Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.83 KB, 20 trang )

Chủ đề:

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008-2009


Bố cục:

Lời nói đầu………
1.Một số vấn đề về khủng hoảng tài chính………
1.1.Khái niệm khủng hoảng tài chính……………
1.2.Đặc điểm……………………………………….
1.3.Phân loại……………………………………….
2.Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008…….
2.1.Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu……..
2.2.Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008……..

Kết luận……..


LỜI NÓI ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng
tài chính Mỹ từ cuối năm 2007, lan rộng ra các nước Châu Âu và ảnh hưởng sâu
rộng đến nền kinh tế toàn thế giới. Năm 2008 trôi qua với nhiều sự kiện kinh tế
đáng chú ý, tiêu biểu nhất là nền kinh tế thế giới trải qua 3 cú sốc liên tiếp: khủng
hoảng lương thực, khủng hoảng dầu mỏ và nổi bật là cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu. Tình hình phát triển kinh tế của thế giới gặp nhiều khó khăn và thử thách
dưới những diễn biến phức tạp
và những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng. Bước sang năm 2009,
cuộc khủng hoảng tài chính kéo theo suy thoái kinh tế làm cho nền kinh tế các
nước càng trở nên trầm trọng. Vì vậy vấn đề về khủng hoảng tài chính toàn cầu đã


và đang là đề tài thu hút được rất nhiều sự quan tâm, chú ý không chỉ của các
chuyên gia kinh tế mà của mỗi cá nhân trên toàn thế giới bởi chúng ta là những
người đang phải gánh chịu những hậu quả do khủng hoảng tài chính toàn cầu gây
ra.


1.Một số vấn đề về khủng hoảng tài chính
1.1.Khái niệm khủng hoảng tài chính:
Đầu tiên cần làm rõ khái niệm tài chính, tài chính được hiểu theo nghĩa rộng
là tập hợp của các quỹ tiền tệ được gọi là các nguồn tài chính, các mối quan hệ
giữa chúng và quá trình phân phối các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu của
các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường luôn có sự luân chuyển giữa các
luồng vốn tiền tệ của tất cả các chủ thể trong xã hội mà giữa chúng có mối quan hệ
rất chặt chẽ, phụ thuộc và hỗ trợ lẫn nhau tạo nên một hệ thống tài chính
(Kindleberger, CP & Aliber, R 2005)
Từ đó tìm hiểu khái niệm khủng hoảng tài chính. Khủng hoảng và khủng
hoảng tài chính không phải là vấn đề mới trong kinh tế học, mà là một trong những
vấn đề được sự quan tâm rất lớn của các nhà nghiên cứu kinh tế từ trước đến nay.
Các nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa ra rất nhiều lý thuyết khác nhau, cách hiểu và lý
giải khác nhau về khủng hoảng tài chính. Từ đó cũng đưa ra rất nhiều các quan
điểm khác nhau trong việc điều tiết thị trường, nhận biết khủng hoảng và hạn chế
những tác động của nó. Do vậy, hiện nay có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về
khủng hoảng tài chính.
Theo Concise Oxford Dictionary, 2006, Khủng hoảng là thời kỳ cực kỳ khó
khăn hoặc nguy hiểm. Từ gốc Hilap là Krisis. Khủng hoảng tài chính là khủng hoảng
trong lĩnh vực tài chính và thị trường tài chính.
Theo trang web BusinessDictionary.com, khủng hoảng tài chính là tình trạng
cầu tiền vượt quá cung tiền. Tức là tính thanh khoản bị giảm đi nhanh chóng, bởi
tiền bị rút ồ ạt khỏi các ngân hàng (tháo chạy), và buộc các ngân hàng phải bán các
tài sản đầu tư khác để bù đắp khoản thiếu hụt hoặc phá sản, kéo theo suy thoái.

Theo nhà kinh tế học người Mỹ Federic Mishkin thì khủng hoảng tài chính là
sự đổ vỡ thị trường tài chính mà trong đó những sự lựa chọn nghịch và rủi ro đạo


đức trở nên tồi tệ hơn, làm cho thị trường không có khả năng hướng 1 cách hiệu
quả các quỹ đến những người có cơ hội đầu tư hiệu quả nhất.
Tóm lại, khủng hoảng tài chính chính được hiểu là sự thất bại của một hay
một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ bổn phận, nghĩa vụ tài
chính của mình. Hay nói cách khác khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính
(quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn đến sụp đổ quỹ. Khủng hoảng tài chính
xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá so với nguồn cung. Nhu cầu về tiền mặt của người
dân hay các nhà đầu tư nước ngoài đã gây sức ép cho hệ thống ngân hàng và thị
trường tài chính khiến cho hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính có thể sụp
đổ. Trong nền kinh tế hiện tại, sự lan rộng của khủng hoảng tài chính trong một
thời gian dài kéo theo tình trạng suy thoái kinh tế (Laeven, L & Valencia, F 2008).

