Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

tính hiệu quả của chính sách tiền tệ tại việt nam và một số nước trên thế giới giai đoạn 2007 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.15 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGÂN HÀNG

TIỂU LUẬN MÔN NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

Đề tài: TÍNH HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TẠI
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
GIAI ĐOẠN 2007 - 2013

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Quốc Anh
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 4A – Thuyết trình

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2015

1


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................


......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................

2


MỤC LỤC

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Lý do chọn đề tài
Cùng với chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ của Việt Nam đã góp phần quan trọng vào
việc duy trì tốc độ tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ, theo Luật Ngân hàng Nhà nước, là nhằm ổn định giá trị của
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Trên cơ sở mục tiêu chung đó, những năm
qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ khá linh hoạt, thông qua các
công cụ chính sách như điều tiết cung tiền, chính sách tỷ giá, lãi suất, đặt ra hạn mức tín dụng
cho hệ thống ngân hàng thương mại, các công cụ gián tiếp như quy định dự trữ bắt buộc, tái cấp
vốn, thị trường mở…
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng chính sách tiền tệ của Việt Nam chưa có tính dài
hạn, nhất quán mà đôi khi “giật cục”, chạy theo tình thế, gây ảnh hưởng đến các biến số kinh tế
cũng như sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế. Các chính sách tiền tệ đưa ra
có tác động chậm và không nhiều đến các biến số kinh tế, nghĩa là không đạt hiệu quả.
Liệu rằng những ý kiến này có thật sự thuyết phục?
Qua bài nghiên cứu của nhóm về tính hiệu quả của chính sách tiền tệ tại Việt Nam trong giai
đoạn 2007 - 2013 , chúng ta sẽ giải đáp được câu hỏi trên. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu còn tìm
hiểu thêm về chính sách tiền tệ của Mỹ và Trung Quốc cũng trong giai đoạn 2007 -2013. Để từ

đó rút ra bài học kinh nghiệm trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam sao cho thật sự hiệu
quả.
Vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào bốn nội dung chính sau:
• Đưa ra cơ sở lý luận và sự lựa chọn chính sách tiền tệ của một quốc gia.
3


• Tiến hành nghiên cứu tính hiệu quả của chính sách tiền tệ tại Việt Nam giai đoạn
2007 -2013.
• Tìm hiểu chính sách tiền của Mỹ và Trung Quốc giai đoạn 2007 -2013.
• Rút ra bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ tại Việt
Nam trong thời gian tới.

4


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CÙA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ là hệ thống các biện pháp, các công cụ do ngân hàng trung ương thực
hiện để điều tiết cung tiền, nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, thường là hướng
tới một lãi suất mong muốn để đạt được những mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế như
kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá, đạt được trạng thái lao động toàn dụng.
1.1.2. Đặc trưng
1.1.2.1. Chính sách tiền tệ là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính quốc
gia
Trong tổng thể các chính sách kinh tế của một quốc gia, mỗi chính sách đều có vai trò riêng
trong đó chính sách tiền tệ được coi là có vị trí trung tâm, quan trọng, gắn kết các chính sách lại
với nhau.

Mức độ tiền tệ hóa cao hay thấp của một nền kinh tế phản ánh trình độ phát triển kinh tế của
nước ấy. Do đó, tiền tệ đã thâm nhập và trở thành một yếu tố hết sức quan trọng trong mọi nền
kinh tế. Cùng với chính sách tài khóa thì chính sách tiền tệ có thể được coi là công cụ để NHTW
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
1.1.2.2. Chính sách tiền tệ là công cụ vĩ mô của ngân hàng nhà nước
Để đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô đã được hoạch định, chính phủ cần phải sử dụng hệ
thống các công cụ. Nếu xét riêng về chính sách kinh tế thì có 4 chính sách chủ yếu là: chính sách
tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách đối ngoại và chính sách thu nhập.
Chính sách tiền tệ được sử dụng để làm thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế từ đó
tác động đến lãi suất, tác động đến đầu tư và ảnh hưởng đến sản xuất, lưu thông hàng hóa, và do
vậy chính sách tiền tệ là một chính sách thuộc tầm vĩ mô.
1.1.2.3. Mục tiêu tổng quát của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền và góp
phần thực hiện một số mục tiêu vĩ mô khác

5


Với bất kì một nền kinh tế nào, vai trò của ổn định kinh tế và nâng cao sức mua đồng tiền
trong nước cũng luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. Trên cơ sở thực thi chính sách
tiền tệ, nhằm tác động đến lượng tiền cung ứng để từ đó tác động đến các yếu tố khác trong nền
kinh tế như lãi suất, lạm phát, đầu tư, việc làm, ổn định được tiền tệ thì mới khuyến khích tiết
kiệm, có tiết kiệm mới có đầu tư, từ đó sẽ có tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp.

1.2. HỆ THỐNG MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỀ
1.2.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ
Có thề nói lạm phát luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa, đặc biệt
là khi nền sản xuất hàng hóa phát triền ở mức độ cao. Lạm phát có thề được hiểu là sự gia tăng
giá cả trung bình cùa hàng hóa theo thời gian.
Lạm phát tác đọng đến kinh tế - xã hội theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Khi lạm phát
gia tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế, làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, làm phân

phối lại thu nhập, kích thích tâm lý đầu cở tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng bạc… gây tình
trang khan hiếm hàng hóa giả tạo, giảm sức mua thực tế của dân chúng vễ hàng hóa tiêu dùng.
Do đó, đỡi sống của dân chúng sẽ khó khăn hơn, gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân
hàng vì ngân hàng sẽ không thu hụt được các nguồn tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình. Bên
cạnh những tác động tiêu cực mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế thì một tỷ lệ lạm phát nhất
định lại là yếu tố kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các
nhà kinh tế học còn gọi đó là liều thuốc bổ cho tăng trường r kinh tế. Do đó cần chấp nhận sự
tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có nhừng quyết sách kiềm chế chứ không phải triệt tiêu
nó. Vấn đề quan trọng lả phải kiểm oát được lạm phát, ồn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền
kinh tế phát triền, đảm bảo đời sống cho người lao động.
1.2.2. Tạo việc làm và giảm thất nghiệp
Việc làm cho biết người lao động cũng là một trong các mục tiêu cùa chính sách tiền tệ. Để
đạt được mục tiêu này, chính sách tiền tệ hướng vào việc khuyến khích đầu tư, gia tăng sản xuất,
từ đó việc làm gia tăng; mặt khác, khi các hoạt động kinh tế được mở rộng, sẽ có tác dụng chống
suy thoái, nhất là suy thoái chu kì, để đạt được mức tăng trưởng định.
Nhìn tồng quát, giữa các mục tiêu vĩ mô: lãm phát, tăng trường kinh tế và việc làm có mâu
thuẫn đối ngịch với nhau. Khi kình chế lạm phát thì có nguy cơ tăng trường kinh tế sẽ giảm, dễ
dẫn đến suy thoái và thất nghiệp: ngược lại khi mở rộng đầu tư, khắc phụp suy thoái konh tế, tạo
việc làm và khuyến khích tăng trường kinh tế thì sẽ khó thưc hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát.
1.2.3. Tăng trưởng kinh tế
Về đại thể, khi tỷ lệ tăng tồng sản phẩm quốc nội lớn hơn nhịp độ tăng dân số thì sẽ có sự
tăng trường kinh tế. Việc thay đổi khối lượng tiền tệ cung ứng sẽ có tác động lớn đến nền kinh
tế. Tang trường kinh tế là mục tiêu vĩ mô của bất kì quốc gia nào. Tuy nhiên thực hiện mục tiêu
6


