Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Thực trạng các tranh chấp hợp đồng tín dụng và kiến nghị giải pháp hạn chế tranh chấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.28 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Ngày này trong thời kỳ đất nước mở cửa hội nhập thì hoạt động Ngân hàng có
một vai trò quan trọng trong quá trình vận hành và phát triển của nền kinh tế.
Khi đó, có nhiều doanh nghiệp được thành lập để hoạt động sản xuất kinh doanh,
điều này cũng đồng nghĩa với nhu cầu về vốn tăng cao. Để đồng vốn tự chảy từ nơi
tạm thời dư thừa đến nơi tạm thời thiếu hụt theo cơ chế tự nhiên thì rất khó có thể
đạt được mục đích khai thác nguồn vốn của các bên. Vì vậy, cần có sự hiện diện của
các Ngân hàng (tổ chức tín dụng). Thông qua hoạt động cho vay của các tổ chức
này, xã hôị sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực của mình để sản xuất của cải vật
chất phục vụ đời sống.
Tuy nhiên, do quan hệ kinh tế đa dạng và phức tạp. Hơn nữa, lĩnh vực tài
chính rất nhạy cảm nên thực tế hợp đồng tín dụng dễ xảy ra tranh chấp.
Chính vì lý do đó, em đã chọn đề tài báo cáo thực tập tốt nghiệp là “pháp luật về
hợp đồng tín dụng”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài này không quá mới mẻ đối với Việt Nam và các nước trên thế giới. Đề tài
này đã đang, và sẽ trở thành vấn đề quan tâm nhất của các chủ thế có nhu cầu đầu tư
và vay vốn. Hiện nay có nhiều tác giả, giáo trình nghiên cứu đến như: Giáo trình
luật Ngân hàng của Đại học luật Hà Nội – Nhà xuất bản công an nhân dân; giáo
trình luật Ngân hàng của Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh; giáo trình luật Ngân
hàng Việt Nam của Thạc sĩ Trần Vũ Hải.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Hợp đồng tín dụng là một phần nhỏ trong hoạt động tín dụng Ngân hàng. Và là
sản phẩm của quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng. Vì vậy đề tài
này muốn hướng đến nghiên cứu những kiến thức cơ bản của pháp luật về hợp đồng
tín dụng và thực trạng tranh chấp hợp đông tín dụng. Để từ đó có cái nhìn toàn diện
về hoạt động cho vay ở nước ta từ lý luận thực định cho đến thực tiễn. Từ đó các
chủ thể khác có cách hành xử hợp lý khi tham gia quan hệ vay tín dụng.
4. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Khác với những tác giả được giới thiệu bên trên. Đề tài này của cá nhân em có


cách tiếp cận mới hơn.
1.


Bằng phương pháp nghiên cứu phân tích – tổng hợp; so sánh đối chiếu và mạch viết
bài theo cấu trúc “IRAC” đề tài cho thấy những lỗi gặp trong tranh chấp hợp đồng
tín dụng.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với tư duy nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn. Nhưng đề tài chú ý nhấn mạnh
đến thực tiễn nhiều hơn. Với mong muốn chỉ ra những tranh chấp phổ biến trong
hợp đồng tín dụng. Đề tài có thể giúp các chủ thể tránh được những lỗi này khi ký
kết hợp đồng, góp phần lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng.
6. Bố cục đề tài
Chương 1. Một số vấn đề chung về hợp đồng tín dụng
Chương 2. Thực trạng các tranh chấp hợp đồng tín dụng và kiến nghị giải pháp
hạn chế tranh chấp.
Lời cám ơn
Em xin chân thành gửi lời cám ơn đến giáo viên hướng dẫn cô Trịnh Thục Hiền
– giảng viên khoa luật kinh tế trường đại học Kinh Tế - Luật, luật sư Hồ Phước
Long và chuyên viên Diệp Minh Hòa văn phòng luật sư Đức Pháp Quyền đã quan
tâm, tạo điều kiện giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực tập và hoàn thành bài
báo cáo này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 thàng 03 năm 2014


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng


Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ Latinh là credo có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm. Trong cuộc sống thuật ngữ “tín dụng” được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau. Trong quan hệ tài chính, “tín dụng” có thể được hiểu theo các nghĩa sau 1:
- Dưới góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
thể thiếu hụt tiết kiệm, thì tín dụng được coi là sự chuyển dịch vốn từ người
cho vay sang người đi vay.
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Theo đó bên cho vay thỏa thuận đồng ý
cho bên đi vay sử dụng vốn và trong một thời hạn nhất định, bên đi vay phải
thanh toán cả vốn lẫn lãi.
- Tín dụng còn được hiểu là sự bảo lãnh của bên thứ ba thường được gọi là tín
dụng bằng chữ ký.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung
cấp cho khách hàng.
Ở đây chúng ta xem xét tín dụng như là một chức năng cơ bản của ngân hàng, vì
vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được
định nghĩa như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân
hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các
chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vô điều kiện vốn gốc và lãi suất cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên, như vậy bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở có hoàn trả và có những đặc điểm sau:
- Giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng gồm hai hình thức là cho vay
(bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trước đây, hoạt động tín
1 Tín dụng ngân hàng _ Lê Văn Tề, nhà xuất bản giao thông vận tải, trang 7.


dụng ngân hàng chỉ có hình thức cho vay bằng tiền. Chính vì vậy nên nhiều

lúc hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ được nhìn nhận dưới góc độ là hoạt
động cho vay mà thôi. Từ những năm 1970 trở lại đây, cho thuê tài chính đã
được các ngân hàng và các định chế tàii chính khác đẩy mạnh cung cấp cho
khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức
tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng, máy móc – thiết bị).
- Đặc trưng của tín dụng là có hoàn trả, vì vậy người cho vay chỉ có thể an tâm
chuyển giao tài sản của mình cho người đi vay sử dụng khi họ có cơ sở tin
rằng người đi vay sẽ hoàn trả đúng hẹn. Đây là một yếu tố cơ bản trong quản
trị tín dụng. Bởi lẽ nguyên tắc của tín dụng là xuất phát từ lòng tin.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là người đi vay ngoài nghĩa vụ trả nợ gốc thì còn phải trả thêm lãi suất.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Do đó, khi đến hạn thanh toán, người đi vay phải thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả một cách vô điều kiện cho bên cho vay.
1.1.2. Vai trò của tín dụng
Thứ nhất, tín dụng là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra
thường xuyên và liên tục. Tại cùng một thời điểm trong nền kinh tế luôn tồn tại hai
nhóm doanh nghiệp: một nhóm “tạm thời thừa vốn” và muốn đầu tư vốn này để
kiếm lời trong thời gian nhất định. Một nhóm “tạm thời thiếu hụt vốn” và có nhu
cầu tím kiếm nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu hiện tại. Chính vì vậy, nhờ có kênh tín
dụng mà nguồn vốn có thể luân chuyển từ nơi tạm thừa đến nơi tạm thiếu, đáp ứng
được nhu cầu của hai nhóm doanh nghiệp và dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh
diễn ra một cách thường xuyên và liên tục.
Thứ hai, tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Bất
cứ một quốc gia nào, muốn phát triển kinh tế thì đều phải có nguồn vốn lớn đầu tư
vào đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giả giá thành, nâng cao tính cạnh
tranh. Nhưng để có được lượng vốn đầu tư lớn như thế thì chỉ có quan hệ tín dụng
mới có thể đáp ứng được. Bởi lẽ, quan hệ tín dụng sẽ tập trung huy động mọi nguồn
vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và mang nguồn vốn này đi đáp ứng nhu cầu đầu tư
trên.

