Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm bạo lực gia đình theo pháp luật hình sự việt nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.62 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, tình hình bạo lực gia đình
(BLGĐ) diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng về số
lượng và ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn về tính chất và
mức độ vi phạm. BLGĐ xâm hại đến các quyền cơ bản của
thành viên gia đình, nhiều gia đình bị tan vỡ, ảnh hưởng đến
sự phát triển lành mạnh và hài hòa của xã hội.
Nhận thức được tính chất nguy hiểm của BLGĐ đối với
gia đình và xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực
hiện nhiều giải pháp, trong đó nổi bật là việc ban hành và tổ
chức thực hiện Luật phòng, chống bạo lực gia đình. Trong số
các biện pháp đấu tranh phòng, chống BLGĐ thì biện pháp
đấu tranh bằng pháp luật hình sự luôn giữ vai trò quan trọng.
Bằng việc quy định các tội phạm về bạo lực, đặc biệt là các
trường hợp người phạm tội và người bị hại cùng là thành
viên gia đình, từ đó áp dụng trách nhiệm hình sự (TNHS)
đối với các hành vi này, pháp luật hình sự đã trở thành công
cụ sắc bén để đấu tranh với hiện tượng BLGĐ. Tuy nhiên, do
nhận thức về tính nguy hiểm của hành vi BLGĐ nói chung
và tội phạm BLGĐ nói riêng vẫn còn hạn chế, trong khi đó,
việc điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan đến BLGĐ lại
được quy định rải rác tại các văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau; các văn bản này còn mang tính quy định chung,
chưa bao quát hết những nội dung liên quan đến hoạt động
phòng, chống BLGĐ. Kết quả là tình hình BLGĐ, đặc biệt
là tội phạm về BLGĐ không những không suy giảm mà có
xu hướng ngày càng diễn ra nghiêm trọng, phức tạp hơn.
Phòng, chống BLGĐ đang đặt ra những nhiệm vụ cấp bách
và lâu dài, đòi hỏi phải áp dụng nhiều giải pháp và biện
pháp khác nhau.




2

Thực tiễn xử lý các tội phạm BLGĐ cho thấy do
nhận thức về TNHS chưa đầy đủ và thống nhất dẫn đến
quá trình xây dựng pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật
hình sự đối với các hành vi phạm tội phạm BLGĐ còn hạn
chế, việc áp dụng hình phạt còn quá nặng hoặc quá nhẹ,
nhiều đối tượng phạm tội được hưởng án treo, một số bản
án tuyên phạt nhưng không được chấp hành nghiêm
chỉnh... Bên cạnh đó, việc áp dụng các hình thức khác của
TNHS cũng chưa được chú trọng áp dụng dẫn đến làm
giảm hiệu quả đấu tranh với tình trạng BLGĐ bằng pháp
luật hình sự, pháp luật hình sự đã không còn là vũ khí răn
đe, cảnh tỉnh và trừng phạt đích đáng đối với nhiều người
có tiềm năng và thực tế đã phạm tội BLGĐ. Nói cách
khác, trong trường hợp này pháp luật hình sự đã không đáp
ứng được mục đích xã hội của nó.
Xuất phát từ các lý do nêu trên, việc nghiên cứu TNHS
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm BLGĐ đang là một
yêu cầu bức thiết. Nhận thức được điều đó, tác giả đã mạnh
dạn lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm bạo lực gia đình theo pháp luật hình sự Việt Nam”
làm nội dung nghiên cứu cho Luận án Tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn về
TNHS đối với tội phạm BLGĐ theo pháp luật hình sự Việt
Nam hiện nay, nội dung của các quy định pháp luật hình sự,

những bất cập, hạn chế về tội phạm BLGĐ và TNHS đối với
các tội phạm BLGĐ, nguyên nhân của những hạn chế, bất
cập đó, Luận án đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật hình sự và các giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng TNHS đối với tội phạm BLGĐ.


3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích những vấn đề lí luận về BLGĐ, TNHS
nói chung, TNHS đối với các tội phạm BLGĐ nói riêng; nêu và
phân tích làm rõ các khái niệm đó, đặc điểm liên quan.
Thứ hai, khái quát thực trạng quy định TNHS đối với các
tội phạm BLGĐ trong pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban
hành Bộ luật hình sự hiện hành.
Thứ ba, đánh giá thực trạng quy định TNHS đối với các tội
phạm BLGĐ trong pháp luật hình sự Việt Nam năm 1999 và
thực tiễn áp dụng.
Thứ tư, đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng TNHS
đối với các tội phạm BLGĐ ở Việt Nam; đề xuất cụ thể về hoàn
thiện pháp luật và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả
của TNHS đối với các tội phạm BLGĐ ở Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài Luận án được thực hiện dưới góc độ luật hình sự và
tố tụng hình sự. Các số liệu được sử dụng phục vụ nghiên cứu đề
tài được thu thập, thống kê từ dữ liệu của lực lượng Công an
nhân dân, Tòa án nhân dân, các tạp chí, các báo mạng và báo

giấy từ năm 2009 đến 2015.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2009 đến 2015.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực
tiễn của TNHS nói chung và TNHS đối với các tội phạm BLGĐ
nói riêng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Hướng tiếp cận của Luận án
Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên ngành
Luật hình sự và tố tụng hình sự; phương pháp tiếp cận lịch sử;
phương pháp tiếp cận hệ thống, chuyên ngành và liên ngành
khoa học xã hội. Đồng thời, nghiên cứu các quy định về TNHS,


