Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận thuyết trình đánh giá mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng theo basel 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.5 KB, 14 trang )

PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ BASEL II
1.1 Lịch sử hình thành Basel II
Năm 1988, BCBS (Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng) đã giới thiệu một
khung rủi ro tín dụng (Basel I) xác định các tiêu chuẩn về vốn đề hạn chế rủi rõ kinh
doanh của các ngân hàng và tăng cường hệ thống tài chính. Để đáp ứng các yêu cầu
của phát triển liên tục trong ngành ngân hàng, các quy định này đã được sửa đổi vào
tháng 6/2004, một hiệp ước về vốn mới (Basel II) được ban hành.
Basel I giới hạn bằng việc đo lường rủi ro thị trường và đo lường cơ bản cho
rủi ro tin dụng. Basel II giới thiệu một chuỗi các cách tiếp cận rủi ro tín dụng phực tạp
và tập mới vào rủi ro vận hành.
- Mục tiêu của Basel II: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng
quốc tế; Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên
bình diện quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh
vực quản lý rủi ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn
Basel I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ
chế điều tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự
điều tiết mà sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.
Ở cả Basel I và Basel II, hai Hiệp ước vốn này đều đặc biệt chú trọng tới tỷ lệ
an toàn vốn. Song với Basel I, rủi ro tín dụng đặt lên hàng đầu, đòi hỏi các NH phải đủ
vốn để đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn. Nhưng với Basel II, bên cạnh rủi ro tín
dụng phải song hành với kiểm soát rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.
Basel II sử dụng khái niệm “Ba trụ cuột” – (1) Yêu cầu vốn tối thiểu, (2) Rà
soát giám sát, (3) Nguyên tắc thị trường.
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt
buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi
ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi
ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi
phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay
đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro
của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp


hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II
cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I.
Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt,
như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro
pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy
đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm
duy trì mức vốn đó.

1


Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn
nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ
tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu
họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.
Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn
mức tối thiểu theo quy định.
Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của
ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi
ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích
đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các
ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ
vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với
từng loại rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa

ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh
bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ
giảm thiểu được rủi ro.
1.2 Nội dung ba trụ cột của Basel II

1.2.1 Tỉ lệ an toàn vốn CAR và cách tính
* Theo Basel I, công thức tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
CAR = Vốn bắt buộc/Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền (RWA).
Trong đó, vốn cấp 1 > vốn cấp 2 + vốn cấp 3.
- Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố,
như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự
trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty
con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng
đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn hỗn
hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài
chính khác.
- Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn.
- Vốn tính theo rủi ro gia quyền: RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định
cho từng tài sản trong bảng cân đối kế toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro
ngoại bảng).
Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 4 mức: quốc gia 0%; ngân hàng 20%; doanh
nghiệp 100%... Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại này.

2


Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn
thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và
thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.

* Theo Basel II: cách tính tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của Basel II yêu cầu cao
hơn. Nhưng với Basel II, CAR là Vốn tự có/Tài sản rủi ro +12,5 *(COP + CMR).
Trong đó:
- Tài sản rủi ro là tài sản có rủi ro tín dụng * Hệ số rủi ro.
- COP là yêu cầu vốn đối với rủi ro hoạt động.
- CMR là yêu cầu vốn đối với rủi ro thị trường.
Cụ thể, ngân hàng phải thường xuyên duy trì hệ số CAR tối thiểu 8%, được xác định
bằng công thức:

Trong đó:
- C: Vốn tự có;
- RWA: Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng;
- KOR: Vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động;
- KMR: Vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường.
Cụ thể:
- Vốn tự có (C)
Vốn tự có (C) bao gồm tổng Vốn cấp 1 và Vốn cấp 2 trừ đi các khoản giảm trừ quy
định như lợi thế thương mại, lỗ lũy kế, cổ phiếu quỹ, các khoản cấp tín dụng để góp
vốn mua cổ phần, các khoản góp vốn, mua cổ phần tại các tổ chức tín dụng khác…
- Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng (RWA)
Được tính theo công thức:
RWA = RWACR + RWACCR
Trong đó:
- RWACR: Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng;
- RWACCR: Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng đối tác.
Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng (RWA CR) là tổng các tài sản trên Bảng
cân đối kế toán được tính theo công thức sau đây:
RWACR = ∑Ej x CRWj + ∑Max {0, (Ei* - SPi)} x CRWi
Với:
- Ej: Giá trị tài sản (không phải là khoản phải đòi) thứ j;


