Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Bào chữa bắt buộc theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.32 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử đấu tranh, tồn tại và phát triển của loài người,
quyền con người luôn luôn được ghi nhận và bảo đảm trong các đạo
luật của mỗi quốc gia. Ở nước ta, tư tưởng chỉ đạo và xuyên suốt của
Đảng và Nhà nước là xây dựng một nền tư pháp dân chủ với các
nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền con người. Thực hiện theo tinh
thần Nghị quyết 04-NQ/TW năm 2005 của Bộ chính trị, trong những
năm qua, hoạt động tranh tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự và
vai trò của người bào chữa ngày càng được nâng cao, quyền bào chữa
dần được củng cố, tôn trọng, mở rộng và bảo đảm thực hiện.
Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng của
người bị buộc tội, được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp của
nước ta. Tại khoản 4, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền
tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Trên cơ sở trên,
bảo đảm quyền bào chữa được cụ thể hóa và được coi là một trong
những nguyên tắc đặc thù pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Bào chữa bắt buộc có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc giải quyết vụ án hình sự. Đây là chỗ dựa về pháp lý, tinh
thần, kiến thức, niềm tin của người bị buộc tội để bảo vệ mình và
cũng là cơ chế, biện pháp pháp lý hữu hiệu để Nhà nước bảo đảm
thực hiện quyền con người. Mặc dù pháp luật hiện nay đã quy định
tương đối đầy đủ nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều vướng mắc. Hơn nữa,
việc áp dụng trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự thuộc
trường hợp bào chữa bắt buộc trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn
nhiều bất cập. Điều này, dẫn đến người bị buộc tội không được bảo
đảm thực hiện trọn vẹn quyền bào chữa. Người bào chữa không thực
1



hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình.
Vì vậy, nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn về bào
chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự là cần thiết, phù hợp với nhu cầu
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Từ những lý do trên, tác giả
chọn đề tài “Bào chữa bắt buộc theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn cao học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát cho thấy chỉ có một công trình nghiên cứu về bào
chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự đã được công bố: Lư Thế Hân
(2015), Bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sỹ. Luận văn tập trung phân tích sâu những vấn đề về bào chữa
bắt buộc, đây là cơ sở cho việc nghiên cứu nội dung của Luận văn.
Đối với bào chữa nói chung trong tố tụng hình sự thì có nhiều công
trình nghiên cứu đã được công bố.
Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu phân tích về quyền bào
chữa nói chung, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Đối với bào
chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự, các luận văn ít được đề cập đến
và bào chữa bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam thì chưa có công
trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm phân tích đánh giá những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về bào chữa bắt buộc và thực trạng áp dụng trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp thiết
thực nhằm bảo đảm thực hiện bào chữa bắt buộc cho người bị buộc
tội đạt hiệu quả tối đa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết các
2



nhiệm vụ chủ yếu sau:
Đưa ra khái niệm, ý nghĩa và cơ sở quy định của bào chữa bắt
buộc trong pháp luật tố tụng hình sự; các trường hợp và yếu tố bảo
đảm thực hiện bào chữa bắt buộc; những hạn chế, vướng mắc trong
việc thực hiện bào chữa bắt buộc trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và
đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng bào chữa bắt buộc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, đối tượng
nghiên cứu của đề tài là những tài liệu liên quan đến quyền bào chữa,
bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự, những quy định của pháp
luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay và những văn bản pháp lý quốc
tế về bào chữa chữa bắt buộc, thực tiễn áp dụng bào chữa bắt buộc
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích, đánh giá
và tổng hợp những vấn đề lý luận chung và thực tiễn về bào chữa bắt
buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực hiện bào chữa bắt
buộc theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các số liệu thực hiện bào
chữa bắt buộc từ năm 2012 – 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để thực hiện luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, quan điểm duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà
3


nước về pháp luật, về quyền con người, quyền công dân để tiếp cận
vấn đề một cách khoa học và khách quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn còn kết hợp với nhiều phương pháp nghiên cứu khoa
học chuyên ngành: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp chứng minh, phương pháp thống kê... để làm sáng tỏ
vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về bào chữa bắt buộc, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có những nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo có
giá trị đối với các cơ quan nhà nước giải quyết những vướng mắc
trong quá trình áp dụng thực tiễn. Đặc biệt, đối với những người
tham gia tố tụng như người bị buộc tội, bị can, bị cáo, góp phần đảm
bảo quyền lợi của họ. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể
làm tài liệu tham khảo trong quá trình công tác, học tập, nghiên cứu
tiếp theo cho những người quan tâm.
7. Cơ cấu của luận văn
Bố cục của luận văn được chia làm ba chương, gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bào chữa bắt buộc theo
pháp luật tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
về bào chữa bắt buộc và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Nam.