4

TNHS đối với các tội phạm BLGĐ trong thời gian qua để đưa ra
các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về
TNHS đối với các tội phạm BLGĐ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương
pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát, hệ
thống hoá, tọa đàm khoa học, phỏng vấn chuyên gia, bảng câu
hỏi điều tra xã hội học, phương pháp phân tích dự báo khoa
học… để nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lí luận và áp
dụng pháp luật về TNHS đối với các tội phạm BLGĐ và giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng TNHS đối với các tội phạm
BLGĐ.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Một là, đưa ra các luận cứ, cơ sở khoa học của các quy định

pháp luật về BLGĐ và pháp luật hình sự về TNHS đối với các
tội phạm BLGĐ.
Hai là, đánh giá thực trạng quy định TNHS đối với các tội
phạm BLGĐ hiện hành, các hạn chế, bất cập của pháp luật, thực
tiễn áp dụng pháp luật và TNHS đối với các tội phạm BLGĐ,
Luận án đã đưa ra hệ thống giải pháp góp phần hoàn thiện pháp
luật hình sự cũng như áp dụng pháp luật hình sự nhằm nâng cao
hiệu quả TNHS đối với các tội phạm BLGĐ.
Ba là, Luận án góp phần vào việc nghiên cứu TNHS và xây
dựng các quy phạm pháp luật về hình sự Việt Nam trong thời
gian tới.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài Luận án có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn, Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu trực tiếp và
tổng thể vấn đề “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm bạo
lực gia đình theo pháp luật hình sự Việt Nam”. Kết quả nghiên
cứu đề tài Luận án có thể vận dụng và áp dụng vào thực tiễn xây
dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, phục vụ có
hiệu quả cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm BLGĐ


5

trong giai đoạn hiện nay. Luận án là công trình khoa học có
giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập
những nội dung liên quan đến BLGĐ và tội phạm BLGĐ
ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
Luận án được kết cấu gồm 4 chương, cụ thể như sau:

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối
với các tội phạm bạo lực gia đình
Chương 3. Thực trạng quy định trách nhiệm hình sự đối với
các tội phạm bạo lực gia đình theo pháp luật hình sự và thực tiễn
áp dụng
Chương 4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm bạo lực gia đình.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đã có một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về
TNHS nói chung, TNHS đối với các hành vi phạm tội BLGĐ nói
riêng. Tuy nhiên, TNHS đối với các tội phạm BLGĐ là một nội
dung mới, phức tạp và cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về TNHS đối với các tội phạm
BLGĐ.
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến
Luận án
1.2.1. Về những ưu điểm, những kết quả nghiên cứu mà
luận án sẽ kế thừa, tiếp tục phát triển
- Các công trình đề cập đến lý luận về TNHS như: khái
niệm, cơ sở của TNHS, các hình thức TNHS nói chung sẽ giúp


6

tác giả có những phân tích sâu hơn về TNHS và cơ sở của
TNHS, các hình thức của TNHS đối với các tội phạm BLGĐ.
- Các công trình được tác giả tham khảo, kế thừa, trong đó

đã nêu bật được tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi bạo
lực nói chung, tội phạm BLGĐ nói riêng, vốn được coi là cơ sở
pháp lí của TNHS đối với loại hành vi này.
1.2.2. Những vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo hoặc
cần phải tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất, phần lớn công trình nghiên cứu mới chỉ đề cập
đến BLGĐ nói chung và cách thức, biện pháp, phương tiện
phòng, chống nhằm ngăn chặn, đẩy lùi BLGĐ ra khỏi đời sống
xã hội.
Thứ hai, rất ít các công trình có đề cập nghiên cứu trực tiếp
TNHS đối với tội phạm BLGĐ. Một số công trình có đề cập
nghiên cứu vấn đề này nhưng thường chỉ tập trung vào khái
niệm, các dấu hiệu pháp lý của các hành vi BLGĐ.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu nói trên khi phân tích cơ
sở của TNHS đối với các tội phạm BLGĐ chỉ mới tập trung phân
tích cơ sở pháp lý của nó là cấu thành tội phạm (CTTP) tương
ứng được quy định trong BLHS mà chưa tập trung phân tích cả
cơ sở thực tế của nó, tức hành vi phạm tội đã xẩy ra trên thực tế.
Hơn thế, chưa phân tích đặc điểm của mối quan hệ giữa chủ thể
thực hiện tội phạm và người bị xâm hại. Điều này sẽ được tác giả
tiếp tục làm rõ trong Luận án này.
1.3. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
1.3.1. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu đề tài
1.3.1.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Khái niệm bạo lực, BLGĐ là gì?
- Khái niệm TNHS, TNHS đối với các tội phạm BLGĐ là gì?
- Thực trạng tội phạm BLGĐ ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Những giải pháp gì đảm bảo cho việc áp dụng TNHS đối
với các tội phạm BLGĐ có hiệu quả?
1.3.1.2. Lý thuyết nghiên cứu