1.2.Đặc điểm
Khủng hoảng tài chính thường có những biểu hiện cơ bản sau:
Thứ nhất, có hiện tượng khan hiếm tín dụng, cầu về dự trữ quá lớn khiến
cho ngân hàng không thể cùng một lúc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người. Giá
trị tài sản của ngân hàng giảm mạnh dẫn đến mất khả năng trả nợ. Điều này dẫn
đến một số ngân hàng sụp đổ và xuất hiện tình trạng đổ xô đến các ngân hàng, các
“bong bóng” giá tài sản nổ tung, sự sụt giá ban đầu trong các giá trị tài sản buộc
các ngân hàng phải bán tiếp tài sản và làm giá tài sản giảm mạnh hơn nữa. Các
khoản tín dụng hình thành trong thời điểm bùng nổ thì được mang ra bán tháo.
Thứ hai, các ngân hàng đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn.
Thứ ba, toàn bộ bộ máy tài chính – tín dụng quốc gia lâm vào tình trạng tồi
tệ: sự phá vỡ hệ thống thanh toán, tài chính nhà nước; sự phá sản của các định chế
tài chính trung gian; phá giá đồng nội tệ, áp lực lạm phát.
Thứ tư, cán cân thanh toán, cán cân mậu dịch, ngân sách nhà nước bị mất

cân bằng nghiêm trọng.


Thứ năm, vay nợ nước ngoài tăng nhanh và có thể kéo tới suy thoái kinh tế
trầm trọng.
Ngoài những biểu hiện trên khủng hoảng tài chính còn được thể hiện qua
những tác động tiêu cực khác đến nền kinh tế của các nước, gây ra tăng trưởng
kinh tế chậm và có thể kéo theo suy thoái kinh tế ở nhiều nơi. Bên cạnh đó dự báo
quan trọng trước một cuộc khủng hoảng tài chính là khi một nền kinh tế tăng
trưởng quá nóng và có một tỷ giá hối đoái quá yếu hoặc quá mạnh. Điều này được
lý giải là do đẩy sự đầu tư vào thị trường chứng khoán, bất động sản, thu hút đầu
tư nước ngoài, đồng thời lượng tiền được đầu tư vào những nơi sinh lợi cao và đầu
cơ tăng nhanh của các nhà đầu tư.

1.3.Phân loại
Có nhiều cách để phân loại khủng hoảng tài chính, song cơ bản khủng hoảng
tài chính được chia ra làm các loại chính như sau:
Thứ nhất là khủng hoảng ngân hàng. Ngân hàng là trung gian tài chính lớn
nhất và phổ biến nhất hiện nay với chức năng nhận tiền gửi, huy động vốn để cho
vay lại. Các ngân hàng hoạt động cả trong lĩnh vực tín dụng ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn, ngoài ra còn cung cấp các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và buôn bán
ngoại tệ. Vì vậy rủi ro là rất lớn xét cả về mặt số lượng, thời hạn cũng như chủng
loại tiền. Khủng hoảng ngân hàng là hiện tượng xảy ra khi các ngân hàng can thiệp
quá sâu hoặc cho doanh nghiệp vay vốn vào những hoạt động kinh doanh có rủi ro
cao như bất động sản, chứng khoán, vốn tín dụng được đầu tư quá nhiều cho lĩnh
vực nhiều rủi ro dẫn tới tình trạng mất cân đối tài chính kinh tế. Tỉ lệ nợ xấu quá
lớn, những khoản cho vay không trả được tăng nhanh khiến cho hoạt động kinh
doanh tiền tệ bị trì trệ, tất cả hoặc hầu hết nguồn vốn của hệ thống ngân hàng
trong tình trạng kiệt quệ và có thể dẫn tới nguy cơ phá sản. Kèm theo đó có thể là
sự giảm đáng kể giá trị tài sản (như giá trị thực của bất động sản) ngay trước khủng

hoảng, sự tăng nhanh lãi suất thật và sự giảm dần hoặc đảo ngược trong dòng vốn.


Trong một vài trường hợp, khủng hoảng ngân hàng là do hiện tượng đột ngột rút
tiền gửi của những người gửi tiền do mất lòng tin vào khả năng thanh toán của tổ
chức tín dụng và lo lắng cho tài sản của mình gửi ở đó (Laeven, L & Valencia, F
2008). Tại một thởi điểm nhất định, một tổ chức tín dụng thường không giữ nhiều
tiền mặt và không thể ngay lập tức thu hồi các khoản cho vay của mình nên khi
người gửi tiền đổ xô đến rút tiền thì dẫn đến hiện tượng khan hiếm tín dụng, tổ
chức này trở nên mất khả năng thanh toán thực sự và thường phải ngừng giao
dịch, thậm chí có thể phải tuyên bố phá sản. Nhiều tổ chức tín dụng lâm vào tình
trạng như vậy sẽ dẫn tới khủng hoảng cả hệ thống ngân hàng.
Thứ hai là khủng hoảng tiền tệ. Theo nghĩa hẹp, khủng hoảng tài chính gắn
liền với chế độ tỷ giá hối đoái cố định, khi nền kinh tế đi xuống hoặc vấp phải
những làn sóng đầu cơ cực mạnh sẽ phải điều chỉnh ở trong nước chuyển sang chế
độ tỷ giá hối đoái thả nổi. Mức độ tỷ giá thả nổi mà thị tường qui định thường cao
hơn so với tỷ giá cố định mà chính phủ cố gắng duy trì rất nhiều. Mức biên độ tỷ
giá hối đoái này thường rất khó kiểm soát, hiện tượng này chính là khủng hoảng
tiền tệ. Theo nghĩa rộng, khủng hoảng tiền tệ chính là hiện tượng mà khi đó mức
độ biến động của tỷ giá hối đoái vượt quá phạm vi một quốc gia có thể gánh chịu.
Khủng hoảng tiền tệ còn có thể hiểu đơn giản là hiện tượng giá trị đối ngoại của
nội tệ bị suy giảm một cách nghiêm trọng và nhanh chóng. Chính phủ gặp rất nhiều
khó khăn để kiểm soát tỷ giá hối đoái và khi Ngân hàng Trung ương (NHTW) cố
gắng can thiệp tỷ giá để bảo vệ giá trị đồng nội tệ thì dự trữ ngoại hối của quốc gia
bị sụt giảm nhanh chóng trên một quy mô lớn (Burnside, C et al. 2008).
Thứ ba là khủng hoảng nợ. Khủng hoảng nợ là trường hợp quốc gia vay nợ
nước ngoài quá nhiều và sự dụng không hiệu quả nên không trả được nợ đúng
hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xóa nợ hoặc tuyên bố vỡ nợ.
Khủng hoảng nợ thường xảy ra ở một số nước đang phát triển. Có rất nhiều chỉ
tiêu đánh giá khả năng thanh toán của một quốc gia trong đó chỉ tiêu quan trọng