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về bào chữa bắt buộc.

4


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÀO CHỮA BẮT BUỘC
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của bào chữa bắt buộc
1.1.1. Khái niệm bào chữa bắt buộc
Bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự là sự bảo đảm tuyệt
đối quyền có người bào chữa của người bị buộc tội từ phía cơ quan
tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật. Đây còn là một trong
những phương thức bảo đảm quyền bào chữa nhưng không phải là
đương nhiên mà chỉ áp dụng cho một số đối tượng theo quy định của
pháp luật. Hiện nay, pháp luật không quy định rõ khái niệm bào chữa
bắt buộc và thực tiễn cũng chưa có một khái niệm thống nhất. Tuy
nhiên, từ những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm bào chữa bắt
buộc trong tố tụng hình sự như sau: Bào chữa bắt buộc là sự bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội từ cơ quan tiến hành tố tụng
trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật để người bị
buộc tội có người bào chữa nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của họ.
1.1.2. Ý nghĩa của bào chữa bắt buộc
Bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự có ý nghĩa ở nhiều
phương diện chính trị, xã hội và pháp lý.
Về mặt chính trị, bào chữa bắt buộc mang ý nghĩa chính trị sâu
sắc, tạo cơ chế hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công
dân của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.

Về mặt xã hội, bào chữa bắt buộc thể hiện tính nhân văn, nhân
đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta.
Về mặt pháp lý, thực hiện bào chữa bắt buộc là thực hiện
những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2003 như: Bảo đảm quyền
5


bào chữa của người bị buộc tội;... Bào chữa bắt buộc góp phần vào
việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm quá trình điều
tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội [46, tr.18].
1.2. Đặc điểm của bào chữa bắt buộc
1.2.1. Người thực hiện bào chữa bắt buộc theo chỉ định của
cơ quan có thẩm quyền
1.2.2. Bào chữa bắt buộc tôn trọng quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
1.2.3. Bào chữa bắt buộc tiến hành theo một trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ BÀO CHỮA BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển về bào chữa
bắt buộc theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945
đến nay
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
Như vậy, từ giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
đến trước khi Bộ luật Tố tụng hình năm 1988 ra đời, cho thấy những
quy định về quyền bào chữa của người bị buộc tội, trong đó có bào
chữa bắt buộc ngày càng được hoàn thiện theo từng giai đoạn lịch sử

khác nhau. Tuy nhiên, nhìn lại quá trình phát triển của những quy
định của pháp luật về bào chữa bắt buộc vẫn còn thiếu sót và hạn chế.
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến nay
BLTTHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
6


Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/1989 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch
sử lập pháp tố tụng hình sự nói chung và chế định bào chữa bắt buộc
nói riêng.
2.1.3. Pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới về
bào chữa bắt buộc
2.1.3.1. Bào chữa bắt buộc trong pháp luật tố tụng hình sự
Trung Quốc
2.1.3.2. Bào chữa bắt buộc trong pháp luật tố tụng hình sự
Liên bang Nga
2.1.3.3. Bào chữa bắt buộc trong pháp luật tố tụng hình sự
Công hòa Liên bang Đức
2.1.3.4. Bào chữa bắt buộc trong pháp luật tố tụng hình sự
Nhật Bản
Như vậy, qua tìm hiểu một số quy định của pháp luật tố tụng
hình sự của một số quốc gia về chế định bào chữa bắt buộc của người
bị buộc tội có thể thấy một số quốc gia quy định về các trường hợp
phải có sự tham gia bắt buộc của người bào chữa gần giống với pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, còn có một số quốc gia
quy định mở rộng phạm vi các trường hợp mà các cơ quan tiến hành
tố tụng bắt buộc phải chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội.
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành về bào chữa bắt buộc

2.2.1. Trường hợp bào chữa bắt buộc
2.2.1.1. Trường hợp người bị buộc tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội theo khung hình phạt cao nhất là tử hình
2.2.1.2. Trường hợp người bị buộc tội là người chưa thành
niên
7