7

Luận án được thực hiện trên cơ sở học thuyết Mác - Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người, bình đẳng giới,
bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em cũng như quan điểm của Đảng
và pháp luật của Nhà nước về vấn đề BLGĐ nói chung và vai trò
của pháp luật hình sự đối với tội phạm BLGĐ nói riêng.
1.3.1.3. Giả thuyết nghiên cứu
Thứ nhất, TNHS đối với các tội phạm BLGĐ là một dạng
trách nhiệm pháp lý, có mục đích ngăn chặn, hạn chế nạn
BLGĐ, nâng cao chất lượng sống của mỗi cá nhân và thúc đẩy
tính ổn định xã hội.
Thứ hai, trong thực tiễn lập pháp ở nước ta, tội phạm BLGĐ
đã được quy định trong các BLHS qua các thời kì nhưng còn
quy định rải rác ở các chương khác nhau. Do đó, thiếu tính hệ
thống, chuyên biệt nên phần nào đã ảnh hưởng tới việc đấu tranh
phòng, chống loại tội phạm này.
Thứ ba, mong muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng
TNHS đối với các tội phạm BLGĐ theo hướng: bổ sung một số
tội phạm xuất phát từ các hành vi nguy hiểm cho xã hội xuất
hiện thời gian gần đây thành các tội phạm BLGĐ trong BLHS,
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng TNHS đối với
các tội phạm BLGĐ.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Đã có một số công trình nghiên cứu có đề cập đến TNHS
đối với các tội phạm BLGĐ. Tuy nhiên, các công trình này chỉ
mới dừng lại ở mức độ phân tích khái niệm, các hình thức

TNHS, chứ chưa đi sâu vào bản chất, đặc điểm, giới hạn, yêu
cầu cần phải có của TNHS đối với các tội phạm có tính chất và
mức độ nguy hiểm cao như các tội phạm BLGĐ. Đồng thời, các
công trình nghiên cứu đó chưa đưa ra được những đề xuất cụ thể
nhằm góp phần hoàn thiện các quy định về TNHS nói chung và


8

TNHS đối với các tội phạm BLGĐ nói riêng. Ở trong các chương
tiếp theo tác giả Luận án đặt nhiệm vụ là sẽ làm rõ những vấn đề này.
CHƢƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM BẠO LỰC GIA ĐÌNH
2.1. Khái niệm và cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với
các tội phạm bạo lực gia đình
Tác giả Luận án cho rằng tội phạm BLGĐ là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người là thành
viên gia đình có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý bằng
hình thức bạo lực xâm phạm tới tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của các thành viên khác trong cùng gia đình. Việc quy định tội
phạm BLGĐ trong BLHS sẽ không có ý nghĩa nếu không kèm
theo các hình thức tác động là TNHS. TNHS là phạm trù của
luật hình sự bao hàm nhiều hình thức tác động khác nhau đến tội
phạm và người phạm tội nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội mà luật
hình sự có mục đích bảo vệ. Đó là hình phạt với tư cách là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, ngoài ra là các
biện pháp tư pháp khác, hay biện pháp miễn hình phạt... Với một
trong các hình thức tác động nào như đã nêu thì TNHS cũng đều

là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội về BLGĐ phải
gánh chịu. Từ đó, có thể đưa ra khái niệm TNHS đối với các tội
phạm BLGĐ là một dạng TNHS được quy định và áp dụng đối
với các tội phạm BLGĐ, thể hiện ở nghĩa vụ của một người là
thành viên gia đình phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước
Nhà nước về hành vi phạm tội của mình đối với thành viên khác
trong gia đình, theo đó người phạm tội bị tước bỏ hoặc bị hạn
chế quyền và lợi ích nhất định theo bản án kết tội của Tòa án.
Theo Điều 2 của BLHS năm 1999 và Điều 2 của BLHS
năm 2015 thì “chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy


9

định mới phải chịu TNHS”, theo đó, người phạm tội BLGĐ là
người phạm một trong các tội danh được quy định trong BLHS
và phải chịu TNHS đối với tội đã phạm. Để kết án một người
nào đó có tội hay không, phạm vào tội nào được quy định trong
BLHS và hình phạt áp dụng đối với họ như thế nào thì phải xác
định được có thỏa mãn hay không các yếu tố của CTTP cụ thể.
CTTP chính là cơ sở pháp lý của TNHS và một người chỉ có thể
phải chịu TNHS đối với tội phạm BLGĐ khi hành vi của họ có
đủ yếu tố cấu thành một tội phạm. Cụ thể, để phân biệt hành vi
bị coi là tội phạm với hành vi không bị coi là tội phạm, khoản 4
Điều 8 BLHS năm 1999, tương tự là khoản 4 Điều 8 BLHS năm
2015 đã quy định “Những hành vi tuy có dấu hiệu tội phạm
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể nên không
bị coi là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp pháp lý
khác”.
Như vậy, hành vi bị coi là tội phạm khi thỏa mãn 4 dấu

hiệu là tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội, tính có lỗi, tính trái
pháp luật và tính phải chịu hình phạt. CTTP là tổng hợp những
dấu hiệu chung có đặc tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể
được quy định trong luật hình sự. Việc kết tội một người nào đó
phạm tội theo BLHS và buộc người đó phải chịu TNHS chỉ có
thể dựa trên cơ sở pháp lý là CTTP. CTTP gồm 4 yếu tố, tồn tại
không tách rời nhau, nhưng được phân chia gồm: khách thể của
tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm,
mặt chủ quan của tội phạm. Trong sự thống nhất của mình, bốn
yếu tố nêu trên thể hiện đầy đủ bản chất, nội dung chính trị - xã
hội của tội phạm. Một điểm đáng lưu ý là tuy BLHS năm 2015
đã bổ sung nhóm chủ thể phạm tội mới là pháp nhân thương
mại, song do các tội phạm BLGĐ loại trừ nhóm chủ thể này, nên
tiếp sau chúng tôi sẽ không để cập đến.
Các dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi CTTP bao gồm:
hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc yếu tố khách quan của tội
phạm; lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của tội phạm; đạt một độ