3


- CRWj: Hệ số rủi ro tín dụng của tài sản thứ j.
- Ei*: Giá trị số dư của khoản phải đòi thứ i (Ei)
- SPi: Dự phòng cụ thể của khoản phải đòi thứ i;
- CRWi: Hệ số rủi ro tín dụng của khoản phải đòi thứ i.
Trong đó, hệ số rủi ro tín dụng (CRW) nhìn chung được áp từ 0% đến 150%.
Một số trường hợp áp dụng hệ số lên đến 200% như tài sản là khoản cấp tín dụng tài
trợ dự án kinh doanh bất động sản hay doanh nghiệp không cung cấp báo cáo tài chính
cho ngân hàng để tính toán rủi ro…
Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng đối tác (RWA CCR) được tính đối với:
Giao dịch tự doanh; giao dịch repo và giao dịch reverse repo; giao dịch sản phẩm phái
sinh để phòng ngừa rủi ro; giao dịch mua bán ngoại tệ, tài sản tài chính với mục đích
phục vụ nhu cầu của khách hàng, đối tác.
Đặc biệt, các giao dịch đã tính rủi ro tín dụng đối tác không phải tính rủi ro tín
dụng khi tính tỷ lệ an toàn vốn.
Vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động (KOR)
Vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động (KOR) được xác định bằng công thức:

Trong đó:
- BInăm thứ n: Chỉ số kinh doanh được xác định theo quý gần nhất tại thời điểm
tính toán;
- BInăm thứ n-1, BInăm thứ n-2: Chỉ số kinh doanh được xác định theo quý tương ứng
của 2 năm liền kề trước năm tính toán.
Chỉ số kinh doanh (BI) được xác định theo công thức sau:
BI = IC + SC + FC
Với:
- IC: Giá trị tuyệt đối của Thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự trừ Chi

phí lãi và các khoản chi phí tương tự;
- SC: Tổng giá trị của Thu nhập từ hoạt động dịch vụ, Chi phí từ hoạt động
dịch vụ, Thu nhập hoạt động khác, Chi phí hoạt động khác;
- FC: Tổng của giá trị tuyệt đối Lãi/lỗ thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại
hối, mua bán chứng khoán kinh doanh và mua bán chứng khoán đầu tư.
Vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường (KMR)
Vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường (KMR) được xác định theo công thức sau:
KMR = KIRR+ KER + KFXR + KCMR + KOPT
Trong đó:

4


- KIRR : Vốn yêu cầu cho rủi ro lãi suất, trừ giao dịch quyền chọn;
- KER: Vốn yêu cầu cho rủi ro giá cổ phiếu, trừ giao dịch quyền chọn;
- KFXR: Vốn yêu cầu cho rủi ro ngoại hối (bao gồm cả vàng), trừ giao dịch
quyền chọn;
- KCMR: Vốn yêu cầu cho rủi ro giá hàng hóa, trừ giao dịch quyền chọn;
- KOPT : Vốn yêu cầu cho giao dịch quyền chọn.
Để xác định vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường, ngân hàng phải có quy định
bằng văn bản về các điều kiện, tiêu chí xác định các khoản mục thuộc phạm vi sổ kinh
doanh để tính các trạng thái rủi ro trên sổ kinh doanh, đảm bảo tách biệt với sổ ngân
hàng.
1.2.2