Thứ ba, tín dụng góp phần thực hiện chính sách xã hội.Thông qua hình thức
vay trả góp của các ngân hàng mà những người nghèo, người có thu nhập thấp,
người tàn tật có được nhà ở, phương tiện đi lại…


Thứ tư, tín dụng là công vụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Như đã biết, cơ cấu
kinh tế được quyết định bởi cơ cấu đầu tư, mà cơ cấu đầu tư lại được quyết định bởi
cơ chế tín dụng. Chính vì vậy, Nhà nước thông qua hoạt động ngân hàng thương
mại, cụ thể là hoạt động tín dụng để điều tiết vĩ mô kinh tế quốc gia.
1.1.3. Tín dụng ngân hàng và các hình thức tín dụng ngân hàng
Ngày nay, khi thừa vốn tạm thời thì ta đầu tư (cho vay) lấy lãi, còn khi thiếu
hụt vốn tạm thời thì ta đi vay điều này làm phát sinh quan hệ tín dụng trực tiếp. Tuy
nhiên quan hệ tín dụng trực tiếp có nhiều hạn chế như người dư thừa và người thiếu
hụt vốn không dễ dàng gặp nhau về mặt không gian, thời gian, khối lượng, loại tiền,
lãi suất và đặc biệt là độ tin cậy lẫn nhau thế nên tín dụng trực tiếp không thể phát
triển được. Chính vì vậy, để khắc phục nhược điểm của tín dụng trực tiếp cũng như
đáp ứng nhu cầu đầu tư và nhu đi vay trong nền kinh tế, thì cần thiết phải có một tổ
chức đứng ra huy động toàn bộ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, rồi trên cơ sở vốn huy
động được cấp tín dụng cho những người có nhu cầu vốn tạm thời. Thực hiện chức
năng trung gian này chính là các tổ chức tín dụng, mà trong đó chủ yếu là các ngân
hàng thương mại. Như vậy, ngân hàng thực hiện chức năng luân chuyển vốn giữa
các chủ thể khác trong nền kinh tế; thực hiên chức năng này, ngân hàng vừa đóng
vai trò là người đi vay (con nợ), vừa đóng vai trò là người cho vay (chủ nợ). Đây là
quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết kiệm thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể
có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua vai trò trung gian của các ngân hàng.
Như vậy ta có thể rút ra định nghĩa về tín dụng ngân hàng: Hình thức cấp tín dụng
ngân hàng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam
kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

Trong thực tế, chúng ta thường hay nhầm lẫn cho rằng hoạt động tín dụng và
hoạt động cho vay là một. Thực ra không phải vậy, theo định bên trên thì hoạt động
tín dụng của ngân hàng phong phú và đa dạng hơn nhiều, nói khác đi cho vay chỉ là
một trong những hình thức tín dụng ngân hàng. Như vậy, ngoài hình thức cho vay
thì hoạt động tín dụng ngân hàng còn có một số hình thức khác như2:
- Bảo lãnh ngân hàng: Dưới góc dộ pháp lý, quy chế bảo lãnh ngân hàng ban
hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ- NHNN ngày 26/6/2006 đưa ra
2 Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam_ Trần Vũ Hải, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, trang 132, 147,
155, 164.


-

-

định nghĩa bảo lãnh ngân hàng là “cam kết bằng văn bản của tổ chức tín
dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số
tiền đã được trả thay”. Còn dưới góc độ kinh tế học, bảo lãnh ngân hàng
thường được quan niệm như là một nghiệp vụ cấp tín dụng, bởi lẽ thông qua
nghiệp vụ bảo lãnh, tổ chức tín dụng đã giúp khách hàng thỏa mãn nhu cầu
về vốn của mình trong kinh doanh hoặc tiêu dùng. Ở một số quốc gia, nghiệp
vụ cấp tín dụng này của tổ chức tín dụng từng được biết đến với tên gọi là
“tín dụng bằng chữ ký”. Ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng cũng thừa
nhận nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng
của tổ chức tín dụng.
Chiết khấu giấy tờ có giá: là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng mà
theo đó, tổ chức tín dụng mua giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của
khách hàng. Trong đời sống kinh tế, pháp luật cho phép các chủ thể có quyền

phát hành các chứng chỉ để huy động vốn như: cổ phiếu, trái phiếu, chứng
chỉ tiền gửi, tín phiếu kho bạc, hối phiếu… Các loại giấy tờ này là bằng
chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với
người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định (Khoản 8, điều 6,
Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010). Kể từ khi xác lập quyền sở
hữu các giấy tờ có giá, chủ sở hữu cần phải chờ đến khi giấy tờ có giá đến
hạn thanh toán mới thu hồi lại được lượng giá trị đã bỏ ra. Tuy nhiên, có một
giải pháp khác được pháp luật cho phép, đó là việc chủ thể có thể chuyển
nhượng quyền sở hữu giấy tờ có giá ấy cho chủ thể khác trước khi đến hạn
thanh toán. Mua lại giấy tờ có giá chỉ được coi là hoạt động cấp tín dụng khi
và chỉ khi chủ thể mua lại là các tổ chức tín dụng hoặc Ngân hàng Nhà nước.
Cho thuê tài chính: Hoạt động cho thuê tài chính bắt nguồn từ hoạt động cho
thuê tài sản nhưng có những đặc thù nhất định. Trong đó điểm nổi bật là việc
bên thuê có nhiều quyền năng hơn hoạt động cho thuê tài sản thông thường.
Theo “Chuẩn mực kế toán quốc tế số 17, sửa đổi năm 1997” (gọi là IAS 17)
do Ủy ban về chuẩn mực kế toán quốc tế ban hành thì “cho thuê tài chính là
loại cho thuê có khả năng dịch chuyển về cơ bản tất cả những rủi ro và lợi
ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu đó cuối cùng có thể
được chuyển giao hoặc không được chuyển giao”. Theo quy định của pháp


luật Việt Nam hiện hành, cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và
dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển
và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê (là
công ty cho thuê tài chính) với bên thuê, theo đó, bên cho thuê cam kết mua
tài sản thuê theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các
tài sản này trong suốt thời gian thuê, bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh
toán tiền thuê theo thỏa thuận.
- Bao thanh toán: bao thanh toán được hiểu nôm na là trong giao dịch mua
bán hàng hóa, đặc biệt là mua bán hàng hóa quốc tế, bên bán bán hàng cho

bên mua nhưng không phải là trả tiền ngay. Trong khi bên bán lại cần tiền
ngay để tiếp tục quay vòng vốn kinh doanh. Chính vậy pháp luật đã quy định
một phương thức thanh toán mà theo đó, bên bán sau khi giao hàng có thể
chuyển nhượng quyền đòi nợ của mình cho tổ chức tín dụng, gọi là nghiệp
vụ bao thanh toán. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao thanh toán là
một hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hóa, dịch vụ thông qua việc
mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc bán hàng hóa, dịch vụ đã được
bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa,
dịch vụ. Như vậy, định nghĩa về bao thanh toán theo pháp luật Việt Nam
dường như hẹp hơn so với định nghĩa của Công ước UNDROIT, quy định
cho thấy bản chất tín dụng của hình thức bao thanh toán chỉ thể hiện thông
qua việc tài trợ cho bên bán từ việc chuyển nhượng khoản phải thu, chứ
không đề cập tới các nghiệp vụ khác cũng được coi là thuộc về nghiệp vụ
bao thanh toán như cho vay, thu hộ, quản lý các khoản phải thu và bảo hiểm
rủi ro khi bên trả tiền không thanh toán. Như vậy, bản chất của bao thanh
toán theo pháp luật Việt Nam là chuyển nhượng quyền đòi nợ theo hợp đồng
mua bán hàng hóa, dịch vụ từ bên bán hàng (bên xuất khẩu) cho tổ chức tín
dụng. Tổ chức tín dụng sẽ có quyền đòi nợ từ bên mua hàng (nhà nhập khẩu)
theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ.
1.2.
Một số vấn đề về hợp đồng tín dụng
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Trong luật học, hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận bằng lời nói, văn
bản, hành vi giữa hai hay nhiều chủ thể có đủ năng chủ thể nhằm xác lập, thực hiện
hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định trên cơ sở phù hợp với pháp


luật và đạo đức xã hội. Từ quan điêm chung về hợp đồng và căn cứ vào bản chất
của hợp đồng tín dụng có thể định nghĩa về hợp đồng tín dụng như sau:
Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho

vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay), theo đó tổ
chức tín dụng thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời
hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm.
Với định nghĩa này, hợp đồng tín dụng bao gồm hai yếu tố:
Về phương diện hình thức, sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với
khách hàng (bên đi vay) phải được thể hiện bằng văn bản.
Về phương diện nội dung, bên cho vay đồng thuận để bên vay được sử dụng một số
tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả, dựa trên sự tín
nhiệm3.
Xét về đặc điểm, ngoài những dấu hiệu chung của một hợp đồng thì hợp
đồng tín dụng còn có những đặc trưng riêng. Sau đây là những nét riêng của hợp
đồng tín dụng để phân biệt với các chủng loại hợp đồng khác trong giao dịch dân sự
và thương mại.
Thứ nhất, về chủ thể, một bên tham gia hợp đồng bao giờ cũng là tổ chức tín
dụng có đủ các điều kiện luật định, với tư cách là bên cho vay. Sở dĩ vậy là do thực
chất quan hệ cho vay của tổ chức tín dụng cũng là một quan hệ hợp đồng dân sự
thông thường, tuy nhiên để đảm bảo sự phân biệt với các loại hợp đồng dân sự khác
nên được Luật Các tổ chức tín dụng định danh là hợp đồng tín dụng, hơn nữa quan
hệ này lại phát sinh trong lĩnh vực nhạy cảm nên cần có chủ thể có đủ khả năng
chuyên môn nghiệp vụ đảm bảo thực hiện. Với tư cách là bên cho vay, tổ chức tín
dụng sử dụng chủ yếu nguồn vốn huy động từ xã hội để tiến hành cho vay. Hoạt
động cho vay này của tổ chức tín dụng mang tính chất kinh doanh, được thực hiện
thường xuyên, chuyên nghiệp với mục tiêu là kiếm lời.
Thứ hai, hợp đồng tín dụng luôn được ký kết dưới hình thức văn bản. Pháp
luật quy định hợp đồng có thể được ký kết bằng lời nói, hành vi, văn bản. Đối với
hợp đồng tín dụng, bắt buộc phải là hình thức văn bản. Hợp đồng tín dụng được ký
kết dưới hình thức pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử
dưới dạng thông điệp dữ liệu. Văn bản hợp đồng tín dụng không chỉ là công cụ để
các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình mà còn là chứng cứ pháp lý quan
3 Giáo trình Luật Ngân hàng_Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản công an nhân dân, trang

153.


trọng để giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, việc lưu giữ hợp đồng tín dụng cũng
như các tài liệu trong hồ sơ vay vốn là nghĩa vụ của tổ chức tín dụng để đảm bảo
khả năng kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động cho vay.
Thứ ba, đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền (bao gồm tiền
mặt và bút tệ). Bởi lẽ hợp đồng tín dụng của ngân hàng chính là hợp đồng cho vay,
và tài sản cho vay ở đây chỉ có thể là tiền. Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng
tín dụng bao giờ cũng phải là một số tiền xác định và phải được các bên thỏa thuận,
ghi rõ trong văn bản hợp đồng.
Thứ tư, hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền
lợi của bên cho vay. Bởi lẽ bên cho vay đã cam kết với bên đi vay trong hợp đồng
tín dụng rằng bên cho vay chỉ đòi tiền của bên đi vay sau thời hạn nhất định. Thời
hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn, vì thế tổ chức tín dụng
cần phải chú trọng đến việc áp dụng các biện pháp quản trị rủi ro, đồng thời phải
quy định lãi suất cho vay cao hơn nhằm thu hồi các chi phí bỏ ra cho việc quản lí
các khoản cho vay dài hạn có mức độ rủi ro cao.
Thứ năm, về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
tín dụng. Trong hợp đồng tín dụng, nghĩa vụ chuyển giao tiền vay (nghĩa vụ giải
ngân) của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước, làm cơ sở, tiền đề
cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay. Vậy nên chỉ khi nào bên cho vay
chứng minh được rằng họ đã chuyển giao tiền vay theo đúng hợp đồng tín dụng cho
bên vay thì khi đó họ mới có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa vụ đối
với mình.
Thứ sáu, hợp đồng tín dụng luôn nhằm mục đích sinh lợi. Như đã phân tích,
nguyên tắc trong vay tín dụng là có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Lợi nhuận mà các tổ
chức tín dụng có được là sự chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động
sau khi đã trừ đi các chi phí hoạt động. Vì hợp đồng tín dụng luôn mang tính chất
kinh doanh nên lãi suất cho vay lúc nào cũng cao hơn lãi suất huy động vốn và sự

chênh lệch này phụ thuộc vào cung cầu về vốn trên thị trường vào từng thời điểm cụ
thể trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật về lãi suất. Điều 91 Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2010 “1.Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết
công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động
kinh doanh của tổ chức tín dụng.
2.Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”. Như


vậy các tổ chức tín dụng được phép quy định mức lãi suất trong hoạt động tín dụng
của mình nhưng phải trong giới hạn cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, tổ chức tín dụng cũng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
thông thường cho nên lợi nhuận cũng là mục tiêu và động lực để các tổ chức này
duy trì hoạt động. Khách hàng càng nhiều, hợp đồng càng tăng thì lợi nhuận của tổ
chức sẽ sinh sôi, phát triển. Vì vậy, vận mệnh của tổ chức tín dụng luôn gắn liền với
khả năng tạo ra thặng dư của đồng tiền thông qua việc huy động vốn và ký kết các
hợp đồng tín dụng.
Thứ bảy, hơp đồng tín dụng là loại hợp đồng song vụ vì giữa bên cho vay và
bên vay đều có nghĩa vụ với nhau và có sự tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ. Nội
dung của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng bao gồm những điều khoản do các bên có
đủ tư cách chủ thể (bên cho vay và bên đi vay) cam kết với nhau một cách tự
nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp luật và những điều khoản của hợp đồng tín
dụng vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín dụng.
1.2.2. Vai trò của hợp đồng tín dụng
Thứ nhất, hoạt động cho vay này giúp cho bên vay giải quyết được những
khó khăn kinh tế trước mắt, giúp cho các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình… khắc phục
được tình trạng khó khăn về vốn, từ đó có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm
phát triển kinh tế.
Thứ hai, hợp đồng tín dụng là công cụ để thực hiện việc phân phối lại vốn

tiền tệ nhằm phát triển kinh tế đất nước. Thông qua việc huy động vốn trong dân
chúng để cho vay, các tổ chức tín dụng có thể tạm thời điều tiết nguồn vốn trong xã
hội từ nơi tạm thời thừa vốn sang nơi tạm thời thiếu vốn, tức là điều tiết nguồn cung
và nguồn cầu về vốn trong nền kinh tế. Và như vậy đồng tiền được sử dụng một
cách có hiệu quả hơn, hạn chế tối đa đồng tiền “chết”.
Thứ ba, hợp đồng tín dụng là công cụ để Nhà nước thực hiện sự giúp đỡ của
mình về mặt tài chính đối với các đối tượng là người dân nghèo, điều kiện kinh tế
khó khăn, các đối tượng Nhà nước cần khuyến khích phát triển có lợi cho quốc tế
dân sinh bằng việc cho các đối tượng này vay với những ưu đãi nhất định về lãi
suất, thời hạn vay…
Thứ tư, cho vay thông qua hợp đồng tín dụng là một hoạt động cấp tín dụng
của các tổ chức tín dụng. Thông qua hoạt động này, các tổ chức tín dụng có thể thu
lại lợi nhuận bằng sự chênh lệch giữa lãi suất huy động với lãi suất cho vay.