10

tuổi nhất định và năng lực TNHS thuộc yếu tố chủ thể của tội
phạm.
Các dấu hiệu không bắt buộc phải có trong mọi CTTP bao
gồm: hậu quả nguy hiểm cho xã hội; địa điểm phạm tội; thời
gian phạm tội; công cụ phạm tội; động cơ phạm tội; mức độ
phạm tội... các dấu hiệu này có thể là bắt buộc đối với một số
CTTP nhất định, nhưng không phải là bắt buộc đối với mọi
CTTP.
Tương tự như cơ sở TNHS nói chung, cơ sở TNHS đối với

các tội phạm BLGĐ cũng xuất phát từ hành vi phạm tội và
CTTP BLGĐ.
Căn cứ vào các nhóm quan hệ xã hội khác nhau được luật
hình sự bảo vệ mà BLHS đã phân chia tội phạm thành các nhóm
tội, quy định tại các chương khác nhau của BLHS với các CTTP
cụ thể. CTTP BLGĐ nằm rải rác tại một số chương khác nhau
của BLHS, với 38 điều luật của BLHS năm 1999 và 42 điều theo
BLHS năm 2015. Mặc dù, BLHS không có chương riêng quy
định tội phạm BLGĐ, song để thuận lợi cho việc nghiên cứu,
căn cứ vào yếu tố khách thể của tội phạm, theo quan điểm cá
nhân, tác giả Luận án đã chia các tội phạm cụ thể (38 tội danh
liên quan) thành các nhóm tội xâm phạm thể chất, xâm phạm
tình dục, xâm phạm tinh thần, xâm phạm quyền tự do, dân chủ,
xâm phạm sở hữu, xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và
nhóm các tội khác.
2.2. Các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với các
tội phạm bạo lực gia đình
Đối với các tội phạm BLGĐ, hình thức TNHS cũng được
biểu hiện chủ yếu qua các quy định về hình phạt được quy định
trong từng tội danh cụ thể.
2.2.1. Hình phạt - hình thức cơ bản và chủ yếu của trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm bạo lực gia đình
Hình phạt là biện pháp quan trọng được Nhà nước ta sử
dụng để đấu tranh với tội phạm, là một trong những biện pháp


11

cưỡng chế nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với người hoặc
pháp nhân có lỗi trong việc thực hiện tội phạm nói chung và tội

phạm BLGĐ nói riêng (đối với cá nhân).
2.2.2. Các loại hình phạt được áp dụng đối với các tội
phạm bạo lực gia đình theo luật hình sự Việt Nam
Do tính chất phức tạp và đa dạng của các tội phạm BLGĐ
nên hình phạt quy định cho các tội phạm này cũng đa dạng và có
mức độ nghiêm khắc khác nhau: nghiêm khắc nhất là hình phạt
tử hình và nhẹ nhất là hình phạt cảnh cáo. Bên cạnh các hình phạt
chính thì đối với các tội phạm BLGĐ còn có các hình phạt bổ
sung nhất định.
Hình phạt chính được quy định ở các tội danh tương ứng
bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời
hạn, tù chung thân, tử hình. Các hình phạt bổ sung bao gồm: cấm
đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
cấm cư trú; quản chế; tịch thu tài sản, phạt tiền khi không phải là
hình phạt chính
2.2.3. Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt - những
hình thức khác của trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
bạo lực gia đình
2.2.3.1. Miễn trách nhiệm hình sự
Đối với các tội phạm về BLGĐ, chế định miễn TNHS được
áp dụng khá phổ biến, vì đặc trưng của tội phạm BLGĐ là ngoài
việc gây ra lỗi thì các thành viên trong gia đình thường có sự ràng
buộc lẫn nhau về mặt tình cảm, tâm lý.
2.2.3.2. Miễn hình phạt
Đối với các tội phạm BLGĐ được quy định trong BLHS
năm 1999 và BLHS năm 2015 khung hình phạt đối với các tội
này có sự khác biệt giữa các nhóm tội. Phân tích các quy định của
pháp luật hình sự hiện hành có thể thấy khung hình phạt đối với
các nhóm tội xâm hại thể chất là rất cao, bởi tính chất nguy hiểm
và tác hại lớn cho các thành viên gia đình, cho xã hội. Bởi vậy,

chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với những tội thuộc các


12

nhóm tội nêu trên là rất nghiêm khắc. Còn đối với nhóm tội xâm
hại tinh thần thì do mức độ nguy hiểm của hành vi thấp hơn, hình
phạt đối với các tội thuộc các nhóm này cũng thấp hơn so với các
nhóm xâm phạm thể chất và nhóm xâm phạm tình dục….
2.2.3.3. Các biện pháp tư pháp
Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các tội phạm BLGĐ
trong những năm qua cho thấy, các biện pháp tư pháp đã hỗ trợ
rất lớn cho việc phòng ngừa tội phạm và giáo dục người phạm
tội, đặc biệt là các biện pháp buộc công khai xin lỗi, bắt buộc
chữa bệnh.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
TNHS bắt đầu từ thời điểm đưa một người truy cứu TNHS
và kết thúc từ thời điểm xóa án tích hoặc từ thời điểm miễn
TNHS. Một người phải chịu TNHS về tội phạm BLGĐ, vốn
được hiểu “là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
thành các tội phạm cụ thể (mang tính bạo lực) tại các chương:
XII, XIII, XIV, XV, XVII, XIX của BLHS năm 1999 và Chương
XIV, Chương XV, Chương XVI, Chương XVII, Chương XX, mục
3 Chương XXI của BLHS năm 2015.
Luận án cho thấy, cơ sở pháp lý của TNHS chính là CTTP,
là điều kiện cần và đủ của TNHS. CTTP của một tội phạm nói
chung và CTTP của tội phạm BLGĐ nói riêng bao gồm: khách
thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội
phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Một trong các đặc điểm của
các tội phạm BLGĐ chính là chủ thể thực hiện hành vi phạm tội

là thành viên trong gia đình xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của
các thành viên khác trong gia đình.
TNHS được ghi nhận và thể hiện thông qua nhiều hình thức
mà hình phạt là hình thức chủ yếu, cơ bản nhất, với mục đích
trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích
cho xã hội.