Quy trình đánh giá giám sát

Trụ cột thứ 2 dựa trên một loạt các hướng dẫn chi tiết, trong đó nêu rõ sự cần thiết đối
với ngân hàng phải đánh giá nhu cầu vốn trong mức tương quan với độ rủi ro chung
của mình vàđối với cơ quan thanh tra, giám sát; phải xem xét kết quả đánh giá này và

có những biện phápthích hợp trong trường hợp cần thiết. Các yêu cầu ở trụ cột 2 mà
các NHTM buộc phải tuân theo. Trụ cột 2 bao gồm 4 nguyên tắc sau:
+Thứ nhất là ngân hàng cần có một quy trình đánh giá đủ vốn nội bộ phù hợp với mức
độ rủi ro và chiến lược duy trì mức đủ vốn (cụ thể: Giám sát của quản lý cấp cao;
Đánh giá vốn trong tương quan rủi ro hiện tại và tương lai; Đánh giá các rủi ro trọng
yếu; Giám sát và báo cáo; và Rà soát của kiểm toán nội bộ).
+Thứ hai, cơ quan giám sát ngân hàng cần phải tính toán vốn, chiến lược vốn của
ngân hàng, đảm bảo tuân thủ yêu cầu tối thiểu và có biện pháp can thiệp kịp thời khi
cần thiết.
+Thứ ba, ngân hàng cần duy trì mức vốn cao hơn mức vốn tối thiểu. Cơ quan giám sát
ngân hàng có thể yêu cầu ngân hàng nắm giữ mức vốn cao hơn mức vốn tối thiểu.
+Thứ tư, cơ quan giám sát ngân hàng cần can thiệp kịp thời ở giai đoạn đầu đề ngăn
vốn yêu cầu giảm xuống dưới mức tối thiểu, và yêu cầu ngân hàng có biện pháp khắc
phục khi mức vốn của ngân hàng giảm hơn mức vốn tối thiểu. Như vậy, ngoài việc so
sánh giữa vốn tối thiểu và vốn kinh tế thì tủy thuộc vào tính chất rủi ro trong hoạt
động ngân hàng, cơ quan giám sát ngân hàng có thể yêu cầu ngân hàng duy trì mức
vốn cao hơn mức vốn xác định ở Trụ cột 1.
a.
Đối với ngân hàng: xây dựng và thực hiện quy trình đánh giá mức độ đầy đủ
vốn nội bộ (ICAAP)
Mục đích chính của ICAAP là đảm bảo rằng tổng vốn của ngân hàng là phù hợp với
mức độ rủi ro mà nó cần hoặc phải tuân theo.
Trong khuôn khổ ICAAP, HĐQT và Ban Quản lý cấp cao có các trách nhiệm sau:
• Đặt mức độ chấp nhận rủi ro / khả năng chịu rủi ro của ngân hàng.
• Đảm bảo rằng ngân hàng hoạt động trong một mức độ chấp nhận rủi ro

5


• Làm nhiệm vụ quản lý của ngân hàng để thiết lập một khuôn khổ cho ICAAP. Điêu

nay bao gôm:

Xác định rủi ro thông qua phân tích kỹ lưỡng các hoạt động của ngân hàng, các
đơn vị kinh doanh, môi trường thị trường, các kịch bản lịch sử vv

Đánh giá mức độ nghiêm trọng của các rủi ro được xác định dựa trên mức độ
trọng yếu được xác định trước

Định lượng rủi ro vật chất. Các mô hình được sử dụng để định lượng các rủi ro
phải phù hợp dựa trên mức độ trọng yếu của rủi ro đang được đánh giá,


Đánh giá các yêu cầu về vốn đối với rủi ro,


Đánh giá nhu cầu vốn bổ sung cho các kịch bản được nhấn mạnh và lập kế
hoạch vốn cho khoản vốn bổ sung này.


Hòa giải nguồn vốn kinh tế của ICAAP với vốn Trụ cột 1


Báo cáo và giám sát sự tuân thủ của các quy trình thực tế với các quy trình và
chính sách nội bộ.
b.

