quan thi hành án dân sự địa phương tổ chức thi hành các bản án, quyết định
về dân sự của tòa án trên địa bàn, mà không phải là cơ quan có thẩm quyền tổ
chức thi hành án. Trách nhiệm tổ chức thi hành án dân sự thuộc về cơ quan thi
hành án dân sự. Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
phối hợp với Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự thực hiện thi hành
20
các bản án, quyết định về dân sự của tòa án trên địa bàn theo quy định của
pháp luật và kế hoạch cụ thể của cơ quan thi hành án dân sự địa phương.
1.7. Thực hiện việc quản lý và đăng ký hộ tịch Quản lý và đăng ký hộ
tịch có vai trò quan trọng trong công tác quản lý, thống kê dân số và quản lý
xã hội của chính quyền cấp xã. Thông qua quản lý và đăng ký hộ tịch, Uỷ ban
nhân dân cấp xã có thể theo dõi thực trạng biến động về hộ tịch nhằm kịp thời
bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; thống kê, phân tích dân
số; thu thập các thông số quan trọng về gia đình và xã hội, làm cơ sở cho việc
hoạch định và xây dựng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh
quốc phòng, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Trong lĩnh vực quản
lý nhà nước về hộ tịch, ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây: - Thực hiện đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật; - Tuyên truyền,
phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý
và đăng ký hộ tịch; - Quản lý, sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch
theo quy định của Bộ Tư pháp; - Lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch; - Cấp bản
sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch; - Tổng hợp tình hình và thống kê biến động
về hộ tịch để báo cáo ủy ban nhân dân cấp huyện theo định kỳ 6 tháng và
hàng năm. - Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về hộ tịch theo
thẩm quyền. Công chức tư pháp - hộ tịch có trách nhiệm tham mưu, giúp ủy
ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý và đăng ký hộ tịch với các nội dung
công việc cụ thể sau: - Thụ lý hồ sơ, kiểm tra, xác minh và đề xuất với Chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định việc đăng ký hộ tịch; Thường xuyên kiểm tra và vận động nhân dân đi đăng ký kịp thời các sự kiện
hộ tịch. Đối với những khu vực người dân còn bị chi phối bởi phong tục, tập
quán hoặc điều kiện đi lại khó khăn, cán bộ tư pháp - hộ tịch phải có lịch định
kỳ đến tận nhà dân để đăng ký những sự kiện hộ tịch đã phát sinh. - Chịu
trách nhiệm trước ủy ban nhân dân cấp xã về những sự kiện hộ tịch phát sinh
21
trên địa bàn xã, phường, thị trấn mà không được đăng ký hoặc đăng ký không
đúng sự thật, sai pháp luật. - Sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch
theo quy định của Bộ Tư pháp; - Tổng hợp tình hình và thống kê chính xác số
liệu hộ tịch để ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo ủy ban nhân dân cấp huyện
theo định kỳ 6 tháng và hàng năm; - Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân
dân chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý và đăng ký hộ tịch; Giữ gìn, bảo quản, lưu trữ sổ hộ tịch và giấy tờ hộ tịch; khi thôi giữ nhiệm vụ
phải bàn giao đầy đủ cho người kế nhiệm.
1.8. Thực hiện một số việc về quốc tịch thuộc thẩm quyền theo quy
định của pháp luật Ngày 13 tháng 11 năm 2008, Luật Quốc tịch Việt Nam số
24/2008/QH12 (sau đây gọi là Luật Quốc tịch năm 2008) được ban hành tiếp
tục kế thừa các quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 và các văn
bản hướng dẫn thi hành, đồng thời mở rộng các nội dung liên quan quản lý
nhà nước về quốc tịch đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài và đăng
ký quốc tịch Việt Nam, bãi bỏ nguyên tắc một quốc tịch, nới lỏng các điều
kiện xin nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho người Việt
Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam, tránh tình trạng người Việt
Nam định cư ở nước ngoài không có quốc tịch. Thông qua công tác quản lý
và đăng ký hộ tịch, Ủy ban nhân dân cấp xã là nơi quản lý các loại giấy tờ liên
quan đến nhân thân của người có yêu cầu đăng ký quốc tịch Việt Nam, chứng
minh nguồn gốc và xuất thân của cá nhân như giấy khai sinh, sổ hộ tịch... Do
vậy, trong quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước về quốc tịch, ủy ban
nhân dân cấp xã có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan có liên quan trong
việc xác minh tính chính xác và trung thực của các hồ sơ đăng ký, xin nhập
quốc tịch... theo yêu cầu của các cơ quan này. Đối với người nước ngoài làm
việc và sinh sống trên địa bàn, ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm và có
các điều kiện thuận lợi để quản lý, giám sát, theo dõi các biến động về chỗ ở,
22