13

CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM BẠO LỰC GIA ĐÌNH THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
3.1. Thực trạng quy định trách nhiệm hình sự đối với
các tội phạm bạo lực gia đình theo Bộ luật hình sự năm 1999
Trong BLHS năm 1999, các tội phạm BLGĐ được ghi nhận
rải rác trong 38 điều luật thuộc các chương khác nhau. Ở nhiều
tội danh không có sự phân biệt giữa thành viên trong gia đình
với những chủ thể không có mối quan hệ ràng buộc gia đình.
Mặc dù, BLHS không có chương riêng quy định các tội phạm
BLGĐ, tuy nhiên để thuận lợi cho việc nghiên cứu, tác giả đã
chia các tội phạm cụ thể (38 tội danh liên quan) thành các nhóm
tội có cùng tính chất khách thể. Cụ thể là: Nhóm tội xâm phạm
thể chất, nhóm tội xâm phạm tình dục, nhóm tội xâm phạm tinh
thần, nhóm tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ, nhóm tội xâm
phạm sở hữu, nhóm tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
và nhóm tội khác.
Qua mô tả tại các cấu thành cơ bản cũng như các đặc điểm
của khách thể và hành vi khách quan của tội phạm, cho thấy:

a) Nhóm tội xâm phạm về thể chất gồm có 12 tội danh cụ
thể: Tội giết người (Điều 93); Tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều
95); Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
(Điều 96); Tội bức tử (Điều 100); Tội xúi giục hoặc giúp người
khác tự sát (Điều 101); Tội đe doạ giết người (Điều 103); Tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
(Điều 104); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh (Điều 105); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính


14

đáng (Điều 106); Tội hành hạ người khác (Điều 110); Tội lây
truyền HIV cho người khác (Điều 117).
b) Nhóm tội xâm phạm về tình dục: có 6 tội danh cụ thể là:
Tội hiếp dâm (Điều 111); Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112); Tội
cưỡng dâm (Điều 113); Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114); Tội
giao cấu với trẻ em (Điều 115); Tội dâm ô với trẻ em (Điều 116).
c) Nhóm tội xâm phạm về tinh thần, nhóm này chỉ có 2 tội
danh, cụ thể là: Tội làm nhục người khác (Điều 121); Tội vu
khống (Điều 122).
d) Nhóm tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ gồm 3 tội
danh: Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123);
Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín
của người khác (Điều 125); Tội xâm phạm quyền bình đẳng của
phụ nữ (Điều 130).
đ) Nhóm tội xâm phạm sở hữu gồm 3 tội danh: Tội cướp tài

sản (Điều 133); Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135); Tội huỷ hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143).
e) Nhóm tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình gồm
có 6 tội danh: Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ (Điều 146); Tội vi phạm chế độ một vợ, một
chồng (Điều 147); Tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 148);
Tội loạn luân (Điều 150); Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà,
cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình
(Điều 151); Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
(Điều 152).
g) Nhóm tội khác:
Nhóm này gồm 6 tội danh, cụ thể là: Tội mua bán phụ nữ
(Điều 119); Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
(Điều 120); Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép
chất ma tuý (Điều 200); Tội vi phạm quy định về sử dụng lao
động trẻ em (Điều 228); Tội phá thai trái phép (Điều 243); Tội
dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm
pháp (Điều 252).


15

3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm
hình sự đối với các tội phạm bạo lực gia đình
Việc quy định các tội phạm BLGĐ và các biện pháp TNHS
tương ứng, trước hết hướng vào mục đích ngăn chặn và phòng
ngừa không để chúng xẩy ra. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, tội phạm BLGĐ vẫn xẩy ra trong xã hội, có chiều
hướng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước. Các số liệu thống
kê cho thấy: các vụ án hình sự về BLGĐ bị xử lý hình sự chủ

yếu là các hành vi bạo lực xâm phạm tính mạng, sức khoẻ và tài
sản của người khác; thường là tội phạm rất nghiêm trọng và đặc
biệt nghiêm trọng. Những vụ án này khi đã được lực lượng Công
an lập hồ sơ xử lý, thường là những vụ án có tính chất nghiêm
trọng, việc hoà giải tại cơ sở không đạt, không thể xử lý bằng
biện pháp hành chính mà buộc phải xử lý về hình sự.
3.3. Những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm bạo lực gia đình và
nguyên nhân
- Về cơ sở chịu TNHS (Điều 2 BLHS ): BLHS quy định về
cơ sở TNHS nhưng không giải thích rõ thế nào là TNHS, thời
điểm phát sinh và kết thúc TNHS; thẩm quyền xác định TNHS
nên nhận thức về quy định này chưa thống nhất, nhất là khi xử lý
một số vụ án hình sự cụ thể về tội phạm nói chung và các tội
phạm BLGĐ nói riêng.
Mặc dù, các tội phạm BLGĐ xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của thành viên khác trong gia đình; xâm phạm chế
độ hôn nhân gia đình ít được xử lý về hình sự nhưng không có
nghĩa là loại tội phạm này ít xảy ra trên thực tế. Do nhiều nguyên
nhân dẫn đến sự chênh lệch khá lớn giữa tổng số các tội phạm
xảy ra và số vụ được xử lý về hình sự.
- Về hệ thống hình phạt và điều kiện áp dụng một số hình
phạt: thực tiễn xét xử của tòa án cho thấy một số hình phạt mặc
dù được quy định trong BLHS nhưng hầu như không được áp
dụng hoặc áp dụng rất ít trong thực tiễn.


