VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ KIM QUYÊN
QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số
: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.BÙI NGUYÊN KHÁNH
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích
dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
TÊN TÁC GIẢ
NGUYỄN THỊ KIM QUYÊN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... ..01
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT ......................................... 05
1.1. Khái quát về quản trị công ty……… ................................................................... …..05
1.2. Quản trị công ty niêm yết tại Việt Nam ..................................................................... 17
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............. 29
2.1 Thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về quản trị công ty niêm yết tại Việt
Nam… ............................................................................................................................ ...29
2.2 Thực tiễn thực thi các quy định pháp luật về quản trị CTNY ở Việt Nam hiện nay.. .56
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM… ............................................ ….66
3.1 Phương hướng và yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về quản trị CTNY ............. 66
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị CTNY…… .............................................. 67
KẾT LUẬN.. ................................................................................................................... .72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... .75
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BCTC
Báo cáo tài chính
BGĐ
Ban giám đốc
BKS
Ban kiểm soát
CTNY
Công ty niêm yết
ĐHĐCĐ
Đại hội đồng cổ đông
DN
Doanh nghiệp
GĐ
Giám đốc
HĐQT
Hội đồng quản trị
HNX
Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội
HSX
Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
IFC
Công ty tài chính quốc tế
LNST
Lợi nhuận sau thuế
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
QTCT
Quản trị công ty
TGĐ
Tổng giám đốc
TT
Thông tư
TTCK
Thị trường chứng khoán
UBCKNN
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
VCSH
Vốn chủ sở hữu
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng 1.1 : Bảng điều kiện niêm yết chứng khoán .................................................... 27
Sơ đồ 2.1: Mô hình quản trị CTCP có Ban kiểm soát ở Việt Nam........................... 30
Sơ đồ 2.2 : Mô hình quản trị CTCP không có Ban kiểm soát ở Việt Nam............... 32
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới kinh tế (1986 đến nay), hệ thống doanh nghiệp Việt
Nam đã và đang hình thành và càng ngày càng phát triển; đông đảo về số lượng, đa
dạng về loại hình và quy mô ngày càng lớn. Do môi trường kinh doanh và xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp tồn tại dưới hình thức công ty ngày càng trở
nên phổ biến. Công ty nói chung và công ty đại chúng niêm yết nói riêng đã và đang
khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường và trở thành một nhân tố
cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội ở nước ta.
Theo số liệu thống kê, trong hơn 16 năm hoạt động của thị trường chứng khoán
Việt Nam (tháng 07/2000 đến nay), đã có khoảng 2088 công ty cổ phần đăng ký là
công ty đại chúng với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, trong đó có 799 công ty đã
được niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán gồm Sở giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE hay HSX) là 365 công ty và Trung tâm Giao dịch
chứng khoán Hà Nội (HASTC hay HNX) là 434 công ty [7]. Để đạt được kết quả này,
Nhà nước đã không ngừng chủ trương đổi mới phát triển kinh tế nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường và thể chế hoá một cách hợp lý chủ trương đó thành hệ thống pháp
luật về doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014, Luật Chứng
khoán 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật này. Trong đó, Luật doanh
nghiệp năm 2014 và Luật Chứng khoán 2013 là các văn bản pháp lý quan trọng nhất
quy định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động, giải thể và phá sản doanh
nghiệp, trong đó có phần quan trọng về quản trị công ty nói chung và quản trị công ty
niêm yết nói riêng.