Đối với cơ quan giám sát: thực hiện quy trình rà soát và đánh giá (SREP)

Người giám sát thường xuyên đánh giá và đo lường rủi ro cho từng ngân hàng. Hoạt
động chính này được gọi là Quy trình đánh giá và đánh giá giám sát, hoặc ngắn gọn

SREP.
Những yếu tố cần giám sát:

Mô hình kinh doanh: giám sát viên đánh giá tính bền vững của việc thành lập
ngân hàng, nói cách khác, liệu nó có nhiều hoạt động hay chỉ tập trung vào một vài
ngành kinh doanh. Ví dụ, một ngân hàng chỉ tập trung vào vận chuyển sẽ rất dễ bị
thương mại toàn cầu hoặc cho vay quá mức cho các nhà đóng tàu và cần phải quản lý
rủi ro này.

Quản trị nhà nước và quản lý rủi ro: người giám sát xem xét cơ cấu tổ chức của
ngân hàng bằng cách giám sát các cơ quan quản lý và kiểm tra xem rủi ro có đang
được quản lý đúng cách hay không.

Rủi ro đối với vốn: giám sát viên phân tích xem ngân hàng có đủ an toàn để bù
đắp các tổn thất phát sinh, ví dụ như từ các cuộc tấn công trên hệ thống CNTT của
ngân hàng, giảm giá dầu, hoặc người vay không trả nợ đúng hạn .

Rủi ro đối với tính thanh khoản và tài chính: giám sát viên kiểm tra khả năng
chi trả của ngân hàng đối với nhu cầu tiền mặt, ví dụ như trong thời điểm không chắc
chắn về kinh tế khi người gửi tiền rút tiền nhiều hơn bình thường.
1.2.3 Nguyên tắc thị trường
Tăng cường công bố thông tin liên quan đến hoạt động chứng khoán hóa phức tạp, các
thương phiếu được đảm bảo bằng tài sản và sự tài trợ đối với các khoản ngoại bảng.
Cụ thể:

6


Các công bố về vốn, tài sản có rủi ro và các quy trình đánh giá rủi ro. Điều này
cho phép các bên tham gia thị trường có thể thẩm định mức vốn an toàn và có sự so

sánh.
Các ngân hàng phải có chính sách công khai rõ ràng và một quy trình để đánh
giá sự chính xác trong các báo cáo của họ.
Đối với từng loại rủi ro riêng biệt, các ngân hàng phải mô tả các mục tiêu và
các chính sách quản trị rủi ro của họ

7


PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ AN TOÀN CỦA HỆ THỐNG NHTM THEO
BASEL II
2.1 Thực tế triển khai Basel II tại các NHTM
-

Cơ cấu tổ chức: 10 NHTM được lựa chọn đã thành lập ban chỉ đạo triển khai
Basel

-

Phân tích chênh lệch và xây dựng kế hoạch triển khai: 10 NHTM được lựa
chọn đã hoàn hành phân tích chênh lệch (GAP) và lập kế hoạch:

• 8/10 NHTM đã tiến hành thuê tư vấn phân tích GAP và xây dựng lộ trình triển
khai Basel II như: VCB, CTG, TCB
• 2/10 NHTM phối hợp cùng đối tác chiến lược nước ngoài (VIB, ACB)
-

Triển khai dự án: Các NHTM đã và đang tiếp tục triển khai hàng loạt các tiểu
dự án để tính toán hệ số CAR: dự án RWA (Vietinbank, Vietcombank,
Sacombank), dự án hoàn thiện khung quản lý rủi ro thị trường (Vietcombank),

dự án khởi tạo khoản vay LOS (VIB, Vpbank)…

-

Xây dựng lộ trình cải thiện hệ số CAR:

• 2015-2016: VIB và MB phát hành cổ phiếu tăng vốn, Vpbank phát hành cổ
phiếu 02 lần tăng vốn điều lệ lên 8.057 tỷ đồng
• T11/2016: ACB phát hành 1.054 tỷ trái phiếu
• T10/2016: VCB phát hành thành công 8.000 tỷ trái phiếu
-

Kế hoạch dài hạn:

• Hoàn thiện hệ thống QLRR, khung QLRR.
• Phát triển hệ thống CNTT và dữ liệu.
• Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực.
2.2 Đánh giá mức độ an toàn theo Basel II
Tại một số ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, việc áp dụng Hiệp ước Basel II
trong quản trị rủi ro tín dụng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện ở khía cạnh
sau:
- Nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR):
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là một trong những tiêu chí đánh giá của Basel II về khả
năng quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng. Trong những năm qua, tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu của nhiều NHTM đã cao hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN), đáng chú ý là NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã
vượt tiêu chuẩn quy định của Basel II, trong giai đoạn 2011-2015 tỷ lệ an toàn vốn của
Vietcombank vượt xa mức 8% quy định của Basel II và 9% quy định của NHNN.