nhất là chỉ tiêu tỷ lệ thanh toán nợ nước ngoài. Chỉ tiêu này thường nằm dưới 20%,
nếu vượt quá 20% thì chứng tỏ lượng vốn vay nước ngoài của một quốc gia là rất
lớn và dễ dẫn đến việc không thể trả được nợ và lâm vào khủng hoảng nợ.
Thứ tư là khủng hoảng thị trường tài chính. Khủng hoảng thị trường tài
chính là sự rối loạn nặng nề trên thị trường tài chính vốn, có thể dẫn đễn sự sụp đổ
nghiêm trọng một cách đột biến do sự suy giảm khả năng thực hiện có hiệu quả
chức năng của thị trường. Nó có thể có những ảnh hưởng bất lợi trên diện rộng
cho nền kinh tế thật như: ồ ạt rút tiền gửi từ các Ngân hàng Thương mại (NHTM),
thu hẹp đáng kể quy mô tín dụng, tăng số vụ phá sản. Giá chứng khoán biến động
mạnh (tuột dốc hay leo thang quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát hay do hiệu ứng
“domino” làm cho chứng khoán bị bán đổ bán tháo, thu hẹp phát hành. Khủng
hoảng tài chính xảy ra khi thị trường bị “đông cứng” vì không có giao dịch, gây ra
sự mất cân đối giữa tiền (chứng khoán) vào và ra Thị Trường Chứng Khoán (TTCK)
(quỹ). Một cuộc khủng hoảng thị trường tài chính có thể liên quan đến một cuộc
khủng hoảng tiền tệ, nhưng một cuộc khủng hoảng tiền tệ thì không cần thiết dẫn
đến sự sụp đổ một cách trầm trọng hệ thống thanh toán trong thị trường nội địa
và như vậy nó không lớn bằng một cuộc khủng hoảng thị trường tài chính. Khủng
hoảng thị trường tài chính không nhất thiết đi đôi với khủng hoảng hệ thống tài
chính – tín dụng quốc gia. Tình trạng trở nên đặc biệt nghiêm trọng khi cả hai dạng
khủng hoảng xảy ra cùng một lúc và chuyển thành khủng hoảng niềm tin vào chính
quyền.

2.Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008
2.1.Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
Cuộc khủng hoảng tài chính này đầu tiên xảy ra tại Mỹ - một nước có nền
kinh tế chiếm tới 25% GDP toàn cầu và có một tỷ lệ lớn trong các giao dịch quốc tế.
Sau đó cuộc khủng hoảng lan sang các nước công nghiệp Tây Âu – những trung tâm
tài chính lớn của thế giới và nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới



Các nhà nghiên cứu cho rằng nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng Mỹ
là chính sách phi điều tiết các hoạt động đầu tư của ngành ngân hàng và chính sách
lãi suất quá thấp trong một thời gian quá lâu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED).
Và các công cụ tài chính trực tiếp gây ra thảm họa này là các món nợ có thế chấp
bất động sản dưới chuẩn, các công cụ tài chính phái sinh, ví dụ như Khoản vay thế
chấp hay còn gọi là Chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - MortgageBacked Security) hoặc Tín phiếu trao đổi các món nợ xấu (CDS - Credit Default
Swap). Bên cạnh đó, sự suy sụp của thị trường bất động sản và “vỡ nợ” tín dụng,
hàng loạt các ngân hàng thua lỗ cũng được xem là những nguyên nhân trực tiếp và
cơ bản gây ra cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
Trước hết là những hậu quả từ sự suy sụp của thị trường bất động sản tại
Mỹ . Ở Mỹ, theo luật có điều khoản khi một cá nhân hay công ty muốn mua một
bất động sản, thì họ phải trả ngay một số tiền trị giá khoảng 10% - 25% trị giá nhà.
Phần còn lại NHTM có thể cho vay, với điều kiện căn nhà đó được thế chấp để bảo
lãnh khoản tiền nợ (Mortgage) và khách hàng có thể trả dài hạn, khoảng từ 10 đến
25 năm. Như vậy, người mua không cần có nhiều tiền mà vẫn mua được nhà,
nhưng họ phải có việc làm và thu nhập ổn định để trả lãi hàng tháng cho ngân
hàng. Nếu vì lý do nào đó, người mua không có tiền trả lãi, ngân hàng có thể tịch
thu căn nhà đó và bán cho người khác. Phần tiền 80% trị giá căn nhà sẽ được chủ
nợ mang đi bảo hiểm với một tổ chức tài chính lớn (ví dụ công ty AIG của Mỹ). Như
thế, nếu bán căn nhà bị lỗ, ngân hàng chủ nợ sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường
phần bị lỗ. Nếu áp dụng đúng luật như vậy thì các ngân hàng chủ nợ cho vay đều
được an toàn, vì tỷ lệ nợ khó đòi trong ngành bất động sản bình thường tương đối
thấp, chỉ vào khoảng 1% - 2%.
Nhưng tại Mỹ, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ,
FED đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho
vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của FED là trên