này không có nghĩa là chì khuyến khích tăng trường kinh tế mả còn thực hiện việc kìm hãm tốc
độ tăng trường của nền kinh tế nều nền kinh tế phát triển quá nóng. Điều đó có nghĩa là mỗi
quốc gia phài xác định một tỳ lệ tăng trường kinh tế dự kiến phù hợp với điêu kiện nội tại cùa
nền kinh tế đó. Trên cơ sở đó, căn cứ vào tốc độ tăng trường kinh tế là thấp hay cao để sự điều

tiết của chính sách tiền tệ sẽ hướng vào khuyến khích hay kìm hãm tốc đọ tăng trưởng kinh tế.
Nếu cần khuyến khích tăng trường, NHTW sẽ thực hiên chính sách tiền tệ mở rộng nhằm
tăng khối lượng tiền tệ, làm giảm lãi suất, do đó sẽ khuyến khích đầu tư, mở rông sản xuất, tăng
sản phẩm quố nội. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng tổng cầu, sức mua hàng hóa
trên thị trường tăng lên, hàng hóa hàng hóa tồn đọng được tiêu thụ hết là tiêng đề cho các doang
nghjieepj gia tăng sản xuất dần đến GDP tăng.
Trong trường hợp kìm hãm tốc độ tăng trường kinh tế, NHTW sẽ thực hiên chính sách tiền
tệ thắt chặt. Khi dó, khối lượng tiền tệ trong lưu thông giảm xuống, lài xuaatscos xu hướng tăng
lên, đồng vốn đầu tư đắt lên, đầu tư giảm, dần đén tồng sản phẩm quốc nội giảm xuống. Mật
khác khi giảm khối lượng tiền tệ, sẽ làm giảm tồng cầu, sức mua giảm, làm tăng hàng hóa tồn
đọng cùa các doanh nghiệp, do đó các doang nghiệp không mở rộng cơ sở vì vậy tốc độ tăng
GDP giảm.
Việc kiểm soát khối lượng tiền tệ cho nền kinh tế thời kì đầu thường được các quốc gia sử
dụng thông qua công cụ hạn mức tín dụng. Khi nền kinh tế thị trưỡng vận động một cách thuần
thục thì việc cung ứng tiền chư yếu được thực hiện thông qua các công cụ: tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tín dụng…

1.3. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Để thực hiện các mục tiêu của mình, ngân hàng trung ương thường sử dụng ba công cụ
chính để làm thay đổi cung tiền và lãi suất, bao gồm: tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, thay
đổi chính sách chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
1.3.1. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng nhất trong chính sách tiền tệ, bởi nó là yếu
tố chủ yếu quyết định sự thay đổi trong lãi suất và tiền cơ sở, cũng như là nguồn thu chủ yếu của
những biến động trong cung tiền. Hoạt động mua trên thị trường mở làm tăng dự trữ và tiền cơ
sở, qua đó làm tăng cung tiền và hạ thấp lãi suất ngắn hạn. Hoạtđộng bán trên thị trường mở làm
giảm dự trữ và tiền cơ sở, thu hẹp cung tiền và làm tăng lãi suất ngắn hạn.
Ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở:
• Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát quy mô của công cụ này một cách dễ dàng.
Điều này có thể nhận ra khi so sánh với một công cụ khác là chính sách chiết

khấu:ngân hàng trung ương có thể khuyến khích hay ngăn cản các ngân hàng thương
mại vay chiết khấu thông qua việc thay đổi lãi suất chiết khấu, nhưng chắc chắn sẽ
không thể kiểm soát được khối lượng cho vay chiết khấu. Do đó nghiệp vụ thị trường
mở vừa linh hoạt, chính xác và có thể thực hiện với bất kỳ quy mô nào. Nếu ngân hàng
7


trung ương muốn có một sự thay đổi nhỏ trong dự trữ haytiền cơ sở, nghiệp vụ này
được sử dụng thông qua việc mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán. Ngược lại,
nếu muốn thay đổi một lượng rất lớn trong dự trữ và tiền cơ sở thì nghiệp vụ này cũng
có thể thực hiện được thông qua việc mua hoặc bán một lượng chứng khoán rất lớn.
• Nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược. Do đó nếu phạm phải một sai lầm
nào trong nghiệp vụ thị trường mở thì ngân hàng trung ương có thể sửa lỗi ngay lập
tức bằng cách thực hiện điều ngược lại.
• Cuối cùng, nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện một cách nhanh chóng và không
gắn với bất kỳ độ trễ hành chính nào. Khi quyết định thay đổi tiền cơ sở hay dự trữ,
ngân hàng trung ương có thể thực hiện nghiệp vụ này ngay lập tức.
1.3.2. Công cụ chính sách chiết khấu
Với công cụ này, ngân hàng trung ương có thể thực hiện các khoản cho vay của mình thông
qua các khoản tín dụng dành cho các ngân hàng thương mại. Một số quốc gia trên thế giới như
Mỹ, các khoản cho vay chiết khấu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đối với hệ thống ngân hàng
được thực hiện dưới ba hình thức: tín dụng sơ cấp, tín dụng thứ cấp và tín dụng thời vụ. Còn tại
Việt Nam, chính sách chiết khấu được thực hiện thông qua các loại lãi suất như lãi suất tái chiết
khấu, lãi suất tái cấp vốn …
Ưu điểm rất lớn của chính sách chiết khấu là giúp ngân hàng trung ương thực hiện vai trò
“người cho vay cuối cùng” của mình. Ngân hàng trung ương ngăn không cho tình trạng hoảng
loạn tài chính xảy ra như trường hợp của cuộc Đại khủng hoảng vào năm 1929- 1933, điều này
có thể thấy qua trường hợp tại Mỹ khi vào tháng 5/1984, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ “bơm” cho
ngân hàng Continental Illinois - một trong mười ngân hàng lớn nhất Mỹ vào thời điểm đó - 5 tỷ
USD để tránh một cuộc sụp đổ có hệ thống.Hay như sự hoảng loạn tài chính có thể bùng nổ sau