1.2.3. Phân loại hợp đồng tín dụng

Xét về mặt lý thuyết, hợp đồng tín dụng có thể được phân thành nhiều loại
dựa vào những tiêu chí khác nhau, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa pháp lý nhất định.
Sau đây là những phân loại cơ bản nhất.
Theo tiêu chí thời hạn vay, hợp đồng tín dụng được chia thành hai loại là hợp
đồng tín dụng ngắn hạn và hợp đồng tín dụng trung hạn, dài hạn.
Hợp đồng tín dụng ngắn hạn là hợp đồng có thời hạn sử dụng vốn vay dưới 12
tháng. Khoản vay này thường đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn, cấp bách
như tài trợ tạm thời để thanh toán tiền hàng, tài trợ xuất nhập khẩu và những mục
đích ngắn hạn khác. Còn hợp đồng tín dụng trung và dài hạn là những hợp đồng
phục vụ cho mục đích sử dụng vốn dài hạn, mang tính chiến lược, thời gian thu hồi
vốn lâu như đầu tư dự án, mua máy móc, thiết bị… Thời hạn sử dụng vốn của loại
hợp đồng này từ 12 tháng trở lên.
Vì hợp tín dụng trung và dài hạn có vòng quay đồng vốn bé nên để đảm bảo khả chi

trả của tổ chức tín dụng, pháp luật không cho phép tổ chức tín dụng dành quá nhiều
nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Theo thông tư số
15/2009/TT – NHNN ngày 10/08/009 của Ngân hàng Nhà nước thì đối với ngân
hàng thương mại không được sử dụng quá 30% vốn huy động ngắn hạn để cho vay
trung, dài hạn. Đối với Quỹ tín dụng nhân dân trung ương là 20%, còn đối với công
ty tài chính và công ty cho thuê tài chính là 30%.
Theo tiêu chí đảm bảo khả năng hoàn trả, thì hợp đồng tín dụng được phân
thành hai loại là hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản và hợp đồng tín dụng
không có bảo đảm bằng tài sản.
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là loại cho vay mà nghĩa vụ trả nợ vay được bên
vay bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp hoặc
bảo lãnh. Trong trường hợp bên vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, tổ chức
tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ theo thỏa thuận và phù hợp
với quy định của pháp luật.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản là loại cho vay mà nghĩa vụ trả nợ không
được bảo đảm bằng một tài sản cụ thể mà bằng toàn bộ khả năng tài chính của bên
vay. Trong trường hợp bên vay không trả nợ, tổ chức tín dụng không thể xử lý bất
cứ tài sản nào của bên vay để thu hồi nợ mà chỉ có thể yêu cầu trả nợ hoặc đề nghị
giải quyết tranh chấp tại tòa án hoặc trọng tài thương mại.


Hiện nay pháp luât cho phép tổ chức tín dụng tự quyết định cho vay có bảo đảm
bằng tài sản hay không có bảo đảm bằng tài sản trên cơ sở đánh giá khả năng tài
chính và mức độ tín nhiệm đối với bên vay. Tuy nhiên trên thực tế, các khoản cho
vay lớn hoặc dài hạn thường là cho vay có bảo đảm bằng tài sản nhằm đảm bảo cho
khả năng thu hồi vốn vay của tổ chức tín dụng.
Theo tiêu chí mục đích sử dụng vốn vay, thì hợp đồng tín dụng được phân
thành hai loại cơ bản là hợp đồng tín dụng kinh doanh và hợp đồng tín dụng tiêu
dùng.
Cho vay kinh doanh là loại cho vay mà nguồn vốn vay được bên vay sử dụng vào

mục đích kinh doanh như đầu tư dự án, thanh toán tiền hàng, mua máy móc,
phương tiện sản xuất… Cho vay kinh doanh thông thường là những món vay lớn,
có nhiều rủi ro nên cần được tổ chức tín dụng thẩm định kỹ càng đề đảm bảo khả
năng thu hồi vốn.
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay mà nguồn vốn vay được bên vay sử dụng vào
mục đích tiêu dùng như mua nhà, sửa chữa nhà, du học… Cho vay tiêu dùng thông
thường là những món vay nhỏ hơn so với vay kinh doanh, nhưng nhiều trường hợp
thời gian vay lại tương đối dài, nên cũng tác động đến khả năng thu hồi nợ. Bên
cạnh một số trường hợp cần tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng quyết định cho vay
tiêu dùng thường dựa trên khả năng tạo thu nhập của người đi vay.
Theo tiêu chí mục tiêu cho vay của tổ chức tín dụng, hợp tín dụng phần
thành hợp đồng tín dụng cho vay thông thường, hợp đồng tín dụng cho vay chính
sách và cho vay đặc biệt.
Hợp đồng cho vay đặc biệt là loại cho vay của tổ chức tín dụng đơn thuần vì mục
tiêu kinh doanh. Tổ chức tín dụng đánh giá và quyết định cho vay dựa trên các quy
định của pháp luật và mục đích lợi nhuận của bản thân mình.
Hợp đồng cho vay chính sách là loại cho vay nhằm thực hiện các chính sách kinh tế
xã hội của Nhà nước như xóa đói giảm nghèo, chống suy giảm kinh tế, hỗ trợ các
nhóm đối tượng đặc biệt… Cho vay chính sách thường áp dụng cho một nhóm chủ
thể vay đủ điều kiên nhất định theo quy định của pháp luật, đồng thời có khuynh
hướng ưu đãi về lãi suất, thời hạn vay, những biện pháp bảo đảm…
Hợp đồng cho vay đặc biệt là loại cho vay theo chỉ định của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền. Ví dụ: Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầu tổ chức tín dụng cho một tổ
chức tín dụng khác vay khi bên vay đang trong tình trạng kiểm soát đặc biệt. Chính


phủ có thể yêu cầu tổ chức tín dụng cho vay đặc biệt trong một số trường hợp nhất
định với cam kết hỗ trợ từ nhà nước về khả năng hoàn trả khoản vay này.
Theo số lượng bên cho vay, hợp đồng tín dụng phân thành hai loại là hợp
đồng cho vay đơn nhất và hợp đồng cho vay hợp vốn (đồng tài trợ).

Hợp đồng cho vay đơn nhất là loại hợp đồng cho vay mà bên cho vay chỉ là một tổ
chức tín dụng duy nhất. Trong quan hệ hợp đồng vay này, chỉ cần hợp đồng tín dụng
giữa tổ chưc tín dụng và bên vay để thực hiện việc cho vay.
Hợp đồng cho vay hợp vốn là loại cho vay mà bên cho vay gồm nhiều tổ chức tín
dụng, cùng hợp vốn để cho khách hàng vay. Việc cho vay hợp vốn thường được áp
dụng trong các trương hợp sau:
+ Nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án vượt quá giới hạn cho vay của một
tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật;
+ Nhu cầu phân tán rủi ro của các tổ chức tín dụng khi quyết định cho
vay;
+ Khả năng nguồn vốn của một tổ chức tín dụng không đáp ứng nhu cầu
vốn của dự án.


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN
DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TRANH CHẤP
Thực hiện hợp đồng tín dụng là việc các bên chủ động thực hiện các quyền,
nghĩa vụ đã phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, các bên phải tuân thủ một số nguyên
tắc thực hiện hợp đồng do pháp luật quy định như: nguyên tắc thực hiện đúng các
cam kết hợp đồng; thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi
nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau; không xâm phạm lợi ích công cộng và
quyền, lợi ích của chủ thể khác.
Thực tế thực hiện hợp đồng tín dụng có thể xảy ra một trong hai tình trạng
sau đây:
Một là, các bên thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng tín dụng và chấm dứt
hợp đồng.
Hai là, một bên hoặc cả hai bên vi phạm các cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Tuy rằng thực hiện hợp đồng tín dụng và tranh chấp hợp đồng tín dụng là hai vấn đề
pháp lý khác nhau nhưng chúng lại có mối liên quan với nhau. Có thể nói vi phạm

hợp đồng tín dụng trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng là nguyên nhân dẫn
đến tranh chấp hợp đồng tín dụng. Bởi lẽ, một hợp đồng tín dụng chỉ được coi là có
tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đã
được thể hiện ra bên ngoài (mặt khách quan) thông qua những bằng chứng cụ thể và
xác định được.
Như vậy, tranh chấp hợp đồng tín dụng được hiểu là tình trạng pháp lý của quan hệ
hợp đồng tín dụng, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với
nhau về những quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
Trong thực tiễn thực hiện hợp đồng tín dụng thường xảy ra các tranh chấp về hợp
đồng tín dụng như:
2.1. Thực trạng các tranh chấp hợp đồng tín dụng
2.1.1. Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng
Trong hợp đồng song vụ, nghĩa vụ của chủ thể này là quyền của chủ thể kia.
Là hợp đồng song vụ nên các chủ thể trong hợp đồng tín dụng phải thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình để đảm bảo quyền lợi cho chủ thể còn lại. Cụ thể bên cho vay có