6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì
chỉ còn 1%. Bên cạnh đó, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của
chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm
dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực
hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie
Mac. Hai công ty này giúp đầu tư vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua
lại các khoản cho vay của các NHTM, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo
đảm bằng MBS, rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Wall Street, đặc biệt là các ngân
hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Mặt khác, vì có sự chuyển đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư
nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là thị
trường duy nhất của các NHTM hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động
sản nữa. Nó đã trở thành một thị trường đầu tư mới cho các nhà đầu tư, có khả
năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc. Điểm đặc
biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp
cho nên nó diễn ra gần như ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ. Bởi
vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ
biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay
để các công ty khác biến chúng thành MBS, các NHTM đã trở nên mạo hiểm hơn
trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay.
Như vậy, lãi suất thấp, các chính sách của chính phủ, sự mạo hiểm của các
ngân hàng giúp người dân mua địa ốc dễ dàng, các công ty và tư nhân đều có thể
mượn tiền dễ dàng để đầu tư hoặc mua bất động sản. Hậu quả là đẩy giá nhà lên,
giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 (năm bắt đầu
cắt giảm mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là
giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá
trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân


hàng mà vẫn có lời. Khi đó, các ngân hàng cạnh tranh nhau và tìm mọi cách ưu đãi

khách hàng. Thậm chí nhiều ngân hàng không yêu cầu người mua phải trả khoản
tiền mặt 20% trị giá ngôi nhà. Đây là tình trạng rủi ro rất cao cho các ngân hàng chủ
nợ. Các khoản vay này được gọi là dưới chuẩn (subprime), vì người vay nợ không
đủ tiêu chuẩn để đi vay. Do đó một bong bóng đã hình thành trong thị trường bất
động sản.
Sau đó, do lo lắng về diễn biến lạm phát, FED bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn
đến việc thị trường bất động sản bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006. Trong khi
vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản của FED chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đã
tăng lên đến 5,25%. Điều này bắt buộc các NHTM phải đẩy lãi suất cho vay tiền
mua nhà lên cao hơn nhiều nữa. Tình hình lãi suất cao đã khiến cường độ vay để
mua nhà giảm xuống. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vì cung vượt cầu. Nhiều người
mua nhà giá cao trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của căn nhà đang sở hữu
thấp hơn khoản nợ mà mình đang vay. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong nhóm
vay tiền với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị
điều chỉnh trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả nợ
cũng không được vì giá nhà thấp hơn khoản nợ do thị trường tụt dốc. Hệ quả là họ
đành bỏ nhà cho ngân hàng trưng thu lại. Trên 12 triệu căn nhà bị các ngân hàng
chủ nợ tịch thu và không bán được.
Mặt khác, việc ngày càng nhiều người không có khả năng trả nợ ngân hàng
mỗi tháng dẫn đến việc trị giá của các MBS bị tụt dốc. Như đã nói lúc đầu, có rất
nhiều nhà đầu tư ở Wall Street đã mua MBS. Do đó, khi MBS mất giá thì đồng
nghĩa với việc tài sản của họ cũng bị mất theo, dẫn đến việc thiếu hụt vốn. Bên
cạnh đó, các công ty bảo hiểm MBS, chẳng hạn như AIG, cũng lâm vào cảnh khốn
đốn khi phải đứng ra bảo lãnh ngày càng nhiều các khoản vay xấu. Ngoài ra, các
NHTM hoặc các công ty cho vay thế chấp còn giữ lại phần lớn các khoản vay cho
mình (thay vì bán lại cho Fannie Mae chẳng hạn) cũng nhìn dòng vốn và tín dụng


của mình bị cạn kiệt khi phải đương đầu với tỷ lệ mất khả năng trả nợ ngày càng
cao của người vay thuộc nhóm dưới chuẩn. Khoản tiền cho vay dành cho nhóm này

đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỷ USD ở năm 2001 lên 540
tỷ vào năm 2004 và trên 1.300 tỷ vào năm 2007 (Trần Văn Thọ & Trần Lê Anh 2008).
Tóm lại, bởi vì có nhiều mối liên hệ phức tạp giữa người vay và nhiều thành
phần cho vay trực tiếp cũng như gián tiếp, thị trường bất động sản đi xuống đã ảnh
hưởng trực tiếp đến thị trường tài chính nói chung. Mức độ lan tỏa và nghiêm
trọng của vấn đề là do sự mua đi bán lại các công cụ tài chính phái sinh (các MBS và
CDS). Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi các nhà đầu tư bắt đầu bán
tháo các công cụ đầu tư mạo hiểm để tìm cách bảo tồn vốn. Đồng thời các nhà đầu
tư có tiền gửi ngân hàng bị hoảng loạn và đều đến rút tiền ở ngân hàng ra. Các tổ
chức tài chính lớn cũng phải chi các khoản bảo hiểm bất động sản và bị thiếu tiền
mặt, có thể cũng phải tuyên bố phá sản.
Bên cạnh đó vấn đề “vỡ nợ” tín dụng bất động sản và hàng loạt các ngân
hàng thua lỗ tại Mỹ cũng được xem là một nguyên nhân cơ bản khác của cuộc
khủng hoảng tài chính Mỹ. Hàng loạt vụ đổ vỡ xảy ta trong ngành tài chính – ngân
hàng Mỹ.
Trước hết phải kể đến sự sụp đổ của mô hình ngân hàng đầu tư độc lập
(investment bank) của Wall Street. Cả 5 ngân hàng độc lập của con phố tài chính
này đều trải qua những bước ngoặt quan trọng trong năm 2008: Lehman Brothers
phá sản, Bear Sterrns và Merill Lynch bị thâu tóm, Morgan Stanley và Goldman
Sachs phải chuyển đổi sang mô hình ngân hàng tổng hợp (bank holding company).
Tính đến ngày 15/12/2008, số NHTM của Mỹ phải đóng cửa đã lên tới con số 25, so
với con số 3 ngân hàng bị ngưng hoạt động trong cả năm 2007. Trong số này, phải
kể những tên tuổi lớn như Washington Mutual, Wachonia, IndyMac.


Như vậy cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ bắt đầu từ năm 2007 với đỉnh điểm
là sự sụp đổ của các ngân hàng đầu tư khổng lồ và những công ty bảo hiểm lớn
nhất nước Mỹ vào tháng 9/2008. Các công ty này có trụ sở tọa lạc ở khu Wall
Street. Sau hàng trăm năm hiện hữu với tư cách là trung tâm tài chính của nước
Mỹ và của cả thế giới, khu Wall Street đã hoàn toàn sụp đổ trong một tuần lễ, kể từ

ngày 15/9/2008, với sự phá sản của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers. Tiếp đến
là phản ứng dây chuyền gây nên sự sụp đổ hàng loạt các ngân hàng, quĩ tín dụng,
không chỉ ở Mỹ mà lan ra toàn cầu, sang cả các thị trường chứng khoán, rồi tới mọi
ngành sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thực của các quốc gia, làm suy giảm
thương mại, đầu tư, gia tăng đói nghèo và thất nghiệp trên toàn thế giới. Vì vậy có
thể nói cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là nguyên nhân cơ bản của cuộc đại khủng
hoảng toàn cầu 2008.

2.2.Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ bắt đầu từ năm 2007 và ngày càng trầm
trọng hơn kéo theo sự sụp đổ đối với thị trường tài chính, hệ thống tài chính ngân
hàng Mỹ đồng loạt đổ vỡ, ngành dịch vụ sản xuất bắt đầu chững lại và đi xuống.
Kinh tế Mỹ lâm vào suy thoái với tốc độ nhanh khoảng -0,3% trong quý III/2008.
Mức chi tiêu của người tiêu dùng – vốn đóng góp tới 2/3 vào sự tăng trưởng Mỹ
suy giảm mạnh nhất kể từ năm 1980. Tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh, thâm hụt ngân
sách liên bang trong năm tài khóa 2008 tăng mạnh tới mức kỷ lục 454,8 tỷ USD, cao
gấp 3 lần mức thâm hụt 161,5 tỷ USD trong năm tài khóa 2007. Sau đó, cuộc khủng
hoảng tài chính ở Mỹ đã nhanh chóng lan rộng ra các nền kinh tế khác, trở thành
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến suy thoái kinh tế trên toàn thế giới.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu được đánh giá là trầm trọng nhất
trong vòng 75 năm qua. Cuộc khủng hoảng đã đánh dấu sự phá sản của học thuyết
kinh tế thị trường tự do của Mỹ. Nó đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ, lâu dài tới
tình hình kinh tế chính trị của thế giới.


Đầu tiên, được bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra hết sức tàn
khốc ở Mỹ, cuộc đại khủng hoảng 2008 bắt đầu phát triển và lan rộng ra các nước
công nghiệp Châu Âu, làm nhiều công ty phải phá sản. Những nạn nhân đáng kể
đầu tiên "dính trấu" đều liên quan trực tiếp tới hoạt động cho vay dưới chuẩn như
Northern Rock và Countrywide Financial vào hai tháng 8 và 9/2007. Northern Rock,

ngân hàng lớn thứ năm tại Anh, vào tháng 9/2007, sau khi mất thanh khoản
nghiêm trọng do thua lỗ từ cho vay thế chấp bất động sản, đã phải cầu cứu NHTW
Anh. Nhà đầu tư ùn ùn kéo đến rút tiền khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập
đoàn ngân hàng này. Trước đó, Country Financial, tập đoàn tài chính chuyên cho
vay thế chấp địa ốc của Mỹ cũng bị phá sản do nợ khó đòi vào tháng 8/2007. Đến
tháng 1/2008, ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank of
America, đã mua lại Country Financial với giá 4 tỷ USD. Tiếp đến, vào ngày
17/2/2008, Nothern Rock chính thức bị quốc hữu hóa. Sự kiện Nothern Rock và
Country Financial là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính
toàn cầu cũng như làn sóng sáp nhập, phá sản, và bị Chính phủ tiếp quản của các
định chế tài chính.
Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai nhà cho vay
cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được Chính phủ
tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ đổ
vỡ với những tên tuổi lớn khác. Vào ngày 15/9/2008, Ngân hàng Đầu tư lớn thứ 4
nước Mỹ Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày
sau, Washington Mutual tạo nên vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với
tổng tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ USD. Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, ngân
hàng đầu tư số một nước Mỹ, Merill Lynch cũng bị thâu tóm bởi Bank of America.
Chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ USD vào AIG, tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế
giới, để tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ hơn. Tháng 9 và
10/2008 cũng trở thành giai đoạn đen tối với Wall Street khi chỉ số Dow Jones sụt
tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Kể từ sau giai đoạn này,