2.2.1.3. Trường hợp người bị buộc tội là người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất
2.2.2. Thủ tục chỉ định người bào chữa
Trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS
2003, nếu người bị buộc tội không mời người bào chữa thì cơ quan
tiến hành tố tụng phải có nghĩa vụ yêu cầu phân công người bào chữa
cho họ.
Thủ tục nhờ người bào chữa đối với trường hợp người bị tạm
giữ, bị can đang bị tạm giam là thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam hoặc các tổ chức thành viên của Mặt trận đề nghị tổ
chức mà họ là thành viên cử người bào chữa cho họ thì Điều tra viên
phải ghi ý kiến của người bị tạm giữ, bị can vào biên bản và hướng
dẫn họ viết đề nghị bằng văn bản. Trong trường hợp người bị tạm
giữ, bị can đang bị tạm giam nhờ người bào chữa là người đại diện
hợp pháp của họ thì Điều tra viên hướng dẫn họ viết văn bản đề nghị,
trong văn bản ghi rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của người đại diện hợp
pháp. Cơ quan điều tra có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị của người
bị tạm giữ, bị can cho cho tổ chức, người đại diện hợp pháp mà người
bị tạm giữ, bị can nhờ bào chữa. Trường hợp người bị tạm giữ, bị can
đang bị tạm giam nhờ người bào chữa là luật sư hoặc viết giấy nhờ
người thân liên hệ nhờ luật sư bào chữa thì Điều tra viên hướng dẫn
họ viết giấy yêu cầu luật sư và có trách nhiệm gửi cho luật sư mà họ

nhờ bào chữa hoặc gửi cho người thân của người bị tạm giữ, bị can.
Theo quy định của BLTTHS 2015 thì thủ tục bào chữa bắt
buộc có sự thay đổi. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
sau khi xem xét các giấy tờ cần thiết và thuộc trường hợp đăng ký
bào chữa thì vào sổ đăng ký bào chữa, sau đó gửi thông báo bằng văn
bản cho người đăng ký bào chữa được biết. Như vậy, thủ tục các cơ
8


quan tiến hành tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận người bào
chữa sẽ không còn.
2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa bắt buộc
Người bào chữa trong bào chữa bắt buộc, về cơ bản được
quyền sử dụng những biện pháp bào chữa do pháp luật quy định cho
người bào chữa nói chung. . Các quyền của người bào chữa theo quy
định pháp luật tố tụng hình sự cụ thể như sau:
Thứ nhất, về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa
bắt đầu từ khi khởi tố bị can, trong các trường hợp bắt người khẩn
cấp và bắt người phạm tội quả tang thì người bào chữa được tham gia
tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Thứ hai, người bào chữa được quyền có mặt khi lấy lời khai
của người bị tạm giữ
Thứ ba, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo
trước về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị
can.
Thứ tư, người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến
hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.
Thứ năm, quyền thu thập tài liệu, đồ vật và tình tiết liên quan
đến việc bào chữa.
Thứ sáu, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu trong qua trình

tham gia bào chữa.
Thứ bảy, người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ; bị
can, bị cáo đang bị tạm giam.
Thứ tám, quyền được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu
trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều
tra .
Thứ chín, người bào chữa có quyền tham gia hỏi và tranh luận
9


dân chủ tại phiên tòa trong giai đoạn xét xử.
Thứ mười, người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Cuối cùng, quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu
bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất .
Bên cạnh những quyền nêu trên thì người bào chữa cũng phải
có nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.
Ngoài các nghĩa vụ luật định nêu trên, về mặt lý luận cũng như
thực tiễn thì nghĩa vụ quan trọng nhất của người bào chữa trong bào
chữa bắt buộc là việc phải thực hiện đúng yêu cầu của quy định pháp
luật tố tụng hình sự để đảm bảo tính pháp lý của quá trình tố tụng.
Nếu vì lý do nào đó mà người bào chữa không thực hiện đúng nghĩa
vụ luật định thì dù quá trình tố tụng có đảm bảo giải quyết đúng đắn,
khách quan và toàn diện thì kết quả đó vẫn không được công nhận vì
đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Nói cách khác, người bào
chữa trong bào chữa bắt buộc giữ vai trò đảm bảo cho hình thức của
quá trình tố tụng.
2.2.4. Nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc bảo đảm bào chữa bắt buộc

Quyền được bào chữa bắt buộc không chỉ là quyền của người
bị buộc tội mà còn là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng
phải bảo đảm có người bào chữa cho họ trong các giai đoạn tố tụng.
Nếu cơ quan tiến hành tố tụng không thực hiện đúng nghĩa vụ này thì
bị coi là hành vi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo cũng có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người
bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ đảm bảo cho họ.
Tóm lại, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan
10


tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải bảo vệ sự thật, bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội,
nhất là trong những những trường hợp bào chữa bắt buộc. Chính
những biện pháp bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội sẽ
tạo điều kiện cho những người tiến hành tố tụng phát huy được năng
lực của mình, làm cho hoạt động tố tụng thực sự là một quá trình đi
tìm sự công bằng trên cơ sở tôn trọng các quyền cơ bản của con
người.
2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về bào chữa bắt buộc trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng các quy
định về bào chữa bắt buộc
Bảng 2.1. Báo cáo tổng hợp của các Tòa án nhân dân cấp huyện trên

Năm
2012
2013
2014
2015

2016
Tổng

địa bàn tỉnh Quảng Nam [8]
Bị cáo về tội mức cao
Bị cáo là ngƣời
nhất của khung hình
chƣa thành niên
phạt là tử hình
130
1
89
0
86
1
62
1
51
1
338
4