nghĩa vụ giải ngân ngay sau khi hợp đồng tín dụng có hiệu lực, còn bên vay phải có
nghĩa vụ hoàn trả cả lãi và vốn cho bên cho vay khi hết thời hạn sử dụng vốn mà hai
bên đã thỏa thuận. Dưới đây là ví dụ điển hình quy định về nghĩa vụ cơ bản của các
bên mà các bên vẫn thường hay vi phạm4.
Ví dụ: Vụ kiện tranh chấp đòi nợ giữa nguyên đơn là Ngân hàng phát triển Việt
Nam (VDB) chi nhánh tại Thanh Hóa và bị đơn là Công ty TNHH Tây Đô (trụ sở
154 Lê Hoàn, phường Lam Sơn, Tp. Thanh Hóa ). Theo đơn khởi kiện, Ngân hàng
phát triển Việt Nam chi nhánh Thanh Hóa trình bày Ngày 17/8/2008, VDB Thanh
Hóa và Công ty Tây Đô ký Hợp đồng tín dụng số 12/2008. Theo đó, Dự án Trường
tiểu học và trung học cơ sở dân lập Thanh Hoa tại Khu đô thị mới xã Đông Hương,
Tp Thanh Hóa do Công ty Tây Đô làm chủ đầu tư với tổng mức vốn giai đoạn 1 là
trên 175,6 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn VDB Thanh Hóa cho vay là 74,5 tỷ đồng.
Ngày 26/12/2009, hai bên ký Hợp đồng bổ sung số 130/2009 điều chỉnh mức tổng

đầu tư lên 206,6 tỷ đồng, trong đó vốn VDB Thanh Hóa cho vay là 144 tỷ đồng
(bao gồm cả số tiền đã cho vay theo Hợp đồng 12). Tính đến ngày 1/8/2010, VDB
Thanh Hóa đã giải ngân cho Công ty Tây Đô 77,4 tỉ đồng. Trong quá trình thực hiện
dự án, Công ty Tây Đô đã có nhiều vi phạm cam kết trong Hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo đảm tiền vay như vi phạm thời hạn đầu tư dự án, vi phạm cam kết trả nợ
gốc và lãi.... Mặc dù VDB Thanh Hóa nhiều lần có văn bản nhắc nhở và làm việc
yêu cầu khắc phục nhưng Công ty Tây Đô không thực hiện được việc trả nợ. Ngày
15/2/2012, hai bên lập Biên bản thỏa thuận về xử lý tài sản bảo đảm, xác định số
tiền gốc vay là 77,4 tỷ đồng (trong đó nợ gốc quá hạn là 18,5 tỷ đồng); nợ lãi chưa
trả là 16,9 tỷ đồng. Trường hợp ngày 29/2/2012 Công ty Tây Đô không trả được gốc
và lãi thì công ty này tự nguyện bàn giao toàn bộ tài sản bảo đảm cho VDB Thanh
Hóa xử lý, thời hạn bàn giao là sáng 1/3/2012.
Tuy nhiên, đến hạn cam kết nhưng Công ty Tây Đô không thực hiện nên VDB
Thanh Hóa khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty Tây Đô thực hiện nghĩa vụ trả
toàn bộ nợ gốc, lãi cho VDB tạm tính đến ngày 10/4/2013 là 109.199.137.558 đồng
(chưa kể tiền lãi phát sinh từ ngày 11/4/2013 cho đến thời điểm kết thúc việc thi
hành án.
4 />

Bên phía bị đơn có yêu cầu phản tố, theo đó công ty TNHH Tây Đô lập luận rằng
VDB Thanh Hóa mới giải ngân đạt 56% (trong cam kết 70%) đã dừng giải ngân với
lý do “Bên B (Công ty Tây Đô) không bảo đảm khối lượng để giải ngân” là vi phạm
nghĩa vụ giải ngân, nên Công ty Tây Đô có đơn phản tố đề nghị VDB Thanh Hóa
bồi thường thiệt hại do VDB Thánh Hóa dừng giải ngân khiến Công ty Tây Đô
không có vốn thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho khách hàng, khác.
Sau phiên tòa sơ thẩm ngày 10, 11, 15, thì ngày 22/4/2013 của TAND TP.Thanh
Hóa đã ra phán quyết tại bản án số 04/2013/KDTM-ST: “Ngân hàng đã vi phạm kế
hoạch giải ngân theo các hợp đồng tín dụng đã ký kết”, đã buộc Ngân hàng phải
“bồi thường thiệt hại” cho Công ty TNHH Tây Đô. Đồng thời buộc công ty TNHH
Tây Đô hoàn trả số tiền gốc là 77 tỉ 442 triệu đồng và tiền lãi tính đến thời điểm xét

xử sơ thẩm 31 tỉ 757 triệu, tổng cộng là 109 tỉ 199 triệu cho Ngân hàng phát triển
Việt Nam. Tuy nhiên tại phiên tòa xét xử phúc thẩm ngày 29-10, TAND tỉnh Thanh
Hóa đã tuyên: Chấp nhận đơn khởi kiện của VDB, buộc Công ty Tây Đô phải trả
cho VDB số tiền gốc là 77 tỉ 442 triệu đồng và tiền lãi tính đến thời điểm xét xử sơ
thẩm 31 tỉ 757 triệu, tổng cộng là 109 tỉ 199 triệu; không chấp nhận các yêu cầu của
Công ty Tây Đô đòi VDB phải bồi thường theo mức án sơ thẩm đã tuyên là 26 tỉ
339 triệu và kháng cáo yêu cầu đòi bồi thường tại phiên phúc thẩm là 43 tỉ 237 triệu
đồng; VDB có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá tài sản thế
chấp của Công ty Tây Đô theo quy định của pháp luật. Thời hiệu thi hành bản án là
5 năm kể từ khi bản án có hiệu lực. Về án phí, buộc Công ty Tây Đô phải chịu mức
án phí tại phiên xét xử sơ thẩm là hơn 145 triệu đồng.
 Vi phạm nghĩa vụ của bên cho vay
Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, HĐTD là một dạng của hợp
đồng ưng thuận có hình thức bắt buộc bằng văn bản (văn bản viết hoặc văn bản điện
tử). Tại khoản 4 Điều 404 BLDS 2005: “thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản
là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản”; tại Điều 405 quy định: “hợp đồng được
giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Vì thế, sau khi HĐTD có hiệu lực, việc giải
ngân khoản tín dụng mà hai bên đã thoả thuận là nghĩa vụ của bên cho vay. Tuy
nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp sau khi ký kết HĐTD với khách hàng bên
cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều
này, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên vay như bên vay không


tiến hành kế hoạch kinh doanh như dự kiến, không có vốn đầu tư vào dự án đầu tư,
đấu thầu đã được đăng ký 5. Thực ra bản chất của hợp đồng tín dụng là hợp đồng vay
tài sản. Điều 473 BLDS 2005 quy định nghĩa vụ của bên cho vay “1. Giao tài sản
cho bên đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng vào thời điểm và địa điểm đã thõa
thuận; 2. Bồi thường thiệt hại cho bên vay, nếu bên cho vay biết tài sản không bảo
đảm chất lượng mà không báo cho bên vay biết, trừ trường hợp bên vay biết mà