8



Đây là kết quả đáng mừng trong công tác quản trị rủi ro của Vietcombank. Tỷ lệ an
toàn vốn cao thể hiện năng lực tài chính của Vietcombank tương đối mạnh và ổn định,
phù hợp với tiêu chuẩn quy định của Basel II.

So sánh tỷ lệ an toàn vối tối thiểu (CAR) của một số nước trên thế giới

Trong giai đoạn 2012-2016 tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam đều trên mức 8% quy định của Basel II và 9% quy định của NHNN, tuy nhiên
vẫn còn thấp so với các nước có nền kinh tế ổn định trên thế giới.
Một là, tăng cường chỉ tiêu đo lường khả năng thanh khoản:
Nhiều NHTM Việt Nam đã tăng cường khả năng kiểm soát tình trạng nợ quá hạn ở
mức độ cho phép. Đáng chú ý có những ngân hàng như Vietcombank đã vượt kế
hoạch đặt ra. Đây là một trong những điểm mạnh trong công tác quản trị rủi ro tín
dụng của Vietcombank. Tình hình nợ xấu của Vietcombank là ở mức thấp nhất so với
các NHTM khác.
Việc tăng cường chỉ tiêu đo lường khả năng thanh khoản, kiểm soát chặt chẽ tình hình
nợ xấu góp phần quan trọng để Vietcombank nói riêng và nhiều NHTM Việt Nam nói
chung định lượng được rủi ro cho mọi giao dịch đã và đang phát sinh; góp phần tích
cực vào lượng hóa rủi ro, từ đó giúp cho ngân hàng lượng hóa được vốn cần thiết cho
mỗi giao dịch.
Hai là, mức dự phòng rủi ro và tổn thất rủi ro:
Theo tiêu chuẩn của Basel II, công tác phân loại, trích lập và sử dụng dự phòng để xử
lý rủi ro là việc làm cần thiết đối với các ngân hàng nhằm chủ động được các rủi ro có
thể xảy ra. Hiện tại nhiều NHTM Việt Nam đã thực hiện tốt công tác phân loại nợ,

9



trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro. Đây là điều rất cần thiết cho các nhà
quản trị ngân hàng tại Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh những kết quả quan trọng bước đầu đạt được, việc áp dụng Hiệp ước Basel
II trong quản trị rủi ro tín dụng tại một số NHTM Việt Nam hiện đang nổi lên một số
hạn chế sau:
Ba là, quy trình cấp tín dụng còn bất cập:
Thực tế cho thấy, tại một số ngân hàng, Phòng khách hàng thực hiện đủ 3 chức năng
và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay, do đó nhiều công
việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu dẫn đến chất lượng công tác chưa cao.
Việc bộ phận tín dụng vừa là người đi tìm kiếm, tiếp xúc khách hàng, vừa phân tích
khách hàng để trình duyệt dẫn đến làm ảnh hưởng đến tính khách quan và có thể tạo
ra tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng.
Mặt khác, do hạn chế về tính minh bạch của thông tin khách hàng và năng lực thẩm
định của cán bộ tín dụng nên để đảm bảo an toàn cho ngân hàng, quy trình cấp tín
dụng ở một số ngân hàng vẫn còn cồng kềnh, phức tạp, quy trình cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ cũng như cá nhân hầu như vẫn giống quy trình cho vay khách hàng
doanh nghiệp lớn. Hạn chế nói trên gây lãng phí về nhân lực, tài lực của ngân hàng
khi xử lý các khoản tín dụng.
Bốn là, hệ thống đo lường rủi ro tín dụng chưa đồng bộ:
Nghiên cứu cho thấy, hệ thống hỗ trợ đo lường tại một số ngân hàng, phân tích rủi ro
tín dụng vẫn còn chưa đồng bộ. Trong quá trình thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ,
khả năng phân tích ngành nghề còn hạn chế, chưa có các bộ tiêu chuẩn về từng ngành,
chưa đưa ra được các cảnh báo và định hướng cho hoạt động tín dụng, để hạn chế đầu
tư vào những ngành, thành phần kinh tế làm ăn kém hiệu quả.
Phương pháp xếp hạng nhiều khi còn mang tính chủ quan, định tính, dựa trên sự đánh
giá của cán bộ tín dụng trực tiếp quản lý. Xuất phát từ việc thiếu hệ thống đo lường
trên mà chiến lược hoạt động, chính sách, thủ tục, quyết định tín dụng cũng như xác
định lãi suất cho vay nhiều khi chung chung, chưa có căn cứ định lượng cụ thể nên
tính khoa học, chính xác chưa cao.
Căn nguyên của những hạn chế