Tổng
132
89
87
63
52
342


Đối với các vụ án thuộc trường hợp bào chữa bắt buộc theo
yêu cầu của Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam mà người
bào chữa là luật sư trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2016 như
sau:

11


Bảng 2.2.Báo cáo tổng hợp án chỉ định tại trụ sở Đoàn luật sư tỉnh
Quảng Nam [9]
Năm

Số lƣợng vụ án đƣợc cơ quan tiến hành tố tụng yêu
cầu luật sƣ bào chữa

2013

43

2014

38

2015

32

2016

15


Tổng

128

Qua bảng số liệu thống kê ở trên có thể kết luận từ năm 2012
đến năm 2016 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam số lượng người bị buộc
tội được bào chữa bắt buộc ngày càng giảm.
2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng quy định về
bào chữa bắt buộc
Việc áp dụng quy định về bào chữa bắt buộc đạt được những
kết quả đáng kể. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn còn tồn tại những
hạn chế, vướng mắc.
Chất lượng bào chữa trong các vụ án bào chữa bắt buộc chưa
cao, lời bào chữa trong những trường hợp này thường mang tính hình
thức, yếu về trình độ, kém về nội dung.
Đối với việc bào chữa bắt buộc, các luật sư thường không coi
trọng và làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm.
Khi tham gia bào chữa bắt buộc, thù lao do Nhà nước chi trả
thường ít hơn rất nhiều so với bào chữa thông thường, người bị buộc
tội không trả thêm thù lao nên một số luật sư được chỉ định không
thực hiện hết trách nhiệm của mình, hời hợt khi tham gia tố tụng. Vì
vậy, chất lượng bào chữa còn thấp.

12


Việc đảm bảo người bào chữa trong trường hợp bắt buộc còn
chậm trễ.
Mặt khác, thực tiễn người bào chữa là người có hiểu biết pháp

luật tham gia bào chữa bắt buộc không cao, đa số là do người bị buộc
tội tự bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của họ bào chữa mà
những người này thường không am hiểu về pháp luật.
Sự tham gia của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng
chưa thực sự đảm bảo, gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong các giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn còn nhiều hạn chế trong việc
tranh luận với người bào chữa.
Tại phiên tòa, một số thẩm phán, chủ tọa phiên tòa chưa quan
tâm nhiều đến việc tranh luận.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
2.3.3.1. Về quy định của pháp luật
Quy định về người bào chữa theo quy định tại Điều 56
BLTTHS 2003 đối với người bào chữa là bào chữa viên nhân dân và
người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa
được hướng dẫn cụ thể. Trong điều kiện số lượng luật sư chưa đủ để
đáp ứng nhu cầu bào chữa trong vụ án hình sự, với quy định thiếu rõ
ràng trên đã hạn chế quyền bào chữa cho người bị buộc tội.
Đối với người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo chưa có một văn bản chính thức nào hướng dẫn về loại người
này. Vì thế, khi xác định người đại diện hợp pháp thì chỉ có thể căn
cứ vào những quy định tại Bộ luật Dân sự.
Về thời điểm tham gia của người bào chữa bắt buộc. Hiện nay,
pháp luật không quy định rõ về thời điểm tham gia của người bào
chữa bắt buộc.
13


Đối với trường hợp bị can là người có nhược điểm về thể chất
thì pháp luật cũng không có quy định cụ thể thế nào là người có

nhược điểm về thể chất và nhược điểm đến mức độ nào thì cần có
người bào chữa bắt buộc.
Đối với sự thay đổi về tình trạng thể chất, tâm thần của người
bị buộc tội trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng hình sự
thì cần đều phải xem xét đến việc áp dụng hay hủy bỏ các biện pháp
đảm bảo bào chữa bắt buộc.
Hiện nay, pháp luật cũng không có quy định rõ ràng về việc
người bào chữa bắt buộc có nhất thiết phải tham dự tất cả các lần hỏi
cung thân chủ của mình hay không.
Quy định về quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào
chữa bắt buộc theo điểm a và điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003
còn chưa cụ thể, rõ ràng.
Bên cạnh đó, bào chữa bắt buộc là sự bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội từ cơ quan, người tiến hành tố tụng. Vì vậy,
trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng rất quan trọng. Tuy
nhiên, thực tế cũng xảy ra không ít trường hợp cơ quan, người tiến
hành tố tụng có thẩm quyền vi phạm thủ tục tố tụng, không bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội trong các trường hợp bắt buộc
nhưng pháp luật không quy định chế tài xử lý. Vì vậy, pháp luật cần
thiết phải quy định rõ trách nhiệm và chế tài đối với những vi phạm
trên để luôn đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội.
2.3.3.2. Về nhận thức và năng lực của cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng
Như đã phân tích, quyền bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối
với bản thân bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, đối với các cơ quan tiến
hành tố tụng, đối với nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự. Do vậy,
14


quyền này được nhà nước bảo đảm.