vẫn nhận tài sản đó”. Vì vậy, xuất phát từ vị trí là bên cho vay trong hợp đồng tín
dụng, tổ chức tín dụng phải có nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng thời hạn
và địa điểm cho khách hàng vay sử dụng (thực hiện nghĩa vụ giải ngân). Nghĩa vụ
này phát sinh do việc bên cho vay đã cam kết cho khách hàng vay được sử dụng số
tiền của mình trong thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả. Hơn nữa, thực tế
bên vay chỉ có thể thực hiện được quyền sử dụng vốn vay và cũng chỉ có nghĩa vụ
hoàn trả tiền vay khi nào có bằng chứng chứng minh rằng họ đã nhận được tiền vay
do bên cho vay chuyển giao đúng thời hạn đã thỏa thuận. Như vậy, nếu bên cho vay
vi phạm nghĩa vụ giải ngân như giải ngân chậm hoặc không chịu giải ngân theo
thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thì bên cho vay bị coi là đã vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng và có thể phải bồi thường thiệt hại nếu như có thiệt hại xảy ra. Như vậy,
bên cho vay không muốn gánh lấy trách nhiệm bồi thường thì họ phải chứng minh
được họ không hề có lỗi trong những trường hợp ngừng giải ngân hoặc giải ngân
chậm, hoặc bên cho vay ngừng giải ngân theo đúng pháp luật (thuộc trường hợp
ngừng giải ngân được các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng).
Trong tranh chấp trên, tại phiên tòa phúc thẩm Ngân hàng phát triển Việt Nam đã
đưa ra được những tình tiết chứng minh họ được phép ngừng giải ngân theo thỏa
thuận trong hợp đồng.
 Vi phạm nghĩa vụ của bên vay
Tranh chấp hợp đồng tín dụng còn có thể xuất phát từ việc vi phạm nghĩa vụ
trả lãi và thậm chí cả gốc và lãi. Trên thực tế, có trường hợp hai bên không thoả
thuận rõ ràng về lãi suất đối với cả thời hạn vay hoặc ban đầu do cần tiền để thực
hiện kế hoạch của mình nên khách hàng chấp nhận mức lãi suất đó nhưng sau một
thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi suất đó cao quá nên
không đồng ý. Tuy nhiên, đa phần là dạng tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ trả nợ
của khách hàng khi đáo hạn.
5 />

Hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng song vụ nên đối ứng với quyền được sử dụng
vốn vay thì bên vay phải có nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi

phạm hợp đồng tín dụng và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có). Điều
474 BLDS 2005 quy định nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau: “1. Bên vay tài sản
là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại
đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”…5.Trong trường
hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay
phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”. Đây là một trong
những nghĩa vụ chính yếu của bên vay, phát sinh trên cơ sở hợp đồng tín dụng hoặc
phát sinh trên cơ sở phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan tài phán có
thẩm quyền. Thông thường, nghĩa vụ hòan trả tiền vay cả gốc và lãi sẽ phát sinh khi
hợp đồng tín dụng bắt đầu có hiệu lực và chúng phải được bên vay thực hiện khi
thời hạn sử dụng vốn vay đã hết.
Pháp luật quy định như vậy chỉ có ý nghĩa trong trường hợp bên vay có đủ khả năng
hoàn trả nhưng lại cố tình vi phạm. Còn trên thực tế phần lớn bên vay vi phạm
nghĩa vụ hòa trả là do việc kinh doanh, sản xuất thua lỗ không thu hồi đủ vốn.
2.1.2. Tranh chấp về thực hiện các biện pháp bảo đảm
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là việc tổ chức tín dụng và khách hàng vay
thỏa thuận về việc dùng tài sản của khách hàng hoặc tài sản của người thứ ba để
đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng vay, theo đó, nếu khách hàng vay
không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, tài sản bảo đảm sẽ được xử lý để tổ chức tín
dụng thu hồi nợ. Theo quy định của pháp luật hiện hành, để đảm bảo thực hiện hợp
đồng tín dụng, các bên có thể lựa chọn các biện pháp như: cầm cố tài sản của bên
vay, thế chấp tài sản của bên vay và bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Tranh chấp về thực hiện các biện pháp bảo đảm là dạng tranh chấp cũng khá phổ
biến của hợp đồng tín dụng, các tổ chức tín dụng coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu
nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán
được nợ. Trong hoạt động kinh doanh có rất nhiều lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ
nhất không thực hiện được, nếu không có nguồn bổ sung chắc chắn các tổ chức tín
dụng sẽ rơi vào tình trạng rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là rủi ro về sự tổn thất tài
chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ việc bên vay không thực hiện nghĩa vụ

trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán. Vì thế, để bảo vệ lợi


ích của mình các ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải có bảo đảm cần thiết
ngoại trừ những khách hàng hoạt động tốt và có quan hệ tín dụng thường xuyên.
Trong hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản, tổ chức tín dụng cho vay luôn có
quyền ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho mình, bất luận tài sản bảo
đảm đang nằm ở đâu và trong sự quản lý của ai.
Xin dẫn ra ví dụ thực tế (các đương sự đã được thay đổi tên) để thấy rõ hơn về tranh
chấp các biện pháp bảo đảm trong hơp đồng tín dụng. Vấn đề đặt ra cho ví dụ nêu
trên là hợp đồng thế chấp có được lập để bảo đảm cho nghĩa vụ trong tương lai hay
không?
Ví dụ6: Năm 2010, Công ty A vay vốn lưu động 4 tỉ đồng của Ngân hàng V thông
qua hợp đồng tín dụng có thời hạn vay là 6 tháng. Biện pháp bảo đảm cho khoản
vay là thế chấp nhà đất của ông C. Hợp đồng thế chấp nhà đất được các bên lập chặt
chẽ, quy định nghĩa vụ được bảo đảm gồm nghĩa vụ trả nợ tại hợp đồng tín dụng
hiện tại và nghĩa vụ trả nợ từ các hợp đồng tín dụng trong tương lai sẽ ký trong
khoảng thời gian 05 năm. Hợp đồng thế chấp nhà đất này được các bên thực hiện
công chứng và được đăng ký thế chấp theo đúng quy định của pháp luật.
Sang năm 2011, sau khi trả hết nợ khoản vay theo hợp đồng tín dụng năm 2010,
Công ty A tiếp tục vay của Ngân hàng V 3 tỷ đồng thông qua hợp đồng tín dụng có
thời hạn 12 tháng. Để Công ty A và ông C không mất thời gian, chi phí ký kết và
thực hiện lại các thủ tục thế chấp, Ngân hàng V sử dụng luôn hợp đồng thế chấp nhà
đất lập năm 2010 để bảo dảm cho khoản vay năm 2011. Do nội dung hợp đồng thế
chấp nhà đất đã xác định phạm vi bảo đảm gồm cả nghĩa vụ trả nợ từ các hợp đồng
tín dụng trong tương lai, nên các bên hoàn toàn yên tâm thực hiện hợp đồng thế
chấp này. Sau nhiều lần đến hạn trả nợ, Công ty A không thanh toán cho Ngân hàng
V, nên Ngân hàng V đã khởi kiện ra tòa án yêu cầu Công ty A trả nợ và yêu cầu phát
mại tài sản thế chấp của ông C để thu hồi nợ. Ông C không đồng ý, cho rằng tài sản
của mình chỉ bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại hợp đồng tín dụng năm 2010, chứ

không bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ hợp đồng tín dụng năm 2011, nên yêu cầu tòa
án buộc Ngân hàng V trả lại các giấy tờ nhà đất đang giữ.
Qua các cấp xét xử, sơ thẩm rồi đến phúc thẩm, tòa án đều xác nhận việc quan hệ
vay nợ và thế chấp nhà đất là có thực, song tuyên bố chấp nhận yêu cầu của ông C.
Lý do mà tòa án các cấp đưa ra là nghĩa vụ trả nợ tại hợp đồng tín dụng ký năm
6 />

2011 đã dùng tài sản thế chấp của ông C. ở hợp đồng tín dụng ký năm 2010 để bảo
đảm, nhưng phạm vi bảo đảm của hợp đồng thế chấp không quy định chi tiết các
nghĩa vụ được bảo đảm, do đó quy định này chung chung, không rõ ràng, cần giải
thích theo hướng có lợi cho ông C.
Chấp nhận yêu cầu của ông C, tòa án buộc Ngân hàng V phải trả lại các giấy tờ nhà
đất đang giữ cho ông C và không được phát mại tài sản thế chấp của ông C để thu
hồi nợ. Điều này đồng nghĩa với khoản vay của Công ty A tại Ngân hàng V từ chỗ
được bảo đảm bởi tài sản thế chấp của ông C, nay thành khoản vay không có tài sản
bảo đảm và rơi vào tình trạng nợ có khả năng không thể thu hồi được.
Trong vụ tranh chấp trên, Ngân hàng V yêu cầu ông C phải có nghĩa vụ trả nợ thay
cho Công ty A theo như hợp đồng thế chấp nhà đất của ông C năm 2010. Tuy nhiên,
cả tòa sơ thẩm lẫn tòa phúc thẩm đều bác bỏ yêu cầu phát mại tài sản thế chấp của
ông C để thu hồi nợ của Ngân hàng V.
Yêu cầu trên của Ngân hàng V là có cơ sở pháp lý.
Pháp luật hiện hành cho phép các bên được bảo đảm thực nghĩa vụ trả nợ phát sinh
trong tương lai. Theo khoản 2, điều 319 BLDS 2005 quy định “các bên được thỏa
thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự để bảo đảm thực hiện
các loại nghĩa vụ, kể cả nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ
có điều kiện”. Ngoài bộ luật dân sự 2005 thì tại khoản 5,6, Điều 3 của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP cũng quy định “..5.nghĩa vụ được bảo đảm là một phần hoặc
toàn bộ nghĩa vụ dân sự, có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc
nghĩa vụ có điều kiện mà việc thực hiện nghĩa vụ đó được bảo đảm bằng một hoặc
nhiều giao dịch bảo đảm”, và “…6.nghĩa vụ trong tương lai là nghĩa vụ dân sự mà