Những hạn chế của việc áp dụng Hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng tại
một số NHTM cổ phần hiện nay chủ yếu xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Những nguyên nhân khách quan
Nội dung Basel II quá phức tạp: Một trong những trở ngại lớn nhất với việc tiếp cận
các quy tắc trong hiệp ước Basel là sự khác biệt về ngôn ngữ. Ngôn ngữ được thể hiện
trong hiệp ước Basel là tiếng Anh, hoàn toàn chưa có một tài liệu nghiên cứu hoặc
dịch thuật chính thức nào bằng tiếng Việt. Mỗi văn bản ban hành từ Ủy ban Basel, kể
cả văn bản chính thức lẫn văn bản bổ sung, hướng dẫn đều có độ dài từ 400 đến hơn
500 trang, phần lớn là thuật ngữ chuyên ngành khó hiểu, là những từ mới và khó.

10


Ngoài ra, một khối lượng đồ sộ các văn bản của Basel với nhiều công thức phức tạp,
chưa gần gũi với thực tế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng là lý do để
các chuyên gia tập trung thời gian tìm hiểu và nghiên cứu.
Chi phí thực hiện ứng dụng Basel II lớn: Đối với các ngân hàng quốc tế lớn, họ đã áp
dụng kỹ thuật quản lý rủi ro gần tương thích với Basel II và có thể tiết kiệm chi phí
qua quy mô hoạt động. Đối với các nước đang phát triển, các ngân hàng sẽ gặp khó
khăn hơn vì chuyển sang áp dụng kỹ thuật Basel II rất tốn kém, các ngân hàng cỡ nhỏ
khó có thể chịu được chi phí cố định liên quan đến việc nâng cấp ngân hàng.
Theo ước tính, nếu thực hiện, các NHTM cỡ nhỏ phải tốn xấp xỉ 10 triệu USD, tương
đương với 160 tỷ đồng Việt Nam, khoảng 15% vốn điều lệ của các NHTM cổ phần.
Trong khi đó, nếu là ngân hàng lớn, chi phí vận hành hệ thống Basel có thể lên đến
200 triệu USD, tương đương với 3.200 tỷ đồng Việt Nam, cao hơn mức vốn pháp định
của các NHTM Nhà nước theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ về ban
hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng.
Yêu cầu của Basel II về vốn cao: Mặc dù tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu trong Basel II vẫn
giữ mức 8% nhưng trên thực tế, các ngân hàng phải duy trì mức vốn cao hơn so với
mức quy định ở Basle I bởi phải bổ sung thêm vốn để dự phòng các rủi ro hoạt động