khi thị trường cổ phiếu sụp đổ vào ngày thứ Hai đen tối năm 1987 và sau vụ tấn công khủng bố
đã phá hủy Trung tâm Thương mại thế giới vào ngày 11/9/2001, hoặc dẫn chứng tại Việt Nam là
trường hợp Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) vào các năm 2003 và năm 2012. Tuy
nhiên, với cho vay chiết khấu, ngân hàng trung ương khó thể xác định được tác động của chính
sách này lên nền kinh tế vì không thể kiểm soát hoàn toàn như với nghiệp vụ thị trường mở. Mặt
khác, khi liên tục thực hiện cho vay chiết khấu với vai trò là “người cho vay cuối cùng”, ngân
hàng trung ương đã tiếp tay cho các ngân hàng thương mại (nhất là các ngân hàng thuộc loại
“quá lớn để sụp đổ”) chấp nhận nhiều rủi ro hơn, nới lỏng các chính sách của mình để càng tăng
lợi nhuận càng tốt bởi vì họ nghĩ dù thế nào đi chăng nữa ngân hàng trung ương cũng sẽ cứu khi
họ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Song sự kiện ngày 15/9/2008 khi ngân hàng đầu
tư lớn thứ tư nước Mỹ, Lehman Brothers nộp đơn phá sản với khoản nợ lên đến 613 tỷ USD cho
thấy rằng các ngân hàng trung ương phần nào đó.
1.3.3. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Sự thay đổi trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động tới cung tiền thông qua việc thay đổi số
nhân tiền tệ. Sự gia tăng trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm số tiền gửi mà các ngân hàng
thương mại có thể tạo ra, từ đó làm thu hẹp dần cung tiền. Mặt khác, sự gia tăng trong tỷ lệ dự
trữ bắt buộc cũng làm tăng cầu về dự trữ và lãi suất thị trường. Do đó, đây là một công cụ có tác
8


động rấtmạnh tới cung tiền và lãi suất và cũng vì vậy rất hiếm được các ngân hàng trung ương
sử dụng.
Ưu điểm cũng như nhược điểm của chính sách này cũng đã thể hiện, đó chính là sự tác động
quá mạnh mẽ. Vì nó tác động như nhau đến tất cả các ngân hàng và gây tác động lớn đến cung
tiền, chỉ cần thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc một phầnngàn của một điểm phần trăm cũng đủ khiến
cung tiền thay đổi, do đó ngân hàng trung ương rất khó sử dụng công cụ này nếu chỉ muốn tạo
ra một sự thay đổi nhỏ trong cung tiền. Một nhược điểm nữa cũng rất đáng quan tâm, đó là việc
thay đổi dự trữ bắt buộc có thể ngay lập tức tạo ra vấn đề thanh khoản đối với các ngân hàng có
mức dự trữ thấp, khiến các ngân hàng này dễ gặp nguy hiểm. Chính vì vậy, ngân hàng trung
ương sau khi thực hiện chính sách này thường kèm theo một chính sách khác thông qua các

công cụ còn lại của chính sách tiền tệ để xoa dịu và làm giảm bớt tính bất ổn cho các ngân hàng
thương mại.
1.3.4. Các công cụ khác của chính sách tiền tệ
Ba công cụ nêu trên là những công cụ truyền thống của chính sách tiền tệ, được hầu như tất
cả các quốc gia sử dụng và những công cụ ấy khi được sử dụng sẽ có tác dụng làm thay đổi lãi
suất thị trường. Tuy nhiên, nếu mức lãi suất của một quốc gia đang quá thấp (xấp xỉ 0%) thì
ngân hàng trung ương có muốn kích thích nền kinh tế thông qua việc sử dụng các chính sách
tiền tệ mở rộng cũng không được. Đó là do các tài sản tài chính được bán bên ngoài thị trường
không còn được các nhà đầu tư ưa chuộng bởi họ nghĩ giá của chúng quá cao và tâm lý chung
của các nhà đầu tư là chỉ muốn nắm giữ tiền mặt tình trạng mà chúng ta gọi là “bẫy thanh
khoản”. Khi ấy, các công cụ truyền thống của chính sách tiền tệ không còn hiệu quả do lãi suất
không thể hạ hơn được nữa. Chính vì vậy mà các công cụ phi truyền thống xuất hiện. Và công
cụ điển hình nhất ở đây chính là các gói nới lỏng định lượng QE (Quantitative Easing), với mục
tiêu chính là bơm tiền ra ngoài nền kinh tế để mua các tài sản tài chính từ các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng, từ đó làm gia tăng lượng tiền cơ sở. Chính sách này được thực hiện
lần đầu tiên bởi Ngân hàng Trung ương Nhật Bản vào ngày 19/3/2001.Trong vòng bốn năm,
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã tiến hành mua các trái phiếu chính phủ, chứng khoán được
đảm bảo bằng tài sản, cổ phiếu,… khiến cán cân tài khoản vãng lai của các ngân hàng thương
mại gia tăng từ 5.000 tỷ yên lên 35.000 tỷ yên (khoảng 300 tỷ USD). Mục tiêu của chính sách
này là làm giảm giá đồng yên và gia tăng xuất khẩu để kích thích nền kinh tế, song cuối cùng
mục tiêu đó đã không thành hiện thực. Đến khoảng nửacuối năm 2012, ông Shinzu Abe quay trở
lại nắm quyền, trở thành thủ tướng Nhật Bản,đã ban hành chính sách kích thích nền kinh tế
(thường được gọi là học thuyết kinh tế Abenomics) với ba mục tiêu về chính sách tài khóa,
chính sách tiền tệ và cải tổ nền kinh tế. Trong đó mục tiêu thứ hai đã được Thống đốc Ngân
hàng Trung ương của Nhật Bản là ông Haruhiko Kuroda thông qua bằng một chương trình nới
lỏng định lượng có quy mô 1.400 tỷ USD để làm gia tăng gấp đôi lượng cung tiền cho nền kinh
tế. Những chính sách ấy đã khiến cho đồng yên liên tục sụt giảm, mất khoảng 30% giá trị từ
cuối năm 2012 đến khoảng giữa năm 2013 và phần nào giúp nền kinh tế Nhật Bản hồi phục.
Ngoài Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng thường sử dụng các
gói kích thích kinh tế thông qua công cụ QE, có tác động tích cực đến việc kích thích tăng

trưởng kinh tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nước Mỹ đã tung ra các gói QE 1, QE2 và hiện tại là
QE3.
9


Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cũng sử dụng các công cụ tiền tệ phi truyền thống như
các biện pháp hành chính: trần lãi suất, hạn mức tín dụng… Và các công cụ này cũng phần nào
tác động làm thay đổi lượng cung tiền và làm giảm mức lãi suất thị trường. Song có thể nói, các
biện pháp hành chính này bóp méo thị trường tiền tệ và gây ảnh hưởng xấu trong dài hạn. Do đó
cần phải thực hiện các biện pháp khác để hỗ trợ và giúp thị trường phát triển bền vững hơn.