giao dịch dân sự làm phát sinh nghĩa vụ đó được xác lập sau khi giao dịch bảo đảm
được giao kết”.
Với cách hiểu của quy định pháp luật trên thì hợp đồng thế chấp tài sản giữa ông C
với Ngân hàng V nhất thiết phải được ký kết trước khi hợp đồng tín dụng giữa Công
ty A với Ngân hàng V được ký kết.
Từ những cơ sở pháp lý nêu trên, cho thấy hợp đồng thế chấp tài sản của ông C với
Ngân hàng V là có giá trị thực hiện cả trong tương lai. Vì thế Ngân hàng V có đủ cơ
sở để buộc ông C phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Công ty A. Tuy nhiên, thực sự
không hiểu vì sao các cấp xét xử lại viện dẫn lý do phạm vi bảo đảm của hợp đồng
thế chấp không quy định chi tiết các nghĩa vụ được bảo đảm nên hợp đồng này
không có giá trị thực hiện.


Tòa án các cấp ra quyết định như vậy là đã hiểu và áp dụng pháp luật không đúng
với tinh thần pháp luật, việc này ít nhiều làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch. Khi xem xét và giải thích các nội dung
của hợp đồng thế chấp không đúng là tòa án đã can thiệp quá mức cần thiết vào ý
chí tự nguyện của các bên được thể hiện tại hợp đồng. Nguy hiểm hơn, việc tòa vận
dụng không đúng quy định còn xâm phạm đến quyền chủ nợ hợp pháp của các ngân
hàng khi vô tình biến các khoản cho vay của ngân hàng từ có tài sản bảo đảm trở
thành khoản cho vay không có bảo đảm, dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu cho
ngành ngân hàng. Khi nợ xấu tăng, tín dụng không thể tăng trưởng, đồng nghĩa với
việc làm hạn chế cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân.
Gần đây, để tháo gỡ các vướng mắc, Nghị định 11/2012/NĐ-CP (sửa đổi, bổ
sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) ra đời tiếp tục khẳng định các bên được thực
hiện bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai. Theo đó, tại Điều 8a quy định, “trong hợp
đồng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh trong tương lai, các bên không bắt buộc
phải thỏa thuận cụ thể về phạm vi của nghĩa vụ bảo đảm và thời hạn thực hiện
nghĩa vụ bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định

khác”.
Với quy định thêm tại điểm a, điều 8, Nghị định 11/2012/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) như vậy thì hợp đồng thế chấp tài sản giữa ông C
với Ngân hàng V là không cần phải nêu rõ ràng, cụ thể về nghĩa vụ được bảo đảm,
thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo đảm.
2.1.3. Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng
Tranh chấp này trên thực tế tương đối đa dạng và phức tạp nhất là trong
những trường hợp có yếu tố nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ
quan giải quyết tranh chấp. Liên quan tới những tổ chức tín dụng 100% vốn nước
ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của các ngân hàng và các định chế tài chính
nước ngoài khác.
Ngoài ra, trong các hợp đồng tín dụng ký với các khách hàng trong nước, do sự hiểu
biết chưa đầy đủ các cán bộ ngân hàng về vấn đề chủ thể ký kết hợp đồng đã dẫn
đến không ít các hợp đồng tín dụng đã vô hiệu.
Xin dẫn ra ví dụ thực tiễn tranh chấp về vấn đề này như sau: Vụ tranh chấp giữa
Sacombank Phú Yên và Ông Mai Luật. Vấn đề đặt ra yêu cầu làm rõ là người được


ủy quyền có quyền sử dụng tài sản được ủy quyền để thế chấp bảo đảm cho hợp
đồng vay của mình hay không?
Ví dụ7: Theo hồ sơ vụ việc, ngày 30/9/2011, vợ chồng ông Mai Luật ủy quyền ông
Mai Hòa đem tài sản của vợ chồng ông là giấy tờ nhà đất ở số 244 Trần Hưng Đạo
thế chấp ngân hàng để vay tiền. Tuy nhiên, khi thế chấp tài sản để vay vốn tại
Sacombank Phú Yên, ông Hòa không nhân danh là người đại diện cho vợ chồng
ông Luật mà nhân danh chính mình để ký kết hợp đồng thế chấp số 149 và hợp
đồng tín dụng số 234.
Trong quá trình vay vốn theo các hợp đồng thế chấp và tín dụng giữa ông Hòa và
Sacombank Phú Yên đã nhiều lần bổ sung và liên tục nâng hạn mức tín dụng. Đến
ngày 3/10/2011, ông Hòa trả nợ một phần và được Sacombank Phú Yên cho rút tài
sản thế chấp căn nhà 407 Trần Hưng Đạo của vợ chồng ông Hòa ra. Lúc đó, dư nợ

còn 3,2 tỉ đồng được đảm bảo bằng tài sản nhà đất số 244 Trần Hưng Đạo. Do việc
sửa đổi bổ sung các hợp đồng tín dụng không minh bạch nên vợ chồng ông Luật đã
khởi kiện Sacombank Phú Yên ra TAND TP Tuy Hòa.
Ngày 10/8/2012, TAND TP Tuy Hòa xử sơ thẩm, tuyên hủy hợp đồng ủy quyền
ngày 30/9/2011; hủy hợp đồng thế chấp số 149 giữa Sacombank Phú Yên và ông
Mai Hòa, cũng như phụ lục hợp đồng về tài sản bảo đảm của hợp đồng tín dụng ký
ngày 3/10/2011 giữa bên cho vay là Sacombank Phú Yên và bên vay là vợ chồng
ông Mai Hòa. Đồng thời, vợ chồng ông Mai Hòa phải trả cho Sacombank Phú Yên
hơn 3,2 tỉ đồng theo hợp đồng tín dụng số 234 và Sacombank Phú Yên phải hoàn trả
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 244 Trần Hưng Đạo cho vợ chồng ông Luật.
Sau đó, Viện KSND TP Tuy Hòa kháng nghị và Sacombank Phú Yên kháng cáo.
Ngày 3/5, sau hai ngày xét xử phúc thẩm, vụ tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp
đồng tín dụng giữa Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - Chi nhánh Phú Yên
(Sacombank Phú Yên) và ông Mai Luật (244 Trần Hưng Đạo, phường 4, TP Tuy
Hòa) theo kháng nghị của Viện KSND TP Tuy Hòa và kháng cáo của Sacombank
Phú Yên đã khép lại
Kết thúc phiên xử, hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh Phú Yên sửa một phần
bản án sơ thẩm, tuyên hủy hợp đồng ủy quyền ngày 30/9/2011 giữa vợ chồng ông
Mai Luật với vợ chồng ông Mai Hòa (con trai ông Luật) do Văn phòng công chứng
Phú Yên công chứng; hủy hợp đồng thế chấp số 149 giữa Sacombank Phú Yên và
7 />

ông Mai Hòa, cũng như phụ lục hợp đồng về tài sản bảo đảm của hợp đồng tín dụng
ký ngày 3/10/2011 giữa bên cho vay là Sacombank Phú Yên và bên vay là vợ chồng
ông Mai Hòa. Đồng thời, buộc vợ chồng ông Mai Hòa phải trả cho Sacombank Phú
Yên hơn 3,2 tỉ đồng theo hợp đồng tín dụng số 234.
Nếu vợ chồng ông Mai Hòa không trả hết nợ cho Sacombank Phú Yên, vợ chồng
ông Mai Luật phải có trách nhiệm trả nợ thay một phần cho ông Mai Hòa theo hợp
đồng tín dụng số 234 được ký kết giữa ngân hàng này và bên vay là vợ chồng ông
Mai Hòa hơn 800 triệu đồng. Sau khi trả xong một phần nợ hơn 800 triệu đồng này,