biến động tại Wall Street trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm
tồn tại trong hàng chục năm đã bị phá.
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 cũng chứng kiến các
cơn sốt dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc
biệt là giá dầu, từ mức 90 USD một thùng vào đầu năm đã leo lên trên 100 USD vào

20/2 và lập kỷ lục trên 147 USD một thùng vào 11/7. Dầu leo thang kéo giá hàng
hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục trên 1.000 USD một
ounce vào 17/3. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại nhiều
nơi, thậm chí cả các quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát từ đó cũng xảy ra
tràn lan tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008, giá dầu
bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân cho hiện tượng trên là nhu cầu sử
dụng dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó
khăn kinh tế. Giá loại nhiên liệu này chỉ còn khoảng 40 USD một thùng, mất hơn
100 USD, tương ứng gần 70%, so với giá trị ban đầu, bất chấp những nỗ lực cắt
giảm sản lượng của OPEC.
Tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến NHTW
Mỹ, Anh, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất hàng loạt để khơi
thông dòng vốn. Mỹ kể từ đầu năm 2008 đã 8 lần cắt giảm lãi suất, từ đó lãi suất
cơ bản từ 5% đã xuống chỉ còn 0,25%. Không dừng lại ở các điều chỉnh tài khóa, các
quốc gia trên cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các tập đoàn
tài chính, cũng như kích thích hoạt động tiêu dùng và cho vay. Trong đó, FED quyết
định dùng 700 tỷ USD để mua lại nợ xấu của các Ngân hàng. Trước khi được thông
qua vào ngày 1/10/2008, kế hoạch hỗ trợ lớn chưa từng có trong lịch sử đã vấp
phải không ít phản đối tại Quốc hội Mỹ. Đặc biệt tại vòng bỏ phiếu vào ngày 29/9,
Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch trên tạo ra một cú sốc thực sự với Wall
Street, khiến chỉ số Dow Jones trải qua ngày giảm điểm tồi tệ nhất trong lịch sử.
Không lâu sau khi kế hoạch trên được thông qua, vào ngày 13-14/10, các quốc gia


Châu Âu đã công bố gói giải pháp hỗ trợ kinh tế khổng lồ có trị giá lên tới 2.300 tỷ
USD.
Bước vào quý IV, cuộc khủng hoảng kinh tế được đẩy lên một nấc thang mới
khi nền tài chính và kinh tế của nhiều quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng. Iceland là
nước đầu tiên có nguy cơ phá sản trên quy mô quốc gia. Cơn bão khủng hoảng tài
chính do cho vay bất động sản dưới chuẩn tràn lan đã nhấn chìm hệ thống ngân

hàng của quốc gia từng có thu nhập đầu người cao nhất thế giới. Chính phủ Iceland
đã phải đóng cửa thị trường chứng khoán, và quốc hữu hóa những ngân hàng hàng
đầu. Từ đó, đồng nội tệ krona của nước này mất giá trầm trọng và gần như bị xóa
sổ. Tại châu Á, kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng won mất giá hơn 40%
kể từ đầu năm và ở mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997.
Chính phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi
suất và bơm tiền vào hệ thống tài chính. Trước tình hình trên, Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) đã phải can thiệp bằng cách bơm tiền vào Iceland, Hungary, và Ukraine để
ngăn chặn những kết cục tồi tệ hơn có thể xảy ra. Nhiều nền kinh tế lớn, bắt đầu từ
Nhật và EU tuyên bố rơi vào suy thoái. Mỹ, lần đầu tiên sau 8 năm, chính thức thừa
nhận đã lâm vào tình trạng trên từ tháng 12/2007. Điều tương tự cũng xảy ra với
Nga, cường quốc kinh tế lớn thứ 4 thế giới. Giá dầu sụt giảm mạnh cùng với đó là
nhu cầu xây dựng đi xuống ảnh hưởng nghiêm trọng tới hai mặt hàng xuất khẩu
chiến lược của Nga là dầu mỏ và kim loại, góp phần khiến quốc gia này rơi vào suy
thoái. Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút
trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân.
Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp
tại nhiều quốc gia tăng cao, chi tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống
mức thấp nhất trong nhiều năm. Trong ba tháng, tính tới cuối tháng 9/2008, đã có
hơn 30.000 doanh nghiệp Mỹ phá sản. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp tại quốc gia này
tính tới 6/12/2008 đã lên tới 6,7%, mức cao nhất trong vòng 15 năm qua. Ngoài ra,