16

- Về vấn đề căn cứ quyết định hình phạt: một số căn cứ

quyết định hình phạt chưa thực sự rõ ràng, cụ thể và chưa phù
hợp với các quy định khác của BLHS, thậm chí còn gây khó
khăn cho việc thực hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đối với
người phạm tội như: Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình
tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án (Khoản 2 Điều
46) hay tình tiết “xúi giục người chưa thành niên phạm tội”.
- Dấu hiệu pháp lý của một số CTTP chưa phù hợp với thực
tế, khó chứng minh trên thực tế, gây khó khăn cho công tác điều
tra, truy tố, xét xử tội phạm.
- Khung hình phạt được quy định tại một số điều luật trong
BLHS chưa thực sự hợp lý, dẫn tới việc áp dụng không bảo đảm
tính chính xác, khách quan.
- Một số điều về tội phạm BLGĐ trong BLHS còn quy định
tội phạm ghép, như tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ
em (Điều 120), tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều
123), tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ (Điều 146)… Điểm bất cập lớn nhất là ở chỗ, các tội danh có
tính chất, mức độ khác nhau nhưng lại được áp dụng cùng một
chính sách xử lý như nhau vì được quy định trong cùng một điều
luật. Điều này đã gây khó khăn cho việc định tội danh và quyết
định hình phạt cũng như xác định các tình tiết tái phạm, tái phạm
nguy hiểm. Hơn nữa, điều luật quy định về tội phạm ghép cũng
không thể mô tả hết được hành vi khách quan và cấu thành cơ
bản đối với từng tội phạm dẫn đến khó khăn cho việc xác định tội
danh, áp dụng hình phạt.
- Một số hành vi có tính chất nguy hiểm cho gia đình, xã hội
nhưng chưa được quy định trong BLHS. Cụ thể như: hành vi
cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức; đối xử tàn tệ để
bóc lột sức lao động trẻ em là thành viên trong gia đình; hành vi
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ép buộc người mang thai phải

loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính; hành vi cưỡng ép quan
hệ tình dục…


17

Có thể kể đến bất cập từ quy định của BLHS, theo đó tội
phạm và hình phạt chỉ được quy định trong BLHS. Theo Điều 2
BLHS hiện hành:“Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu TNHS”. Do bị ràng buộc bởi quy
định này nên trong tất cả các luật khác khi đề cập đến hành vi vi
phạm cần xử lý hình sự thì đều dẫn chiếu đến BLHS một cách rất
chung chung là “... thì bị xử lý theo quy định của BLHS" nhưng
không rõ là về tội gì, theo điều khoản nào của BLHS, điều này
thể hiện rõ tại các quy định của Luật phòng, chống bạo lực gia
đình, Luật phòng, chống mua bán người…
- Cách đặt tên Chương tại Phần các tội phạm của BLHS năm
1999 chưa có sự thống nhất. Phần lớn các chương được đặt tên
theo khách thể xâm hại.
Ngoài ra, ở các tội phạm BLGĐ hình phạt được áp dụng đối
với người phạm tội tương tự như áp dụng đối với người phạm tội
mà giữa họ với người bị hại (nạn nhân) không có quan hệ hôn
nhân và gia đình.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về
TNHS đối với các tội phạm BLGĐ, tình hình tội phạm BLGĐ,
áp dụng TNHS đối với các tội phạm BLGĐ, Luận án rút ra một
số kết luận như sau:
1. Đối với các tội phạm BLGĐ, tình hình tội phạm này
không hề giảm mà trái lại có chiều hướng gia tăng.

2. Luận án đã phân tích CTTP gồm: mặt khách quan của tội
phạm, mặt chủ quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, khách
thể của tội phạm; hình phạt chính, hình phạt bổ sung áp dụng đối
với từng nhóm tội phạm BLGĐ cụ thể.
3. Với nhiều lý do khác nhau nên việc điều tra, truy tố, xét xử
loại tội phạm này vẫn còn có một số hạn chế, bất cập; dẫn đến cần


18

phải tiếp tục nghiên cứu để bổ sung một số quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự, pháp luật tổ chức điều tra hình sự cho phù hợp
hơn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử
đối với loại tội phạm này trong tình hình mới, đặc biệt trong thời
gian tới cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 và Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự
năm 2015.
Chƣơng 4
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC
TỘI PHẠM BẠO LỰC GIA ĐÌNH
4.1. Nhu cầu, quan điểm, phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp
luật hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm bạo lực gia đình
BLHS là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc quản lý xã
hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của
các tổ chức và của công dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, sau gần 15 năm thi hành BLHS năm 1999, tình
hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt làm cho các
quy định của Bộ luật này bộc lộ những hạn chế và bất cập, không
còn phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội. Điều này đã đặt ra
yêu cầu sửa đổi BLHS năm 1999 một cách cơ bản, toàn diện
nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới, trong đó có các tội phạm BLGĐ.
Thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của
Quốc hội khóa XIII, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự cũng
như nhiều đạo luật quan trọng khác đã được Quốc hội xem xét,
thảo luận, thông qua. Về tính cấp thiết, mục đích, yêu cầu và
nguyên tắc sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 đã được