Sacombank Phú Yên phải có trách nhiệm hoàn trả giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất 244 Trần Hưng Đạo cho vợ chồng ông Luật.
Trong vụ án trên, cả hai cấp xét xử đều tuyên hủy hợp đồng thế chấp giấy tờ
nhà đất do ông Mai Hòa ký với Ngân hàng Sacombank. Tuy rằng được ông Mai
Luật ủy quyền cho việc thế chấp giấy tờ nhà đất để vay tiền nhưng khi thế chấp tài
sản để vay vốn tại Sacombank Phú Yên, ông Hòa không nhân danh là người đại
diện cho vợ chồng ông Luật mà nhân danh chính mình để ký kết hợp đồng thế chấp
số 149 và hợp đồng tín dụng số 234. Ông Mai Hòa không nhân danh là người đại
diện cho vợ chồng ông Mai Luật mà nhân danh chính mình để ký kết hợp đồng tín
dụng số 234 và hợp đồng thế chấp số 149. Như vậy hiểu rằng hợp đồng tín dụng số
234 chủ thể đi vay là ông Mai Hòa, còn hợp đồng thế chấp số 149 là ông Hòa ký kết
để đảm bảo cho nghĩa vụ của ông trong hợp đồng tín dụng số 234. Theo khoản 1,
điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP)
“1.Bên bảo đảm là bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình, dùng quyền sử dụng
đất của mình, dùng uy tín hoặc cam kết thực hiện công việc đối với bên nhận bảo
đảm để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của chính mình hoặc của người
khác, bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký cược, bên ký quỹ, bên
bảo lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong trường hợp tín chấp” thì ông
Hòa không thể mang tài sản của người khác đi thế chấp để đảm bảo cho nghĩa vụ trả
nợ của mình được. Do vậy ông Hòa không có thẩm quyên ký kết hợp đông thế chấp
số 149.
Và điều 122 BLDS 2005 điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
“1.Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;


c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”. Theo điều 122 BLDS 2005 thì
ông Hòa không có năng lực hành vi dân sự đủ để xác lập giao dịch bảo đảm trên.

Vì vậy, hợp đồng thế chấp tài sản giữa ông Mai Hòa với Sacombank chi nhánh Phú
Yên không có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, hợp đồng chính (hợp đồng vay tiền) của ông Mai Hòa ký với
Saccombank không bị vô hiệu. Bởi lẽ, ông Mai Hòa tự nhân danh mình để ký kết
hợp đồng tín dụng, mà theo quy định thì bên vay chỉ cần đáp ứng được một số điều
kiện do pháp luật quy định.
Trong quan hệ cho vay, hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính. Giao dịch bảo đảm
với hợp đồng tín dụng là mối quan hệ giữa hợp đồng phụ và hợp đồng chính. Theo
khoản 3, điều 410 BLDS 2005“..3.Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm
dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần
không thể tách rời của hợp đồng chính”.
Do đó, khi hợp đồng thế chấp bị tuyên hủy nhưng vẫn không ảnh hưởng đến việc
thực hiện hợp đồng chính (hợp đồng cho vay), ông Mai Hòa vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ hoàn trả tiền vay.
2.2. Kiến nghị giải pháp hạn chế tranh chấp
Hợp đồng tín dụng là một loại hợp đồng có tính rủi ro cao, chính vì vậy mà các
tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng luôn chiếm tỉ lệ cao hơn các tranh chấp
liên quan đến các dạng hợp đồng khác. Để hạn chế rủi ro và đạt được mục đích của
hợp cần lưu ý các vấn đề sau đây:
2.2.1. Xây dựng và nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ tín dụng
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình bao gồm nhiều khâu: (1) Đề
nghị vay vốn và lập hồ sơ tín dụng, (2) Thẩm định hồ sơ tín dụng, (3) Quyết định
cho vay, (4) Đàm phán các điều khoản trong hợp đồng và ký kết hợp đồng. Trong
đó, khâu thứ (1) và (2) có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp và cả tổ
chức tín dung.
Đối với doanh nghiệp: hồ sơ tín dụng thể hiện mối quan hệ tổng thể giữa doanh
nghiệp và ngân hàng, là minh chứng cho doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn. Sự
hoàn chỉnh và chính xác của hồ sơ tín dụng là cơ sở, căn cứ để doanh nghiệp có thể
được vay vốn ở ngân hàng. Chính vì vậy, khi đề nghị vay vốn và lập hồ sơ tín
dụng, doanh nghiệp nên cân nhắc kỹ các phương án kinh doanh, sản xuất và tính

hiệu quả của chúng. Tránh tình trạng phương án ảo để rồi hiệu quả kinh doanh


không có, làm mất khả năng hoàn trả nợ cho tổ chức tín dụng. Ngoài ra, khi doanh
nghiệp được đàm phán các điều khoản trong hợp đồng và ký kết hợp đồng, doanh
nghiệp nên chú ý cẩn thận đối với những loại điều khoản về đối tượng của hợp đồng
cụ thể là lãi suất tiền vay; điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay cụ thể là
trả một lần hay trả nhiều lần, số tiền phải trả từng lần là bao nhiêu, thời hạn trả cho
từng lần là bao lâu. Đây là những điều khoản rất hay xảy ra tranh chấp và dẫn đến
sự vi phạm nghĩa vụ của bên vay.
Đối với tổ chức tín dụng:
Dựa vào hồ sơ tín dụng nêu trên, tổ chức tín dụng có thể thu thập được đầy đủ các
thông tin cần thiết về quá khứ cũng như hiện tại của doanh nghiệp, có thể xác định
khả năng trả nợ của doanh nghiệp đối với nguồn vốn vay ở ngân hàng trong thời
hạn nhất định. Trong trường hợp cần thiết, ngân hàng sẽ yêu cầu doanh nghiệp bổ
sung thêm tài sản bảo đảm để hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Vì vậy, tổ chức tín
dụng cần phải thẩm định cho kỹ hồ sơ trước khi quyết định giải ngân đề đảm bảo
khả năng thu hồi vốn vay. Hơn nữa, khi đàm phán các điều khoản của hợp đồng tổ
chức tín dụng nên chú ý đến thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng cũng như
những điều khoản miễn trừ để tránh tình trạng vi phạm nghĩa vụ giải ngân của bên
cho vay.
2.2.2. Về các biện pháp bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng
Hiện nay có các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp bằng tài sản của
khách hàng vay hoặc bằng tài sản của bên thứ ba, đặt cọc, ký cược, kỹ quỹ, tín chấp.
Trong đó, cầm cố, thế chấp là biện pháp hay được lựa chọn áp dụng. Các tổ chức tín
dụng thường muốn doanh nghiệp vay vốn dùng chính tài sản thuộc quyền sở hữu
hợp pháp của mình để bảo đảm cho khoản vay của doanh nghiệp. Các tài sản này
phải thoả mãn những điều kiện nhất định như phải có tính thanh khoản, pháp luật
cho phép chuyển nhượng, thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm và thường
không bị tranh chấp khi đưa ra làm bảo đảm. Tuy nhiên, trên thực tế một số tài sản

chỉ có thể là đối tượng của thế chấp như: nhà, đất đai, tàu biển, tàu đánh cá, tàu bay,
một số tài sản chỉ có thể là đối tượng của cầm cố như thẻ tiết kiệm, cổ phiếu, trái
phiếu, giấy tờ có giá khác. Như vậy trong số các điều kiện đối với tài sản bảo đảm,
đặc biệt cần lưu ý khách hàng phải có quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản đó.
- Đối với tài sản có giá trị lớn, có thể đưa ra bảo đảm cho nhiều khoản vay ở các
ngân hàng khác nhau, tuy nhiên trong trường hợp này, các bên nhận bảo đảm (các


×