1.4. CÁC KÊNH TRUYỀN DẪN CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Thông thường, ngân hàng trung ương luôn muốn đạt được đồng thời một số mục tiêu nào
đó, ví dụ như đạt được mức lạm phát thấp song song với một tỷ lệ việc làm cao (tức tỷ lệ thất
nghiệp thấp). Tuy nhiên, ngân hàng trung ương lại không thể tác động trực tiếp tới các mục tiêu
này. Đúng là ngân hàng trung ương có thể sử dụng các công cụ của mình (như nghiệp vụ thị
trường mở, lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc), nhưng các công cụ ấy chỉ có thể tác
động gián tiếp các mục tiêu kia sau một thời kỳ (thông thường là trên một năm). Chính vì thế
ngân hàng trung ương phải tiến hành thực thi chính sách tiền tệ và nhắm vào các biến số trung
gian giữa các công cụ của mình và các mục tiêu cần đạt được, các mục tiêu này được biết đến là
các mục tiêu trung gian, như tổng lượng cung tiền (M 1, M2, M3) hoặc lãi suất (ngắn hạn, dài
hạn). Tuy nhiên, các chính sách của ngân hàng trung ương cũng không thể tác động trực tiếp đến
ngay cả các mục tiêu trung gian, nên phải tìm các biến số khác để nhắm vào, các biến số này gọi
là các mục tiêu tác nghiệp, hay mục tiêu công cụ, chẳng hạn như tổng lượng dự trữ (dự trữ, tiền
cơ sở) hoặc lãi suất (lãi suất thị trường, lãi suất tín phiếu kho bạc). Ví dụ, ngân hàng trung ương
đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 7%/năm, tương ứng với mục tiêu này lượng cung tiền M2 sẽ tăng
6%/năm, và để đạt được điều đó tiền cơ sở phải tăng 5%/năm…
Tại một quốc gia đang phát triển có thị trường tài chính còn non trẻ như Việt Nam, các công
cụ chính sách tiền tệ thường được áp dụng, cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ thường là thay
đổi cung tiền cơ bản dẫn đến thay đổi lãi suất, tỷ giá, tín dụng, giá cả tài sản, từ đó tác động đến

tổng cầu để đạt được mục tiêu là kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, các mục tiêu này không cố định
và thay đổi theo từng thời kỳ, có khi trong một thời kỳ lại có nhiều mục tiêu được theo đuổi
cùng lúc. Nhìn chung, cơ chế truyền dẫn này có thể được thể hiện thông qua ba kênh chính:
• Lãi suất: Chính sách tiền tệ mở rộng làm gia tăng lượng cung tiền (M↑), khiến mức lãi
suất thực giảm xuống (ir↓), đồng nghĩa với việc chi phí sử dụng vốn giảm. Điều này
tạo ra hai tác động:
M↑ (↓) ir↓ (↑) C↑ (↓), I↑ (↓) Y↑ (↓)
M↑ (↓) Pe↑ (↓) q↑ (↓) I↑ (↓) Y↑ (↓)
Thứ nhất: khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân trong nền kinh tế tiến hành vay tiền
chi tiêu nhiều hơn (C↑), mặt khác lãi suất tiết kiệm giảm (ir↓) cũng làm giảm nhu cầu gửi
tiền tiết kiệm, tiêu dùng hiện tại gia tăng (C↑) và khiến các nhà đầu tư chuyển tiền sang
các kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán để tìmkiếm một tỷ suất sinh lợi cao
hơn (I↑). Động thái này giúp các thị trường trên phát triển, làm nâng cao giá trị của công
ty trên thị trườngbởi giá cổ phiếu các công ty gia tăng (Pe↑), khiến cho giá trị công ty có
thể cao hơn so với giá trị nội tại (q>1), kích thích công ty mở rộng đầu tư xây dựng nhà
xưởng, mua sắm máy móc, trang thiết bị để mở rộng quy mô (I↑).
10


Thứ hai: lãi suất thấp (ir↓) khuyến khích các doanh nghiệp gia tăng vay vốn để đầu tư
thực hiện các dự án đầu tư mới hay mở rộng các dự án kinh doanh cũ (I↑).
• Tỷ giá hối đoái: Chính sách tiền tệ mở rộng làm giảm lãi suất thực (ir↓), làm giảm sự
hấp dẫn của các khoản tiền gửi bằng nội tệ so với các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ.
Điều này làm tăng lượng cầu về ngoại tệ của các nhà đầu tư trong nước để tiến hành
đầu tư ra nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất. Từ đây làm cho đồng nội tệ mất giá
(e↓), gây ra hai tác động:
M↑ (↓)  ir↓ (↑)  e↓ (↑) NX↑ (↓)  Y↑ (↓)
M↑ (↓)  ir↓ (↑)  e↓ (↑) NW↓ (↑)  L↓ (↑)  I↓ (↑)  Y↓ (↑)
Thứ nhất: Khiến cho hàng hóa trong nước trở nên rẻ hơn, hàng hóa nước ngoài trở
nên đắt hơn. Điều này làm tăng xuất khẩu ròng (NX↑) và do đó làm tăng GDP (Y↑). Mặt

khác, việc xuất khẩu ròng tăng cũng khiến cải thiện cán cân vãng lai và cuối cùng giúp
cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia.
Thứ hai: Khi đồng ngoại tệ tăng giá, nó khiến cho các khoản nợ bằng ngoại tệ của
các doanh nghiệp trong nước tăng, điều này làm xấu đi bảng cân đối tài sản của các
doanh nghiệp, làm giảm giá trị tài sản thuần (NW↓), khiến vay mượn giảm (L↓), làm
giảm đầu tư (I↓), và cuối cùng làm giảm sản lượng (Y↓).
• Tín dụng ngân hàng: Thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng bằng cách nới lỏng tín dụng
ngân hàng làm tăng dự trữ ngân hàng và tiền gửi của ngân hàng, sẽ làm tăng các khoản
cho vay của ngân hàng, giúp tăng các khoản đầu tư (I↑), cuối cùng dẫn đến tăng sản
lượng (Y↑).
M↑ (↓)  Tiền gửi ngân hàng ↑(↓)  Khoản vay ngân hàng ↑(↓)  I↑(↓)  Y↑(↓)
* Trong đó:
M: Lượng cung tiền của nền kinh tế (M2), ir: Lãi suất thực, C: Chi tiêu của người dân
I: Đầu tư tư nhân, q: Tỷ số giá trị thị trường trên giá trị nội tại của công ty
e: Tỷ giá hối đoái (theo phương pháp gián tiếp), Pe: Giá cổ phiếu của công ty
Y: Tổng sản lượng của nền kinh tế, NX: Xuất khẩu ròng, L: Vay mượn của doanh nghiệp

PHẦN 2: THỰC TRẠNG VÀ CÔNG TÁC ĐIỀU CHỈNH CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
2.1. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NĂM 2007
11


2.1.1. Bối cảnh
Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, Việt Nam chứng kiến một giai đoạn tăng trưởng
kinh tế chậm lại so với thập niên trước đó. Vào cuối thập niên 1990, đà tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam chậm lại do chưa tiến hành mạnh cải cách kinh tế và những tác động tiêu cực của
cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997- 1998. Hậu quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm
đi liền với hiện tượng giảm phát trong những năm 1999-2001.
Trước tình hình đó, một kế hoạch kích thích kinh tế thông qua nới lỏng tín dụng và mở rộng