một số kỷ lục buồn tồn tại hàng chục năm về số người mới thất nghiệp theo tuần
và tháng cũng đã bị phá trong quý IV/2008.
Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu ba nhà sản
xuất xe hơi hàng đầu là Ford, General Motors (GM), và Chrysler phá sản. Kể từ đầu
năm đến nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ đã bị khủng hoảng tài chính "quật"
cho tơi tả. Với việc doanh số bán xe trong tháng 10/2008 của Mỹ tụt xuống mức
thấp nhất trong vòng 25 năm qua, và dự đoán sẽ tồi hơn do khủng hoảng tài chính,

ba đại gia trên đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, mà trước mắt là cạn kiệt
tiền mặt. Chrysler từ ngày 18/12/2008 đã ngừng hoàn toàn hoạt động sản xuất tại
khu vực Bắc Mỹ. Chính phủ Mỹ đang cân nhắc kế hoạch cho GM và Chrysler, hai tập
đoàn nguy ngập nhất, "vay nóng" 14 tỷ USD, được trích từ nguồn hỗ trợ 700 tỷ USD
dành cho việc mua nợ xấu nhà băng. Tuy nhiên, khoản tiền trên có lẽ chỉ như một
liều thuốc tạm thời, đủ để hai hãng "sống sót" đến hết quý I/2009. Các kế hoạch
dài hơi hơn nhằm giải quyết khó khăn của ngành công nghiệp xe hơi khi đó sẽ
được chuyển giao cho Chính phủ mới của Tổng thống Barack Obama. Theo ước
tính của các nhà kinh tế, nếu các công ty được coi là biểu tượng của nền công
nghiệp xe hơi Mỹ phá sản, sẽ có thêm khoảng 2,5 triệu lao động mất việc làm. Tỷ lệ
thất nghiệp tại Mỹ từ đó cũng sẽ leo thang với tốc độ chóng mặt.
Lãnh đạo kinh tế Mỹ và Châu Âu chưa hết khốn đốn vì khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế, Mỹ và EU lại một lần nữa rung chuyển khi vào giữa
tháng 12/2008 vụ lừa đảo lớn chưa từng có do Benard Madoff thực hiện bị phanh
phui. Lợi dụng ảnh hưởng và uy tín của Madoff tại Wall Street, quỹ đầu tư của
Madoff, hoạt động theo mô hình Ponzi, đã thu hút được hơn 50 tỷ USD từ các nhà
đầu tư, trong đó có nhiều ngân hàng lớn tại Châu Âu. Nhiều khách hàng của
Madoff đang đối mặt với nguy cơ mất trắng tiền đầu tư. Vụ scandal trên hiện vẫn
chưa có hồi kết với những câu hỏi lớn xoay quanh vai trò của hệ thống giám sát tài
chính Mỹ cũng như sự dính líu của quan chức tại Washington tới Madoff.


Bước sang năm 2009, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tiếp tục tác động
tiêu cực đến nền kinh tế các nước trên toàn thế giới. Tăng trưởng kinh tế giảm, sản
xuất công nghiệp sụt giảm mạnh trong những tháng đầu năm 2009. Tiêu biểu là
ngành công nghiệp ô tô của Mỹ. Có thể nói, năm 2009 là một năm gian khó nhất
đối với ngành công nghiệp ô tô Mỹ. Chrysler và General Motors, hai trong số ba đại
gia của ngành xe hơi đều lần lượt đệ đơn xin bảo hộ phá sản, dựa vào khoản cứu
trợ từ Chính phủ để bước ra khỏi trình tự phá sản, hoàn thành việc tái cơ cấu nợ.
Trong khi đó, hãng xe Ford dù chưa phải nộp đơn bảo hộ phá sản, nhưng trong

cuộc cạnh tranh toàn cầu hoá cũng bước đi rất gian nan. Để giải cứu ngành công
nghiệp ô tô, Tổng thống Obama đã phải nhanh chóng thành lập tổ công tác đặc biệt
của ngành công nghiệp ô tô, đồng thời cung cấp khoản vay cứu trợ trị giá 50 tỷ USD
cho GM và Chrysler. Không chỉ tiếp nhận 9,85% cổ phần của Chrysler, 60,8% cổ
phần của GM và 2,1 tỷ USD cổ phần ưu đãi, Chính phủ còn nhận khoản nợ trị giá
13,8 tỷ USD của hai công ty này. Bên cạnh đó, ngành ngân hàng Mỹ tiếp tục gặp
khó khăn khi số ngân hàng bị giải thể từ tháng 1 đến tháng 12/2009 đã lên tới con
số 140. Đây là con số kỷ lục về số vụ giải thể ngân hàng tại Mỹ kể từ năm 1992.
Năm ngoái, chỉ có 25 ngân hàng Mỹ đổ vỡ. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang
Mỹ cho hay, cơ quan này đã phải chi 30 tỷ USD để giải quyết các vụ đóng cửa ngân
hàng trong năm nay và dự kiến sẽ phải chi thêm khoảng 100 tỷ USD cho công tác
này trong bốn năm tới. Mặt khác, đồng đô la Mỹ USD - đơn vị tiền tệ thuộc loại
mạnh nhất trên thế giới đã trải qua một năm tuột dốc không phanh. Cuộc khủng
hoảng tài chính bùng nổ khiến chỉ số ngoại tệ này không ngừng rơi xuống mốc thấp
nhất trong lịch sử. Trong bối cảnh giá dầu mỏ, vàng, hàng hoá tăng mạnh, tỷ giá
đồng USD/EUR, tỷ giá USD/GBP, tỷ giá USD/AUD đều trượt giảm.
Bên cạnh Mỹ, nền kinh tế Nhật Bản cũng bị suy giảm mạnh. Theo các số liệu
được công bố hôm 9/12/2009 từ Văn phòng nội các Nhật Bản, trong quý III/2009,
GDP của Nhật giảm 0,3% so với quý II/2009. Văn phòng Nội các Nhật Bản cho hay,
nguyên nhân chủ yếu khiến cho kinh tế Nhật Bản giảm trong quý III/2009 là nhu