và rủi ro thị trường. Điều này rất bất lợi cho các NHTM Việt Nam vì rủi ro hoạt động
cũng như rủi ro thị trường thấp hơn các ngân hàng quốc tế lớn, phạm vi hoạt động của
các ngân hàng tương đối hẹp.
Những nguyên nhân chủ quan
Chưa có văn bản hướng dẫn về việc thực hiện Basel II: Theo quy định trong hiệp ước
Basel II, các NHTM được lựa chọn 1 trong 3 phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng và
tính toán tỷ lệ an toàn vốn theo từng phương pháp với sự đồng ý của cơ quan giám sát,
phù hợp với năng lực hiện tại của từng ngân hàng. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có văn
bản hướng dẫn về việc thực hiện một trong 3 phương pháp này đối với các NHTM
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu: Theo các điều khoản và điều kiện về việc
ứng dụng phương pháp tiếp cận dựa trên dánh giá nội bộ (IRB), Ủy ban Basel yêu cầu
duy trì và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu về các khách hàng vay của mình theo đặc
điểm, các xếp hạng, quy trình quản lý, hạng mức tín nhiệm… Đạt được những tiêu
chuẩn khắt khe này là không dễ với các NHTM Việt Nam.
Đặc biệt, khi muốn sử dụng được phương pháp IRB thì phải duy trì thông tin về xếp
hạng tín nhiệm trong lịch sử của khách hàng bao gồm điểm số, ngày xếp hạng phương
pháp xếp hạng và các thông tin quan trọng được sử dụng cho việc xếp hạng, người
chịu trách nhiệm xếp hạng.

11


PHẦN 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
3.1 Giải pháp đối với NHTM
Nhằm tăng cường hoạt động quản trị rủi ro tín dụng trong kinh doanh và dần áp dụng
các chuẩn mực quản trị rủi ro theo Hiệp ước quốc tế Basel II tại các NHTM Việt Nam,
cần quan tâm đến một số giải pháp như sau:
Một là, tăng cường hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong quản trị rủi ro tín dụng.
Nâng cao trách nhiệm và vai trò kiểm tra, kiểm soát nội bộ là biện pháp để ngăn ngừa

những rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra. Thông qua hoạt động kiểm soát có thể phát hiện,
ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng.
Bên cạnh đó, cần chú trọng tăng cường hoạt động kiểm soát nhằm phát hiện, ngăn
chặn những rủi ro đạo đức do cán bộ tín dụng gây ra.

12


Hai là, tăng cường năng lực tài chính. Để gia tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài
sản (ETA), tăng quy mô vốn điều lệ, đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn
mực quốc tế, quy định của NHNN và tiêu chuẩn của Basel II, các NHTM Việt Nam
cần xác định một tỷ lệ thích hợp lợi nhuận ròng được giữ lại hàng năm, để tăng vốn
điều lệ và hình thành nên một ngân hàng có năng lực tài chính lớn hơn. Việc gia tăng
tỷ lệ vốn chủ sở hữu cần có lộ trình và phương pháp phù hợp với tình hình cụ thể của
từng ngân hàng, tránh gây áp lực trong việc duy trì suất sinh lời cho chủ đầu tư.
Các NHTM cần chú trọng đến việc mở rộng quy mô hoạt động, cải tiến công nghệ và
nâng cao hiệu quả hoạt động của quy trình quản trị rủi ro giúp ngân hàng phát triển ổn
định, bền vững, tận dụng lợi thế nhờ quy mô nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
lực. Để mở rộng quy mô, các NHTM cần xác định rõ hướng đi và hoạt động kinh
doanh chính để tập trung các nguồn lực hiện có phục vụ cho mục tiêu ưu tiên này.
Cần tránh phân bổ nguồn lực cho các hoạt động kinh doanh khác như bất động sản,
bảo hiểm và cho thuê tài chính quá nhiều... từ đó có thể phân bổ lại các nguồn lực đầu
vào như quy mô tài sản cố định, quy mô tổng tiền gửi khách hàng để sử dụng có hiệu
quả nhất.
Ba là, xử lý các tồn đọng về tài chính. Xử lý các tồn đọng về tài chính bao gồm xử lý
nợ xấu và thoái vốn tại các tổ chức tín dụng do sở hữu chéo. Để đáp ứng các yêu cầu,
các NHTM Việt Nam cần đánh giá chính xác thực trạng nợ quá hạn và nợ xấu tại ngân
hàng mình, xác định đúng bản chất để xử lý nợ xấu bằng việc chủ động thu hồi nợ,
giảm dần nợ quá hạn (nhóm 2) và nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5).
Cần phân loại chi tiết nợ xấu theo các tiêu chí nợ xấu do tác động khách quan, do chủ