đầu tư nhà nước bắt đầu được thực hiện từ năm 2000. Việc duy trì chính sách kích thích tương
đối liên tục trong những năm sau đó, một mặt giúp nền kinh tế lấy lại phần nào đà tăng trưởng,
nhưng mặt khác đã tích tụ những mầm mống gây ra lạm phát cao bắt đầu bộc lộ từ giữa năm
2007.
11/1/2007: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Sự kiện này đã mở
ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng chưa từng có, khiến mức độ giao lưu thương mại và đầu tư
quốc tế tăng vọt, làm dòng vốn vào (cả đầu tư trực tiếp lẫn gián tiếp) tăng mạnh. Nhu cầu ổn
định đồng tiền Việt Nam đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải trung hòa một lượng ngoại tệ rất lớn,
góp phần thổi bùng lạm phát trong năm 2007 và đặc biệt là năm 2008 sẽ trình bày ở phần dưới
đây.
Tình hình kinh tế thế giới cũng có những chuyển biến xấu, đây là 1 năm ảm đạn của kinh tế
Mỹ khi đồng Đô la rớt giá nghiêm trọng, sự suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới ảnh
hưởng lớn đến các nước khác, trong đó có Việt Nam.
Từ tình hình trong ngoài nước này đòi hỏi NHNN phải có những điều chỉnh trong chính
sách tiền tệ để kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng, đáp ứng
nhu cầu vốn nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát.

12


2.1.2. Những điều chỉnh trong CSTT thông qua các công cụ
2.1.2.1. Điều tiết cung tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở
Trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở có những đổi mới như cố định phiên mua, thay
đổi phương thực đấu thầu. Năm 2007 có 20 thành viên tham gia, gồm các ngân hàng thương mại
(NHTM) nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng (NH) liên doanh và chi nhánh NH nước
ngoài, tăng 20% so với năm 2006, góp phần tăng khả năng điều tiết của nghiệp vụ này.
Để nhanh chóng kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường, NHNN đã tăng số phiên giao dịch
nghiệp vụ thị trường mở từ 3 phiên/tuần trong các năm trước lên giao dịch 5 phiên/tuần, tăng
khối lượng tín phiếu NHNN bán ra, đa dạng hạn các kỳ hạn tín phiếu từ 14 đến 364 ngày, xác
định mức lãi suất hợp lí để rút tiền lưu thông về. Lãi suất trúng thầu bình quân trong các phiên

chào bán là 4,35%/năm. Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện đinh kì hàng tuần 1 phiên chào mua
giấy tờ có giá với kỳ hạn 14 ngày, nhằm phát tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ vốn cho các NHTM thực
sự thiếu hụt vốn. Lãi suất chào mua bình quân khoảng 8,2%/năm.
2.1.2.2. Công cụ dự trữ bắt buộc
NHNN nhanh chóng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) gấp 1,5 – 2 lần (áp dụng từ 6/2007)
để hút tiền về. Tỷ lệ DTBB áp dung với tiền gửi VND có kì hạn dưới 12 tháng tăng từ 5% lên
10% ( ngoại trừ NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – AGRIBANK, NHTM cố
phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương). Tỷ lệ DTBB áp dụng đối với tiền gửi ngoại
tệ kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 8% lên 10%, tỷ lệ này đối với tiền gửi VND và ngoại tệ có kỳ
hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 2% lên 4%.
2.1.2.3. Tái cấp vốn (TCV)
Năm 2007, nhìn chung vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) xét trên toàn hệ thống tiếp tục
dư thừa. Trong khi đó, hoạt động thị trường liên NH chưa thực sự thông suốt nên một số NHTM
có thiếu hụt tạm thời về vốn khả dụng đã tiếp cận các kênh tái cấp vốn của NHNN (dưới hình
thức chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá). Đồng thời, từ đầu năm 2007 NHNN đã hạn chế việc tái
cấp vốn thông qua cầm cố giấy tờ có giá. Hơn nữa, do các TCTD tiếp tục dư thừa vốn nên rất ít
TCTD tiếp cận nguồn vốn này.
13


Để tránh tác động không thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHNN giữ nguyên các mức
lãi suất đã công bố như lãi suất TCV 6,5%/năm, lãi suất TCK 4,5%/năm.
2.1.2.4. Lãi suất
NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất do NHNN công bố như lãi suất cơ bản là
8,25%/năm, lãi suất qua đêm, lãi suất tiền gửi tại NHNN nhằm ổn định lãi suất thị trường. Đối
với tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD kể từ ngày 1/1/2007, NHNN bỏ quy định trần lãi suất
tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân, theo đó, các TCTD được phép ấn định lãi suất tiền gửi
bằng USD của pháp nhân theo cơ chế thỏa thuận.
Với cơ chế điều hành lãi suất như trên, lãi suất trên thị trường tiền tệ năm 2007 tương đối ổn
định. Lãi suất trên thị trường liên NH biến động trong khoảng dưới 15%/năm. Lãi suất huy động

của các NHTM biến động trong khoảng dưới 10%/năm.
2.1.2.5. Tỷ giá hối đoái
Đứng trước áp lực đồng Việt Nam tăng giá, cộng với việc mong muốn gia tăng số lượng
ngoại tệ dự trữ dự phòng khi xảy ra bất trắc, NHNN đã tung tiền đồng để mua vào một lượng
lớn ngoại tệ mà theo ước tính của Ngân hàng thế giới, chỉ trong quý 1, dự trữ ngoại hối của Việt
Nam tăng khoảng 3 tỉ Đô la, tương đương với gần 50.000 tỉ đồng được đưa vào lưu thông. Có lẽ
nhờ việc mua vào ngoại tệ mà trong những ngày đầu tháng 6/2007, tỷ giá đồng Việt nam so với
đồng Đôla đã tăng trở lại lên mức trên 16.100, thay vì chỉ quanh con số 16.000 như thời gian
trước. Bên cạnh việc phát hành VND mua ngoại tệ, NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ giá từ ±
0,25% lên ±0,5% và ±0,7% nhằm giảm áp lực lạm phát. Tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại
tệ liên NH giữa đồng Việt Nam với đồng Đôla Mỹ tương đối ổn định, cả năm tăng 0,08%.