Có ý kiến cho rằng trong trường hợp vụ án đã được điều tra
cẩn trọng nhưng cơ quan điều tra chỉ có vi phạm hình thức - không
thực hiện nghĩa vụ bảo đảm sự tham gia bắt buộc của người bào chữa
- thì vi phạm này cần rút kinh nghiệm nhưng chưa tới mức nghiêm
trọng để phải điều tra lại. Dù có trả hồ sơ để điều tra lại cũng không
còn ý nghĩa gì nữa.
Bên cạnh sự nhận thức còn hạn chế của người tiến hành tố
tụng thì chính bản thân người bị buộc tội cũng chưa nhận thức đúng
về quyền bào chữa của mình. Người bị buộc tội chưa hiểu đầy đủ
trong việc bào chữa bắt buộc do họ chưa nhận thức được quyền bào
chữa bắt buộc là quyền năng đặc biệt mà pháp luật dành cho họ,
không ai có quyền hạn chế quyền này của họ. Khi rơi vào vòng tố
tụng, họ thường phó mặc cho các cơ quan tiến hành tố tụng quyết
định số phận của mình, không hiểu đầy đủ, cặn kẽ về bào chữa bắt
buộc nên vẫn còn e ngại về thù lao nếu có người bào chữa.
2.3.3.3. Về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật
Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật là một trong những điều
kiện hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tố tụng phát hiện và xử lý tội phạm
có hiệu quả. Trong khi đó, tình trạng thiếu thốn cơ sở vật chất hoặc
cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, không được sửa chữa hoặc nâng
cấp vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, nhiều cơ quan tiến hành tố tụng.
Bên cạnh đó, việc trang bị các phương tiện kỹ thuật khoa học
hiên đại còn khiêm tốn và chưa đáp ứng kịp thời, nhất là các cơ quan
ở các vùng kinh tế khó khăn. Đội ngũ những người tiến hành tố tụng
chưa được trang bị đầy đủ và toàn diện về kiến thức về khoa học kỹ
thuật phục vụ cho hoạt động chuyên môn... Tất cả những khó khăn
trên làm hạn chế hoạt động xử lý vụ án, ảnh hưởng đến chất lượng
15



điều tra, truy tố, xét xử nói chung và không bảo đảm hiệu quả quyền,
lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, trong đó có quyền bào chữa
nói riêng. Vì vậy, cần có những giải pháp khắc phục.
CHƢƠNG 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ BÀO CHỮA BẮT BUỘC
3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện đúng các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về bào chữa bắt buộc
Từ các Nghị quyết số 08/NQ-TW về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49/NQ-TW
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cho
thấy yêu cầu của cải cách tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự là
yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và yêu cầu bảo đảm quyền
con người của những người tham gia tố tụng. Hai yêu cầu này xuất
phát từ chính nhiệm vụ của tố tụng hình sự và có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Thực hiện dân chủ - mở rộng và tôn trọng quyền con
người của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng hình sự là yêu cầu
khách quan của cải cách tư pháp. Dân chủ vừa là mục đích, vừa là
động lực, vừa là phương thức thực hiện tố tụng hình sự. Nhiệm vụ
của tố tụng hình sự là phát hiện xử lý kịp thời mọi hành vi tội phạm
và kẻ phạm tội, bảo vệ quyền và lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân xét đến cùng là bảo vệ trật tự
mà trong đó nhân dân làm chủ nhà nước. Dân chủ là giá trị xã hội lớn
nhất mà tố tụng hình sự nước ta có nhiệm vụ bảo vệ.
3.1.1. Yêu cầu về xây dựng pháp luật
Việt Nam đang từng bước tham gia hầu như toàn bộ đầy đủ
16