cầu của thị trường nội địa có những thay đổi lớn, mức tăng trưởng bị điều chỉnh
giảm thành âm, những đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của thị trường nội địa từ
0,8% cũng chỉ còn 0,1%.
Vấn đề thất nghiệp trở nên đáng báo động trên toàn cầu. Tỷ lệ người thất
nghiệp ngày càng tăng. Có thể nói 2009 là một trong những năm đen tối nhất đối
với người lao động. Theo thống kê của Văn phòng lao động quốc tế (ILO), so với
năm 2007, tức thời kỳ tiền khủng hoảng, trận động đất tài chính và kinh tế lần này
cướp mất công việc làm của từ 40 – 60 triệu người trong năm 2009; đẩy khoảng

200 triệu người lao động vào cảnh khốn cùng với thu nhập chưa đầy hai USD một
ngày. Tầng lớp bị tác động nhiều nhất là thanh niên và phụ nữ. Số thanh niên dưới
26 tuổi không có việc làm nhảy vọt từ 12% lên thành 15% trong một năm vừa qua.
Bên cạnh đó, nợ quốc gia trở thành một trong những tác động nặng nề nhất
của cuộc đại khủng hoảng này tới nền kinh tế thế giới trong năm 2009. Sau những
gói kích thích kinh tế, nhiều quốc gia sẽ phải coi việc trả nợ là nhiệm vụ trọng tâm
trong kế hoạch tài khóa năm nay. Trong suốt năm 2009, nhiều tổ chức nghiên cứu
kinh tế đã cảnh báo về tình trạng nợ của các chính phủ sau khi chi rất nhiều tiền
cho các biện pháp kích thích kinh tế. Tình trạng này đặc biệt phổ biến tại châu Âu
khi thâm hụt ngân sách ở hầu hết các quốc gia đều vượt quá 3%. Tạp chí
BusinessWeek vừa đưa ra danh sách những nước có tỷ lệ nợ so với GDP dự kiến ở
mức nguy hiểm trong năm 2010, trong đó có cả những nền kinh tế hàng đầu thế
giới như Mỹ, Nhật Bản, Iceland, Hy Lạp. Nổi bật nhất là cú sốc Dubai. Thị trường
thế giới ngày 23/11/2009 đón nhận một thông tin gây sốc khi Dubai World, một
doanh nghiệp Nhà nước hàng đầu xin khất nợ, khiến thị trường tài chính toàn cầu
được phen chao đảo. Vụ “nhà giàu khất nợ” bắt đầu khi Chính phủ Dubai tuyên bố,
Dubai World có kế hoạch xin hoãn trả khoản nợ lên tới 59 tỷ USD, hơn 2/3 trong
tổng số nợ 80 tỷ USD của Chính phủ nước này. Tuyên bố về kế hoạch xin khất nợ
của Dubai đã nhanh chóng tác động tiêu cực tới thị trường chứng khoán các nước


và niềm tin của giới đầu tư đối với nợ Chính phủ. Không chỉ khiến chứng khoán thế
giới “đỏ sàn”, yêu cầu hoãn thanh toán nợ này của Dubai còn kéo giá dầu và vàng
cùng sụt giảm.
Đến cuối năm 2009, có những dấu hiệu tích cực cho thấy nền kinh tế toàn
cầu bước đầu đã cho thấy những bước hồi phục nhất định, trong đó các quốc gia
Châu Á đóng vai trò là đầu tàu trong quá trình vực dậy nền kinh tế khu vực. Kinh tế
các nước bắt đầu tăng trưởng trở lại, sản xuất bắt đầu được phục hồi.
Sang năm 2010, nền kinh tế thế giới tiếp tục có những dấu hiệu khả quan
hơn. Triển vọng phục hồi của nền kinh tế Mỹ cũng lớn dần. Tổng sản phẩm công

nghiệp cũng như các đơn đặt hàng mới ở các nước EU cũng gia tăng. Các quốc gia
Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore cũng có những bước hồi phục đáng
kể. Tuy nhiên vấn đề về tỷ lệ thất nghiệp cao và vấn đề về các khoản nợ khổng lồ
của các quốc gia vẫn đang là những khó khăn lớn cho nền kinh tế thế giới.

KẾT LUẬN
Từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế thế giới phải đương đầu với hàng loạt
cuộc khủng hoảng, mà đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã
được phân tích ở phần trên. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu này được xem là
cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ Đại khủng hoảng 1929 tới nay đã đẩy
đồng loạt cả 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Nhật Bản và Liên minh Châu Âu
vào suy thoái. Mặc dù các chuyên gia kinh tế đã dự đoán trước tình hình nhưng
vẫn bị bất ngờ bởi sức công phá hết sức tinh vi của nó đến thị trường tài chính
cũng như những vấn đề khác của nền kinh tế



×