2.2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NĂM 2008
2.2.1. Bối cảnh
Cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ "hàng trăm năm mới có một lần", theo lời ông Alan
Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED) bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu,
kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán
14


khuynh đảo. Cuộc khủng hoảng khiến sức mua sụt giảm, thị trường thu hẹp, sản xuất bị đình
đốn, người lao động mất việc làm, thu nhập giảm sút, nền kinh tế trì trệ, ảm đạn…

Tại Việt Nam, những tháng đầu năm 2008 do giá nguyên liệu, dầu mỏ và lương thực tăng
chóng mặt kèm theo chính sách nới lỏng tiền tệ và tài khóa một cách quá mức của chính phủ
trong những năm trước đây đã tạo là chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng 17
năm qua lên đến 23%. Đồng thời với đó do nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn tới đầu tư tràn
lan kém hiệu quả gây ra nhập khẩu tăng vọt đẩy thâm hụt thương mại lên mức kỉ lục là 17 tỷ
USD. Mức thâm hụt lớn này gây sức ép lên VND và khiến VND có khả năng bị mất giá nghiêm
trọng. Trước hoàn cảnh khó khăn đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải thực thi những điều chỉnh

cấp bách.
2.2.2. Những điều chỉnh trong chính sách tiền tệ thông qua các công cụ
2.2.2.1. Điều tiết cung tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở
Các giao dịch thị trường mở được thực hiện hàng ngày như trước, chủ yếu theo hình thức
đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất để bình ổn thị trường. Trong 7 tháng đầu năm, NHNN đã
thực hiện chào bán tín phiếu NHNN kì hạn 182 và 364 ngày; lãi suất phổ biến đối với kì hạn 182
ngày là 7,5%/năm; đối với kì hạn 364 ngày là 7,75%/năm. Đồng thời để hỗ trợ vốn ngắn hạn
cho các TCTD, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá với kì hạn ngắn (7, 14,
21, 28 ngày).

Bên cạnh đó, để thực hiện mụa tiêu kiềm chế lạm phát, váo tháng 3, NHNN phát hành tín
phiếu NHNN bắt buộc với khối lượng 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày, lãi suất 7,8%/năm.

Trong năm này, kể từ lúc phát hành NHNN đã 2 lần điều chỉnh lãi suất đối với tín phiếu
NHNN bắt buộc này. Lần đầu tiên vào 1/7/2008, NHNN điều chỉnh tăng lãi suất từ 7,8%/năm
15


lên 13%/năm nhằm tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay với khách hàng để thúc
đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Lần thứ 2 vào 22/12/2008, lãi suất tín phiếu được điều chỉnh
giảm từ 13%/năm xuống 4,5%/năm để phù hợp với các lãi suất khác do NHNN công bố.

Từ tháng 8/2008, trước tín hiệu khả quan về kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới
lỏng CSTT bằng các biện pháp linh hoạt. NHNN tiếp tục thực hiện các phiên chào mua giấy tờ
có giá kỳ hạn 7 – 14 ngày với khối lượng và lãi suất hợp lí.
2.2.2.2. Dự trữ bắt buộc
Tháng 2/2008 điều chỉnh tăng 1% tỷ lệ DTBB đối với tất cả các kỳ hạn, áp dụng cho cả tiền
gửi VNĐ và ngoại tệ đối với hầu hết các TCTD (trừ NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam, một số TCTD hợp tác và NH TMCP Nông thôn). Đồng thời mở rộng diện phải
DTBB đối với loai tiền gửi kì hạn từ 24 tháng trở lên (trước đây chưa bao gồm tiền gửi không

kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 24 tháng) nhằm nâng cao khả năng cao điều tiết công cụ DTBB.

Những tháng cuối năm, để hỗ trợ các TCTD tăng cường cung ứng vốn cho nền kinh tế, ngăn
chặn suy giảm kinh tế, NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VNĐ từ
11%/năm xuống 10% - 6%/năm và tiền gửi bằng ngoại tệ từ 11% xuống 9% - 7%/năm. Cùng
với việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB, NHNN linh hoạt điều chỉnh lãi suất tiền gửi DTBB từ
1,2%/năm lên 3,6% - 5% - 10%/năm, và điều chỉnh giảm từ 10%/năm xuống 9% - 8,5%/năm.
2.2.2.3. Về công cụ tái cấp vốn và lãi suất
Với thực trạng lạm phát cao, tiền quá nhiều trong lưu thông, NHNN sử dụng CSTT thắt chặt
ở thời gian đầu năm với những động thái quyết liệt để tạo ra lực hút tiền từ lưu thông đồng thời
làm giảm mạnh cấp tín dụng từ NHTM ra thị trường. Sau hơn hai năm giữ mức 8,25%/năm,
LSCB đã được điều chỉnh tăng lên mức 8,75%/năm từ 1/2/2008 và lên mức 12%/năm từ
19/05/2008. Chưa đầy một tháng sau đó, từ 11/06/2008, LSCB đã nhảy lên mức đỉnh 14%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất TCV cũng tăng từ 6,5%/năm lên 7,5% - 13% - 15%/năm, lãi suất chiết
16


khấu từ 4,5%/năm lên 6% - 11% - 13%/năm áp dụng trong khoảng thời gian từ 11/06 –
20/20/2008.

Sau khi thực hiện vai trò kiềm chế lạm phát một cách thành công, NHNN từng bước nới
lỏng CSTT vào giai đoạn cuối năm 2008. LSCB đã hạn dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10),
12% (từ 5/11) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng một tháng cuối năm (11% từ
21/11, 10% từ 5/12, 8,5% từ 22/12). Cùng với lãi suất LSCB, lãi suất TCV cũng được điều chỉnh
giảm từ 15%/năm xuống 14% - 13% - 12% - 11% - 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13% xuống
12% -11% - 10% - 9% - 7,5%/năm.
2.2.2.4. Tỷ giá
Với bối cảnh tỷ giá ngoại tệ diễn biến phức tạp, trong quý 1, có những lúc tỷ giá USD liên
NH xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong NH. Nhưng chỉ
qua quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc lên tới 19.500. NHNN đã điều chỉnh nới lỏng

biên độ dao động từ 1% lên 2% ( từ 26/06) đồng thời triển khai các biện pháp khác như: kiểm
soát chặt các đại lí thu đổi ngoại tệ, công bố dự trữ ngoại hối Việt Nam (điều chưa từng có ở
Việt Nam)… Nhờ đó, tỷ giá đã dịu lại và duy trì ở mức 16.500 cho đến hết quý 3/2008.

Giai đoạn cuối năm 2008, suy thoái kinh tế toàn cầu tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ
của Việt Nam, tâm lí sợ hãi của người dân và các thành phần kinh tế dẫn dến tình trạng nắm giữ
ngoai tệ dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, tỷ giá luôn nóng, phổ biến ở mức 18.000. NHNN
đã điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá lên 3% từ 6/11 đồng thời triển khai một số can thiệp khác.