quan; phân loại theo mức độ rủi ro; phân loại nợ xấu theo các lĩnh vực nợ xấu để có
các biện pháp xử lý phù hợp theo từng tiêu chí. Xây dựng kế hoạch, có lộ trình chi tiết
để triển khai đảm bảo thoái vốn đúng quy định, góp phần tạo môi trường lành mạnh
cho hoạt động ngân hàng, hạn chế rủi ro do sự chi phối qua sở hữu chéo, giúp ngân
hàng hoạt động an toàn hơn.
Bốn là, cải tiến quy trình quản trị rủi ro tín dụng. Quy trình quản trị rủi ro phải được
thực hiện đối với riêng từng rủi ro và đối với toàn bộ danh mục rủi ro.
Trong quản trị rủi ro tín dụng, các NHTM cần thực hiện quản trị rủi ro đối với từng
khoản tín dụng và đối với toàn bộ danh mục tín dụng; Phải có hệ thống giám sát chất
lượng của toàn bộ danh mục tín dụng phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp
của danh mục tín dụng. Bên cạnh đó, để tăng cường quản trị rủi ro tín dụng các ngân
hàng cần phải hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng sau:
Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm
những tiềm ẩn trong hoạt động của ngân hàng mình, gồm phân tích báo cáo tài chính
và xác định các “điểm” nhạy cảm; Phát triển và thống nhất cách thức giám sát ngân
hàng trên cơ sở lý luận và thực tiễn; Xây dựng cách tiếp cận tới công việc đánh giá
chất lượng quản lý rủi ro trong nội bộ ngân hàng; Nâng cao kỹ thuật trong trích lập dự
phòng rủi ro; Xây dựng hệ thống và các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ
nước ngoài.

13


3.2 Kiến nghị đối với NHTM
• Tính toán chi phí hợp lý, đã dạng hóa nguồn thu khi triển khai dự án
• Xây dựng kế hoach, lộ trình cụ thể trong việc triển khai đưa mô hình Basel II
vào hoạt động của ngân hàng
• Tăng cường sự phối hợp giữa NHNN và các NHTM
• Các ngân hàng cần thay đổi khẩu vị rủi ro, tăng chi phí đầu tư cho công tác
quản trị rủi ro, giảm thiểu nợ xấu

• Xây dựng kế hoạch/hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý
• Công tác đào tạo và quản lý nhân sự.
• Tăng cường trao đổi công tác triển khai, nghiệp vụ với các ngân hàng bạn.
• Các NHTM cần nâng cao hiệu quả hệ thống kiểm toán nội bộ.
3.3 Kiến nghị đối với cơ quan quản lý
• NHNN Việt Nam cần có lộ trình cụ thể về thời gian trong việc áp dụng Basel II
trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước đã triển khai.
• Xác định lại mẫu số của công thức theo hướng tích hợp thêm rủi ro thị trường
và rủi ro hoạt động theo đúng quy định của Basel II.
• Trao quyền cho Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hang.
• Thực hiện nghiên cứu mô hình xác định mức độ ảnh hưởng đến thị trường tài
chính và nền kinh tế khi một NHTM bị phá sản.
• Tăng cường giám sát, yêu cầu điều chỉnh các kế hoạch phân phối lợi nhuận của
các ngân hàng bảo vệ quyền lợi chính đáng của cổ đông
• Tham gia các kỳ đại hội cổ đông để quan tâm đến các ý kiến của cổ đông để đề
nghị bổ sung, chỉnh sửa vào các phương án, kế hoạch tăng vốn, phân phối… để
đảm bảo tính khả thi và bảo vệ quyền lợi cổ đông.

14



×