19

trình bày khá rõ ràng và thuyết phục trong Tờ trình của Chính phủ
và trong các báo cáo thẩm tra của Ủy ban thường vụ Quốc hội và
kết quả là nhiều quy định mới đã được đưa vào BLHS năm 2015.
Sau đây, tác giả Luận án xin nêu một số ý kiến, kiến nghị của
mình liên quan đến nội dung nghiên cứu nhằm tiếp tục sửa đổi, bổ
sung các quy định của BLHS năm 2015 liên quan đến việc xác
định TNHS đối với các tội phạm BLGĐ.
Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng TNHS đối với
loại tội phạm, tác giả luận án cho rằng cần hoàn thiện chế định
TNHS đối với các tội phạm BLGĐ theo các hướng sau:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách hình sự đối với các tội
phạm BLGĐ theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tôn trọng và bảo
đảm thực thi đầy đủ các quyền con người, quyền cơ bản của công

dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, hoàn thiện các chế định về miễn TNHS; miễn,
giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện; xoá án tích
nhằm tạo điều kiện cho người bị kết án, nhất là người phạm tội bị
kết án phạt tù có điều kiện tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ ba, cần thực hiện việc hình sự hóa theo hướng quy
định là tội phạm đối với một số hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Thứ tư, cân nhắc sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng tội
phạm và hình phạt không chỉ được quy định trong BLHS mà còn
có thể được quy định trong các đạo luật chuyên ngành như Luật
phòng, chống bạo lực gia đình và các đạo luật khác có liên quan.
Thứ năm, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc
Phần các tội phạm của BLHS, đặc biệt là tội phạm BLGĐ nhằm
khắc phục những bất cập đặt ra trong thực tiễn, như: hạn chế
những tình tiết khó chứng minh trên thực tế; sửa đổi quy định của
BLHS theo hướng minh bạch, đơn giản, dễ vận dụng;
Thứ sáu, Nghiên cứu nội luật hóa những qui định có liên
quan của các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên nhằm góp


20

phần tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm BLGĐ.
Thứ bảy, Hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự theo hướng
nâng cao tính minh bạch, khả thi và tính dự báo trong các quy
định của BLHS.
4.2. Đề xuất cụ thể về hoàn thiện pháp luật và các giải
pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng trách nhiệm hình sự
đối với các tội phạm bạo lực gia đình

4.2.1. Sửa đổi quy định của Bộ luật hình sự song song với
đó là các hình thức trách nhiệm hình sự
Thứ nhất, bổ sung một số tội danh mới và tách một số tội
ghép trong Bộ luật hình sự hiện hành tại Chương XV về các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Cụ thể: Bổ sung mới các
điều:
Điều…..Tội cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức,
đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của
thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính.
Điều… Tội lạm dụng lao động trẻ em, đối xử tàn tệ để bóc lột
sức lao động trẻ em là thành viên gia đình.
Điều… Tội cưỡng ép quan hệ tình dục đối với vợ (hoặc
chồng).
- Tách 02 điều (tội ghép) thành 04 điều để việc định tội danh
được chính xác, minh bạch hơn. Cụ thể: Tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật, sẽ được tách thành 02 điều với 02 tội: Tội bắt
người trái pháp luật và Tội giam, giữ người trái pháp luật.
Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ, sẽ được tách thành 02 điều với 02 tội như sau: Tội cưỡng ép
kết hôn tự nguyện, tiến bộ và Tội cản trở hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ.
Điều 151 BLHS năm 1999 quy định tội ngược đãi hoặc hành
hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi
dưỡng mình, sẽ được tách thành 02 tội: Tội ngược đãi ông bà, cha
mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình và Tội


21

hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi

dưỡng mình.
4.2.2. Tăng cường công tác giải thích hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trách
nhiệm hình sự đối với các tội phạm bạo lực gia đình
Vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về quy định “hành vi đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này”. “Hành vi này”
được hiểu chung cho tội danh hay hiểu theo nghĩa hẹp theo từng
hành vi cụ thể trong tội danh? Việc xác định các dấu hiệu cấu
thành vi phạm hành chính BLGĐ quả là không đơn giản. Để có
thể định tội danh chính xác và trên cơ sở đó quyết định hình phạt
đối với hành vi phạm tội BLGĐ cụ thể, trước hết phải xác định
chính xác hành vi vi phạm hành chính BLGĐ, vì vậy cần có
hướng dẫn chi tiết và rõ ràng về hành vi này.
Một trong những dấu hiệu gây nhiều tranh cãi, khó xác định
khi định tội danh các tội phạm BLGĐ, đó là dấu hiệu “hậu quả
nguy hiểm cho xã hội” mà hành vi BLGĐ gây ra. Bên cạnh đó,
cần tính đến một yếu tố nữa là việc xác định nhân thân người
phạm tội BLGĐ. Do đó việc nghiên cứu nhân thân người phạm
tội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với loại tội phạm này.
4.2.3. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của
trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm bạo lực gia đình
Thứ nhất, xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến xử lí
tội phạm nói chung và tội phạm BLGĐ nói riêng như: các văn bản
hướng dẫn Luật thi hành tạm giữ, tạm giam; hướng dẫn Luật tổ
chức cơ quan điều tra hình sự. Trong đó, cần bổ sung một số điều
quy định riêng mang tính nguyên tắc trong điều tra, truy tố, xét xử
tội phạm BLGĐ.
Thứ hai, cân nhắc xây dựng Luật đạo hiếu, nhằm tạo cơ sở pháp
lí để xử lí các hành vi vi phạm giữa các thành viên trong gia đình.
Thứ ba, cân nhắc sửa đổi, bổ sung các đạo luật chuyên ngành

có liên quan như Luật phòng, chống BLGĐ, trong đó cho phép
quy định tội phạm và hình phạt trong luật này.