các Công ước quốc tế nhằm bảo vệ quyền con người nên việc xây
dựng hệ thống pháp luật - nhất là trong lĩnh vực tố tụng hình sự - phải
thực hiện tốt hoạt động nội luật hóa đầy đủ nội dung của các Công
ước này.
Hoàn thiện pháp luật về quyền bào chữa bắt buộc, trước hết
cần phải thống nhất quan điểm của đạo luật có giá trị pháp lý cao
nhất là Hiến pháp năm 2013. Một trong những mục tiêu quan trọng
nhất của Hiến pháp 2013 là bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con
người, quyền công dân. Vì vậy, khi ban hành, sửa đổi luật phải luôn
luôn bảo đảm quyền con người.
Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII một lần
nữa khẳng định quyền bào chữa bắt buộc là một quyền lợi đặc thù,
quyền cơ bản của công dân, của những người bị buộc tội được coi là
một nguyên tắc hiến định [22], ghi nhận tại các Điều 31, Điều 103
Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp năm 2013 quy định không chỉ bị cáo
mới có quyền bào chữa mà ngay từ khi người bị bắt, đã phát sịnh
quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa đối với họ, được đảm
bảo bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Đây là một
nguyên tắc hiến định nhằm đảm bảo cho người bị buộc tội có quyền
được tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Đối với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo bị
buộc vào tội có mức hình phạt cao nhất là từ 20 năm tù, tù chung
thân, tử hình hoặc là người thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất thì bắt buộc phải có người có người bào chữa cho
họ, cả trong trường hợp họ không nhờ người bào chữa. Trường hợp
này, trách nhiệm bảo đảm có người bào chữa thuộc về các cơ quan
tiến hành tố tụng và phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật
trong việc buộc tội đối với bị can, bị cáo, đồng thời, phải có căn cứ
17



vững chắc và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm
oan người vô tội.
Đồng thời, Nhà nước có trách nhiệm ban hành, hoàn thiện các
cơ chế đảm bảo thực thi quyền bào chữa của công dân. Việc tăng
cường trách nhiệm hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng cũng như tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đòi
hỏi trách nhiệm rất lớn của toàn bộ hệ thống chính trị, của Đảng và
Nhà nước ta trong việc ban hành, hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm
thực thi quyền bào chữa của công dân trong quá trình giải quyết vụ
án, tiến tới một xã hội công bằng, dân chủ, tiến bộ, văn minh.
Để tiếp tục xây dựng hoàn thiện pháp luật về quyền bào chữa
bắt buộc, cần thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật của
Việt Nam về các căn cứ không cho phép phân biệt đối xử trong vấn
đề bào chữa nói chung và bào chữa bắt buộc nói riêng. Cần tiếp tục
nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLTTHS liên quan đến bào
chữa bắt buộc. Những quy định trên cần phải được cụ thể hóa bằng
các văn bản hướng dẫn làm căn cứ để các cơ quan, người có thẩm
quyền áp dụng thống nhất, phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp
của Đảng và Nhà nước theo hướng ngày càng đảm bảo tốt hơn các
quyền con người.
3.1.2. Yêu cầu về năng lực của người áp dụng
Quyền bào chữa bắt buộc của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
không thể thực hiện được một cách triệt để và hiệu quả khi người tiến
hành tố tụng không nhận thức đúng nội dung và ý nghĩa, tầm quan
trọng của nó.
Cơ quan, người tiến hành tố tụng là những chủ thể trực tiếp
tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu
thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sảng tỏ các yếu tố của đối

18


tượng chứng minh và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm vi,
quyền hạn của mình. Trước hết, họ phải nhận thức được việc bảo
đảm thực hiện quyền bào chữa bắt buộc của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là đảm bảo quyền bào chữa cho họ và chính là giúp họ giải
quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ. Đây cũng là
nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho họ thực hiện. Nếu các chủ thể tham
gia tố tụng không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng
của quyền bào chữa bắt buộc thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
không thể thực hiện quyền bào chữa của mình một cách có hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần thiết phải thay đổi nhận thức của người dân
nói chung và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng khi cho rằng,
sự tham gia tố tụng của người bào chữa là không cần thiết và tốn
kém. Nhận thức không đúng về vai trò và vị trí của người bào chữa
chính là rào cản lớn làm cho sự tham gia của người bào chữa trở nên
khó khăn, trong khi bản thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người
đại diện hợp pháp của họ lại không có khả năng bào chữa có hiệu quả.
Việc người bào chữa tham gia tố tụng để bảo vệ cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của chính họ,
người đại diện hợp pháp cũng như gia đình của họ. Do vậy, việc thay
đổi nhận thức về vai trò của người bào chữa là cách tốt nhất để trang
bị cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo những phương tiện, biện pháp
giúp họ bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm
phạm các quyền tố tụng từ phía những người tiến hành tố tụng, cơ
quan tiến hành tố tụng nhằm thực hiện quyền bào chữa của mình.
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện đúng các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về bào chữa bắt buộc
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật

Để nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa bắt buộc, trước hết
cần phải kiện toàn lại toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật có quy
19