2.3 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NĂM 2009:
2.3.1 Bối cảnh
Năm 2009 là năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó
lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế, tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế trên toàn cầu.
17


Lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt
mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên
thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ giá.
Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi
sản xuất, làm khởi sắc TTCK, bất động sản và thị trường tín dụng, nhưng cũng gây sức ép tăng
khối lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng tăng trưởng cao và áp lực giảm giá VND.
Trước tình hình đó, Việt Nam đã chuyển sang mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế và giữ
ổn định kinh tế vĩ mô. Với đặc điểm nếu duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ như thì sẽ dẫn đến
suy giảm tăng trưởng, nhưng nếu nới lỏng tiền tệ thì sẽ đi liền với nguy cơ lạm phát.
2.3.2. Những điều chỉnh trong CSTT thông qua các công cụ
Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước đã thực thi CSTT một cách linh
hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.
Từ đầu năm 2009, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận

được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của
Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ
thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường
ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều
chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển
sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu
ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải
pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ
+/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều
tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng
thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên
ngân hàng.
Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ
phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển

18


từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm
soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.
Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như phối hợp với các
bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng
ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các
ngân hàng thương mại và hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm.
Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh
nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các

thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và
huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể
từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất
huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009).
Đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi
suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009. Các biện
pháp trên đã có tác động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị trường, giữ được thị trường ổn
định.
Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi
CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số
liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD,
giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và
nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%.
Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3% xuất khẩu),
nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh
so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng
giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu... do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình
này tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá.
Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5%
GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND.
Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng
trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan
hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh.
Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều
tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực giảm giá
19


VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy
khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục

gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động
bất lợi đến tỷ giá.
Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố
lên 17.980 đồng/usd, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn
+/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá.
Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được
NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.
Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm
1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục
duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt
ổn định thị trường ngoại hối.

2.4 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NĂM 2010
2.4.1 Bối cảnh
Năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng tài chính, tăng trưởng kinh tế 4,8%,
thương mại tăng 11,4%. Theo đánh giá của Chính phủ, kinh tế nước ta tiếp tục đà phục hồi và
tăng trưởng khá. Kinh tế trong nước tăng trưởng cao (6,78%) nhờ động lực đầu tư (vốn đầu tư
toàn xã hội tăng 12,9%), xuất khẩu (25,5%) và tiêu dùng (tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
tăng 24,5%); các cân đối lớn của nền kinh tế và an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo.
Nhà nước đã đặt trọng tâm vào mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, gắn liền với mục tiêu tăng trưởng bền vững, tạo tiền đề
tăng trưởng cho các năm tiếp theo và chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài
chính và kinh tế thế giới, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ
7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu
tăng từ 5%/năm lên 6%/năm áp dụng từ 1/12/2009.
2.4.2. Những điều chỉnh trong CSTT thông qua các công cụ
Ngày 6/1/2010, Ngân hàng Nhà nước đã “bơm” thêm một lượng tiền khá lớn là 15.000 tỷ
đồng qua thị trường mở nhằm hỗ trợ các ngân hàng thương mại cải thiện thanh khoản, nhằm
điều hòa cung - cầu vốn trong hệ thống.

20


Động thái này làm cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã giảm mạnh; các kỳ hạn
ngắn đã rút xuống dưới 12%, kỳ hạn 1 tuần chỉ còn 11%/năm, lãi suất cho vay qua đêm chỉ còn
8,5%/năm. Vì trước đó lãi suất liên ngân hàng là 16-17%/năm, có thời điểm đạt tới 20%/năm.
Và điều này làm dư nợ tín dụng trong những tháng đầu năm tăng rất ít so với năm 2009. Cụ
thể là 01/2010 chỉ tăng 0,26% so với trước đó là tháng 12/2009 tăng 0,72% và tổng mức
phương tiện thanh toán và tổng mức dư nợ tín dụng năm 2010 cũng được Ngân hàng Nhà nước
kiềm chế ở 25% thấp hơn năm 2009 tăng trưởng tín dụng là 37,73%.

Ngày 18/1/2010, NHNN đưa ra quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 7% xuống 4%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12
tháng trở lên giảm từ 3% xuống 2% . Điều chỉnh này đã làm tăng nguồn vốn để cho vay khoảng
500 triệu USD (tương đương với khoảng 9.000 tỷ đồng), giúp giảm chi phí huy động vốn
khoảng 0,1% và tác động ổn định tỷ giá, tạo điều kiện cho các NHTM tăng nguồn cung ngoại tệ
cho thị trường.
Ngày 14/2/2010, NHNN đã tăng tỷ giá liên ngân hàng thêm 3% lên mức 18.544
đồng/USD.Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%.
Ngày 26/2/2010, Thông tư số 07/2010/TT-NHNN được ban hành, chính thức cho phép các
NHTM được áp dụng cơ chế thỏa thuận với khách hàng vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn sản xuất, kinh doanh và đầu tư, giải tỏa được áp lực tâm lý cho các NHTM về lãi suất
cho vay, góp phần khơi thông dòng chảy tín dụng nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
mục tiêu 6,5% năm 2010 và kiềm chế lạm phát ở mức không quá 7%.
21


Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức 8%/năm, kết
hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám sát việc thực hiện các tỷ lệ an toàn
của TCTD, đã điều tiết lãi suất huy động và cho vay giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến

cuối tháng 10, lãi suất huy động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm)
Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn tăng 1%/năm, kết hợp
với điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất huy động VND 14%/năm để
ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất thị trường và giảm cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi
suất huy động VND bình quân 12,44%/năm, cho vay 14,96%/năm, cho vay nông nghiệp nông
thôn, xuất khẩu 12-14%/năm; lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng 9,5-12%/năm).
Điều chỉnh tỷ giá mua- bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52%; thực hiện các biện pháp ổn
định thị trường ngoại tệ, như kết hối ngoại tệ đối với 7 tập đoàn, tổng công ty nhà nước, quy
định trần lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tế bằng USD 1%/năm, bán ngoại tệ cho nhập khẩu
mặt hàng thiết yếu, chỉ đạo các TCTD hạn chế cho vay nhập khẩu mặt hàng không thiết yếu và
không khuyến khích. Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn định trong hơn 9 tháng đầu
năm; từ tháng 10, tỷ giá thị trường tăng phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô.

2.5. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2011-2013:
2.5.1. Bối cảnh kinh tế:
Năm 2011, Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tăng trưởng kinh tế toàn cầu
thấp… đã tác động không thuận đến nền kinh tế Việt Nam. Những hạn chế, yếu kém của nền
kinh tế cùng với những mặt trái của chính sách hỗ trợ tăng trưởng đã làm cho lạm phát tăng cao
ảnh hưởng không nhỏ đến ổn định kinh tế vĩ mô, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (DN) và
tăng trưởng kinh tế.
Sang đến 2012, nền kinh tế hầu như không có dấu hiệu phục hồi, khủng hoảng nợ công, suy
thoái kinh tế của các nền kinh tế đầu tàu khiến cho nền kinh tê Việt Nam gặp nhiều khó khăn Thị
trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua người tiêu dùng giảm. Tỷ
lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa
phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể.
Đến năm 2013, Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở châu Âu chưa hoàn toàn
chấm dứt. Mặc dù có một vài dấu hiệu tích cực cho thấy các hoạt động kinh tế đang phục hồi trở
lại sau suy thoái nhưng triển vọng kinh tế toàn cầu. Những yếu tố không thuận lợi tiếp tục ảnh
hưởng đến kinh tế Việt Nam, cáckhó khăn, bất cập chưa được giải quyết gây áp lực lớn cho sản
xuất kinh doanh: Hàng tồn kho ở mức cao, sức mua yếu, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo

ngại, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể...
22


2.5.2. Những điều chỉnh trong CSTT thông qua các công cụ
2.5.2.1 Nghiệp vụ thị trưởng mở (OMO):
Trong thời gian 2011-2013, NHNN điều hành công cụ Nghiệp vụ Thị trường mở theo Quy
chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành kèm theo Quyết định số 01/2007/QĐ- NHNN và Quyết
định 27/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung QĐ 01/2007/QĐ-NHNN.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua, bán
giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng. Các loại giấy tờ có giá được phép giao dịch thông qua
nghiệp vụ thị trường mở hiện nay là:Tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ
bảo lãnh, trái phiếu địa phương do UBND thành phố Hà nội, UBNN thành phố Hồ Chí Minh
phát hành.
• Năm 2011:

Tháng 5/2011, Ngân hàng Nhà nước đã tăng lãi suất thị trường mở (OMO) từ 13%/năm lên
14%/năm rồi tiếp tục đã tăng lên 15%/năm.
Như vậy, lãi suất trên thị trường mở đã tăng 2% sau hai lần điều chỉnh trong tháng 5 và tăng
8% kể từ tháng 11/2010.
Đen tháng 7, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định giảm lãi suất thị trường mở
(OMO) về mức 14%/năm sau một thời gian duy trì trên mức 15%/năm. Việc NHNN giảm lãi
suất OMO ở một khía cạnh sẽ trợ giúp các NH thương mại hạ nhiệt lãi suất huy động và cho
vay
Tháng 12, NHNN đã bơm ròng khoảng 16.428 tỷ đồng qua thị trường mở. Kỳ hạn giao dịch
bao gồm 7 ngày và 14 ngày. Lãi suất giao dịch tiếp tục được duy trì ở mức 14%/năm.
• Đầu năm 2012:

Tháng 3/2012 NHNN hút ròng gần 15.000 tỷ đồng, trong đó thực hiện qua giao dịch
“outright” (bán đứt) là 14.363 tỷ đồng. Tính chung trong tháng 3, NHNN bơm ra thị trường

28.276 tỷ đồng, hút ròng về 35.189 tỷ
• Đầu năm 2013:

Tông cộng trong 6 tháng, NHNN hút ròng 8.836 tỷ đồng trên thị trường mở (OMO), giảm
mạnh so với lượng hút hơn 60.500 tỷ cùng kỳ năm 2012.
Tính đến 25/6, trạng thái mua kỳ hạn trên OMO âm 21.186 tỷ đồng, trong đó lượng trúng
thầu là 91.847 tỷ và đến hạn thanh toán 1 13.033 tỷ đồng. Trạng thái bán tín phiếu là dương
12.350 tỷ đồng, trong đó trúng thầu 132.491 tỷ đồng và đến hạn thanh toán 144.841 tỷ đồng.

23


2.5.2.2. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND áp dụng theo QĐ 379/QĐ- NHNN ngày
24/2/2009 (áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 3/2009)
Không kỳ hạn và dưới 12 tháng:
• Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNN & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính : 3%
• Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn: 1%
• NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương : 1%
• TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở,

Ngân hàng Chính sách xã hội : 0%
Từ 12 tháng trở lên:


Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính : 1%




Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triên nông thôn : 1 %



NHTMCP nông thôn , ngân hàng hợp tác , Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 1%


TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ
sở, Ngân hàng Chính sách xã hội : 0%

2.5.2.3. Công cụ lãi suất:


Năm 2011:

Các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều hành theo cơ chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn,
“Sàn” là lãi suất chiết khấu, biên độ giao động +/- 2% để điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và
lãi suất thị trường mở được ấn định biến động trong biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn (trần) và lãi
suất chiết khấu (sàn).
Từ tháng 6/2011 : Mối quan hệ giữa các loại lãi suất được điều chỉnh hợp lý hơn thời kỳ
trước đó, theo nguyên tắc:
Lãi suất tái chiết khấu< lãi suất huy động vốn dưới 12 tháng < lãi suất tái cấp vốn.


Năm 2012:
24



Từ tháng 1/2011-4/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định theo xu hướng
giảm dần (14%/năm, 13%/năm, 12%/năm, 11%/năm) và lãi suất cho vay thỏa thuận ở tất cả các
đối tượng và kỳ hạn vay vốn của khách hàng.
Tháng 5/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động (11 %/năm) và “trần” lãi suất cho
vay ngắn hạn theo biên độ (lãi suất cho vay = lãi suất huy động + 3%/năm) với 4 đối tượng cho
vay ưu tiên (nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp phụ trợ),
còn các đối tượng cho vay khác và cho vay trung dài hạn đều lãi suất thỏa thuận.
Tháng 6/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định (9%/ năm) và “trần” lãi
suất cho vay cố định(13%/ năm) với 4 đối tượng sản xuất kinh doanh ưu tiên còn các đối tượng
khác đều cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
Các mức lãi suất điều hành khác cũng giảm mạnh:
-

Lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống còn 7%/năm trong khi lãi suất tái
cấp vốn giảm từ 15%/ năm xuống 9%/năm.

-

Lãi suất cho vay giảm mạnh từ 3-8%/ năm. Lãi suất cao nhất chỉ còn15%/năm

-

Lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh 8-9%/năm so với đầu năm 2012, thị trường
tiền tệ đã có sự cải thiện tích cực hơn nhiều so với năm 2011

• 6 tháng đầu năm 2013:

Lãi suất huy động và cho vay đều ở xu hướng giảm mạnh. Trong 6 tháng đầu năm, NHNN
có 3 lần điều chỉnh giảm lãi suất:
Ngày 26/3, NHNN giảm 1% các lãi suất chủ chốt gồm tái cấp vốn (còn 8%), tái chiết khấu

(6%), cho vay qua đêm trong thanh toán liên ngân hàng (9%), lãi suất cho vay 5 lĩnh vực ưu tiên
(10%/năm). Trần lãi suất huy động giảm từ 8% xuống 7,5%/năm.
Ngày 10/5, NHNN giảm tiếp 1% các lãi suất chủ chốt. Lãi suất tái cấp vốn còn 7%/năm; lãi
suất tái chiết khấu còn 5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng còn 8%/năm. Lãi suất cho vay với các lĩnh vực ưu tiên giảm còn 10%/năm.
Ngày 28/6, NHNN giảm 0,5% trần lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng đến dưới 6 tháng xuống
7%/năm, kỳ hạn 6 tháng trở lên được thả nổi, trần lãi suất kỳ hạn dưới 1 tháng còn 1,2%/năm.
Trần lãi suất USD cũng giảm 0,75% xuống còn 1,25%/năm.
• 6 tháng cuối năm 2013:

TCTD tự ấn định lãi suất tiền gửi VND có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên.
Kết hợp với điều hành linh hoạt cung ứng tiền, mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm 2-5%/năm
(trở về mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006) nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát
25


×