22

Thứ tư, làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật tới đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là các nội
dung về quyền con người, quyền bình đẳng giới, vấn đề tác hại
của việc lạm dụng chất kích thích như ma tuý, bia rượu, hay tệ nạn
cờ bạc…
Thứ năm, lập mới và củng cố các trung tâm tư vấn, tổ hoà
giải cơ sở để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp về quyền, lợi
ích giữa các thành viên gia đình.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác phối, kết hợp giữa ngành Công
an với các ngành có liên quan và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ bẩy, chính quyền và tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở có
trách nhiệm nắm và xác định đối tượng có nguy cơ gây ra BLGĐ,
thực hiện các biện pháp theo dõi, giúp đỡ…
Thứ tám, cần thực hiện tốt sự phối hợp giữa Cơ quan cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự xã hội với Công an cơ sở để thực hiện
nghiêm túc các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản.
Thứ chín, kiên quyết xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm
pháp luật nghiêm trọng.
Thứ mười, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng với chính quyền địa phương; đưa một số vụ án điển hình
về BLGĐ ra xét xử lưu động với mục đích giáo dục và phòng
ngừa chung.
Thứ mười một, trong công tác điều tra, xử lý, ngay sau
khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm về hành vi BLGĐ cần

phải tổ chức xác minh kịp thời, thu thập tài liệu chứng cứ,
đặc biệt là công tác lấy lời khai người làm chứng, giúp đỡ về
mặt tâm lý đối với người bị hại.
Thứ mười hai, đối với Toà án nhân dân các cấp cần lưu
ý khi xét xử các vụ án BLGĐ đòi hỏi cán bộ Toà án phải là
người có trình độ pháp luật và kiến thức xã hội sâu rộng, am
hiểu tâm lý con người.
Thứ mười ba, cần hoàn thiện về thể chế, tổ chức, hoạt
động của Tòa gia đình và người chưa thành niên; các thẩm


23

phán của tòa án này ngoài kiến thức chuyên môn vững còn
phải được đào tạo qua các khóa học kĩ năng về tâm lí để đủ
khả năng xét xử các vụ án về BLGĐ.
Thứ mười bốn, về mặt lập pháp, cần nghiên cứu, sửa đổi
Luật phòng, chống BLGĐ ngay sau khi luật Hình sự tiếp tục
được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung, trong đó cho phép quy
định tội phạm trong các luật chuyên ngành; và bổ sung thêm
một số nội dung mới theo những nội dung đã được BLHS
thay đổi.
Thứ mười lăm, Nhà nước cần đầu tư kinh phí nhằm tạo
điều kiện tốt cho công tác thi hành án, có chính sách ưu tiên
thoả đáng cho những người làm công tác này.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
Trong thời gian tới, việc hoàn thiện pháp luật đối với tội
phạm BLGĐ cần tập trung vào các nội dung chính như sau:
Thứ nhất, điều chỉnh các vấn đề liên quan đến TNHS đối với
các tội phạm BLGĐ;

Thứ hai, có quan điểm, chính sách hình sự hợp lý hơn đối với
các tội phạm BLGĐ;
Thứ ba, tăng cường hơn nữa các chế tài bổ sung đối với cá
nhân người phạm tội BLGĐ;
Ngoài việc hoàn thiện các quy định của BLHS, còn phải
hoàn thiện các quy định của các luật khác có liên quan, đồng thời
thực hiện đồng bộ các giải pháp mang tính kinh tế, xã hội… để
nâng cao hiệu quả của TNHS đối với các tội phạm BLGĐ.

KẾT LUẬN
Với cấp độ là một Luận án tiến sĩ, trên cơ sở nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm BLGĐ ở Việt


24

Nam thời gian qua và các quy định của BLHS năm 1999 đối với
các tội phạm BLGĐ, tác giả đưa ra được một số quan điểm lý
luận, những đánh giá tình hình cũng như các giải pháp nhằm hoàn
thiện một bước các quy định về TNHS và áp dụng TNHS đối với
các tội phạm BLGĐ theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Đề tài Luận án đã giải quyết được những vấn đề sau:
1. Luận án làm rõ khái niệm BLGĐ, tội phạm BLGĐ, TNHS
đối với các tội phạm BLGĐ nói chung; các hình thức TNHS đối
với các tội phạm BLGĐ; chính sách hình sự và việc quy định
TNHS đối với các tội phạm BLGĐ.
2. Luận án cũng làm rõ thực trạng quy định TNHS đối với
các tội phạm BLGĐ trong pháp luật hình sự năm 1999; phân tích
thực tiễn việc áp dụng các quy định về TNHS đối với các tội
phạm BLGĐ.

3. Từ kết quả nghiên cứu nêu trên, tác giả tìm ra nguyên nhân
của hạn chế bất cập (từ pháp luật, từ áp dụng pháp luật, từ các
nguyên nhân khác) và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của
áp dụng TNHS đối với các tội phạm BLGĐ ở Việt Nam hiện nay,
trong đó chú trọng các giải pháp về hoàn thiện pháp luật hình sự
và các giải pháp nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử
nhằm nâng cao hiệu quả của TNHS đối với các tội phạm này
ở Việt Nam hiện nay.



×