định những vấn đề liên quan đến bào chữa bắt buộc của người bị buộc
tội. Trong đó, BLTTHS là văn bản pháp lý có ý nghĩa và tầm quan
trọng hàng đầu. Việc hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ chế bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội trong các trường hợp bắt buộc
phải trên phương hướng chung là tiếp tục phát triển, hoàn thiện những
quy phạm pháp luật về thực hiện bào chữa bắt buộc hiện có. Đồng thời
bổ sung các quy phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện bào chữa
bắt buộc cho thật sự đầy đủ, rõ ràng và bảo đảm thực hiện.
Thực hiện tinh thần cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013,
BLTTHS 2015 đã chỉnh sửa, khắc phục được các tồn tại, vướng mắc
của BLTTHS 2003 và bổ sung nhiều điểm mới về chế định bào chữa.
Tuy nhiên, để đảm bảo bào chữa bắt buộc cho người bị buộc tội, còn
có những hạn chế cần được bổ sung, hoàn thiện để bảo vệ tốt hơn và
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, cụ thể:
Một là, về tên điều luật “Chỉ định người bào chữa”, tuy nhiên,
cá nhân tác giả cho rằng việc sử dụng thuật ngữ “chỉ định” trong
trường này là chưa thỏa đáng mà nên sử dụng thuật ngữ bào chữa bắt
buộc. Do “chỉ định” là một khái niệm có phần hạn chế trong việc thể
hiện yêu cầu cần phải đảm bảo cho sự tồn tại của một yếu tố đối với
quá trình tố tụng hình sự, mà lại dễ làm cho người khác có nhận thức
về việc lựa chọn một chủ thể cụ thể nào đó. Điều này không chỉ là kết
quả của hoạt động phân tích chủ quan mà thực tiễn thời gian qua cho
thấy thuật ngữ “chỉ định” thường được gắn với việc xác định loại
người bào chữa tham gia tố tụng là Luật sư chỉ định và các chủ thể
tham gia tố tụng hình sự ít khi sử dụng cụm từ “chỉ định luật sư” mà

thường sử dụng cụm từ “cử luật sư” hoặc “giới thiệu luật sư”. Điều
này có phần nguyên nhân xuất phát từ việc hạn chế gây tâm lý mặc
cảm đối với người bào chữa khi cảm thấy bị chỉ định thay vì được cử
hay được yêu cầu.
20


Thuật ngữ “bào chữa bắt buộc” thì lại chủ yếu phản ánh tính
chất không thể thiếu của một yếu tố đối với quá trình nhiều hơn là
đối với một cá nhân chủ thể, nên việc sử dụng khái niệm này sẽ phù
hợp hơn khi dùng để gọi tên một Điều luật.
Hai là, đối với chủ thể được bào chữa bắt buộc, trong đó có
người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào
chữa thì cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề nhược điểm về thể chất
dựa trên nguyên tắc chung sau đây: Người bị buộc tội có nhược điểm
về thể chất nhất định và những nhược điểm này làm cản trở người bị
buộc tội tự mình thực hiện quyền bào chữa. Cơ quan tiến hành tố
tụng phải trả lời và đưa ra quyết định phù hợp về bảo đảm người bào
chữa cho người bị buộc tội.
Ba là, cần bổ sung quy định người bào chữa bắt buộc được gặp
bị cáo sau phiên tòa sơ thẩm. Cần bổ sung quy định người bào chữa
được quyền gặp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất sau phiên tòa sơ thẩm trong
trường hợp người đó tiếp tục bị tạm giam.
Bốn là, cần bổ sung quy định về cơ chế phối hợp giữa cơ quan
tiến hành tố tụng với Đoàn luật sư các tỉnh thành về hình thành cơ
chế “luật sư, trợ giúp pháp lý trực ban”.
Năm là, cần phải có chế tài xử lý những người tiến hành tố
tụng cản trở quyền bào chữa của người bị buộc tội, quyền hành nghề
luật sư.

Sáu là, mối quan hệ giữa người bào chữa với các cơ quan tiến
hành tố tụng có tính chất đặc biệt ở chỗ vừa hợp tác, vừa chế ước.
3.2.2. Các giải pháp khác
3.2.2.1. Nâng cao năng lực, trình độ của người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng
Để nâng cao kiến thức chuyên môn và nhận thức của đội ngũ
21


tiến hành tố tụng, phải tập trung một số vấn đề sau:
Một là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho
những người tiến hành tố tụng. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những
kiến thức mới về pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế. Tổ chức
các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn, đánh giá trình độ, từ đó có
chế độ tuyên dương, khen thưởng xứng đáng. Phát động các phong
trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức, tác phong sống, làm việc
nghiêm túc, lành mạnh; coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm, miễn
nhiệm.
Hai là, thay đổi nhận thức chưa đúng đắn của những người tiến
hành tố tụng về vai trò, vị trí của người bào chữa trong tiến hành tố
tụng. Cần phải nhìn nhận sự tham gia của người bào chữa là yếu tố
khách quan để vụ án được giải quyết đúng đắn.
Ba là, trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác
cho những người tiến hành tố tụng.
3.2.2.2. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa việc bảo vệ quyền bào
chữa bắt buộc của người bị buộc tội
Thứ nhất, vai trò của UBMTTQVN và các tổ chức thành viên
Mặt trận sẽ ngày càng quan trọng khi mà số lượng các vụ việc cần
phải bảo đảm quyền bào chữa bắt buộc gia tăng do mở rộng quy định
về những trường hợp phát sịnh yêu cầu bào chữa bắt buộc.

Thứ hai, Nhà nước cần phải có những biện pháp khuyến khích
người bào chữa tham gia tố tụng đối với những trường hợp bào chữa
bắt buộc.
Thứ ba, tăng cường đội ngũ luật sư, người bào chữa, nâng cao
năng lực trách nhiệm của những người làm công tác bào chữa.
Thứ tư, bào chữa bắt buộc được thực hiện bởi các cơ quan,
người tiến hành tố tụng nhưng hiện nay chưa có cơ chế giám sát chặt
chẽ, vì vậy không thực sự được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Do
22


đó, cần tăng cường vai trò giám sát bào chữa bắt buộc của các cơ
quan Nhà nước, các cơ quan đại diện cho nhân dân như Hội đồng
nhân dân các cấp hay các tổ chức xã hội khác.
Thứ năm, về vai trò tổ chức khác như cơ quan giám định. Kết
quả giám định trong tư pháp không chỉ giữ vai trò cung cấp căn cứ để
giải quyết các vấn đề phát sinh về nội dung vụ án mà còn có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc xác định căn cứ phát sinh yêu cầu bào
chữa bắt buộc khi chưa xác định được độ tuổi sinh học hoặc tình
trạng thể chất, tâm thần của người bị buộc tội.
Thứ sáu, cần tăng cường việc phổ biến, giáo dục pháp luật
trong các nhà trường, cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội.
KẾT LUẬN
Với vai trò là bảo đảm cho quyền con người và quyền công
dân không bị xâm phạm bất hợp pháp, bào chữa bắt buộc trở thành
một nhu cầu không thể phủ nhận trong hoạt động tố tụng hình sự.
Bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền bào chữa bắt buộc
trong tố tụng hình sự là hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển
của nhân loại, của hệ thống pháp luật quốc tế cũng như định hướng
xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ta trong tình hình hiện nay.

Tuy pháp luật hiện hành chưa quy định khái niệm bào chữa bắt buộc
nhưng có thể đưa ra khái niệm như sau: Bào chữa bắt buộc là sự bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội từ cơ quan tiến hành tố
tụng trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật để người bị
buộc tội có người bào chữa nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của họ. Bào chữa bắt buộc có ý nghĩa rất quan trọng trên nhiều
phương diện khác nhau như chính trị, xã hội, pháp lý. Bào chữa bắt
buộc vừa mang những đặc điểm chung của quyền bào chữa thông
thường nhưng vừa mang đặc điểm riêng biệt. Đó là sự tham gia
23


của người bào chữa trong quá quá trình tố tụng hình sự do sự
chỉ định từ cơ quan tiến hành tố tụng và chi phí bào chữa này
do Nhà nước chi trả.
Luận văn làm rõ quá trình áp dụng các quy định về bào chữa
bắt buộc trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã đạt được những kết quả
nhất định, mang lại hiệu quả cho người bị buộc tội. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, thực tiễn vẫn còn tồn tại những hạn chế, vướng mắc.
Nguyên nhân là do các quy định của pháp luật còn thiếu sót, chưa rõ
ràng, gây nhiều cách hiểu khác nhau cho việc áp dụng. Nhận thức về
bào chữa bắt buộc và năng lực của người tiến hành tố tụng chưa cao.
Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kĩ thuật vẫn còn thiếu thốn,
chưa đảm bảo.
Từ những hạn chế trên, phải đặt ra yêu cầu xây dựng pháp luật,
năng lực của người áp dụng để đưa ra những giải pháp bảo đảm áp
dụng các quy định về bào chữa bắt buộc theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam. Luận văn “Bào chữa bắt buộc theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” được thực hiện với
mong muốn được góp phần củng cố hệ thống lý luận và đề xuất một

số giải pháp đối với những vấn đề chưa hoàn thiện của pháp luật đối
với hoạt động bào chữa bắt buộc. Theo đó, những giải pháp được đặt
ra để hoàn thiện xây dựng pháp luật như nâng cao quyền hạn của
người bào chữa, tạo ra cơ chế tranh tụng thực sự tại phiên tòa, bổ
sung quy định chế tài xử lý đối với người tiến hành tố tụng cản trở
thực hiện bào chữa bắt buộc. Bên cạnh đó, thường xuyên nâng cao,
tập huấn nhận thức và năng lực, trình độ của người tiến hành tố tụng
và người bào chữa, đẩy mạnh công tác xã hội hóa việc bào chữa bắt
buộc của người bị buộc tội.

24



×