Theo các chuyên gia tài chính, quản trị công ty là một vấn đề hết sức quan
trọng, được đặt ra ở nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2008. Đối với Việt Nam, quản trị công ty tốt sẽ giúp cải thiện hoạt
động công ty, tăng cường khả năng chống đỡ với rủi ro, đặc biệt khi Việt Nam ngày
càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Với sự khuyến khích của các cơ quan
quản lý, trong vài năm gần đây, dù đã được quan tâm nhiều hơn, song quản trị công ty
niêm yết vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Theo Công ty Tài chính quốc tế (IFC), quản
trị công ty ở Việt Nam hiện có khoảng 80% doanh nghiệp tuân thủ. Số doanh nghiệp
1
tự nguyện thực hiện chỉ chiếm 20% trong khi tại các nước tỷ lệ này khoảng 50%. Ngay
tại những công ty niêm yết lớn trên thị trường chứng khoán được xem là đi đầu về
quản trị công ty ở Việt Nam thì việc thực hiện quản trị công ty tốt theo thông lệ quốc
tế mới chỉ ở bước đầu. Thực trạng quản trị công ty tại Việt Nam chưa tốt phần nào
cũng được thể hiện tại Lễ Vinh danh các doanh nghiệp quản trị công ty tốt nhất khu
vực ASEAN khi Việt Nam không có đại diện trong Top 50 Doanh nghiệp niêm yết có
chất lượng quản trị công ty tốt nhất. Phần lớn trong số này là các doanh nghiệp của
Thái Lan, Malaysia, Singapore, Philippines. Dù các doanh nghiệp được vinh danh về
quản trị công ty đều có cải thiện tích cực về điểm số trong những năm gần đây, nhưng
thực tế mức điểm trung bình của các doanh nghiệp Việt Nam còn kém xa so với các
quốc gia trong khu vực. Điều này cũng cho thấy thực hành quản trị công ty tại Việt
Nam còn thấp và chưa đạt được các chuẩn mực mà ASEAN hướng tới [15 ].
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng quản trị công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán yếu như ý thức nâng cao quản trị trong Ban lãnh đạo chưa cao,
các công ty quản trị theo kiểu “gia đình trị” hay những khó khăn trong việc áp dụng
các khung pháp lý liên quan đến việc quản trị của công ty niêm yết. Để bảo vệ tốt nhất
các nhà đầu tư, nâng cao hiệu quả quản trị công ty niêm yết, việc nghiên cứu một cách
đầy đủ và toàn diện về các vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật về quản trị
công ty niêm yết là một vấn đề cấp thiết. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài luận văn
thạc sỹ là : “ Quản trị công ty niêm yết theo Pháp luật Việt Nam hiện nay” với mong
muốn làm rõ các quy định của pháp luật về quản trị công ty niêm yết, chỉ ra những
vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy
định của pháp luật về quản trị công ty niêm yết phù hợp với thực tiễn nền kinh tế Việt
Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, quản trị CTNY cũng đã được đề cập tới trong một số công trình
khoa học, bài viết nghiên cứu của một số tác giả liên quan tới quản trị CTNY theo
pháp luật Việt Nam như : Luận văn thạc sĩ, mã số 603850 “Quản trị công ty niêm yết
những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lê Minh Thắng do PGS.TS Nguyễn
Như Phát hướng dẫn (2008); Luận văn thạc sĩ, mã số 60380107 “Việc tiếp nhận các
nguyên tắc quản trị công ty của OECD trong pháp luật quản trị công ty niêm yết của
Việt Nam” của tác giả Võ Thị Hà Linh do PGS.TS Lê Thị Thu Thuỷ hướng dẫn; Đề tài
2
cấp ĐHQG, mã số C2014-34-02 “Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam” do PGS.TS Lê Vũ Nam chủ nhiệm (2015);
Luận văn thạc sĩ, mã số 60380107 “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị công ty
cổ phần”của tác giả Hoàng Thị Mai do TS Nguyễn Am Hiểu hướng dẫn (2015); Luận
văn thạc sĩ, mã số 60380107 “Pháp luật về quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam”
của tác giả Lương Đình Thi do TS Phan Thị Thanh Thuỷ hướng dẫn (2015),….
Các công trình nghiên cứu này đã góp phần làm sáng tỏ về quản trị công ty nói
chung và quản trị CTNY nói riêng. Tuy nhiên, các công trình này chưa đi cụ thể vào
việc quản trị CTNY theo pháp luật Việt Nam hiện nay một cách toàn diện, chưa thực
sự đi sâu vào tình hình quản trị CTNY , chưa chỉ ra rõ những nguyên nhân yếu kém
trong quản trị CTNY theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về quản trị CTNY ở
Việt Nam, đi sâu vào thực tế nhằm tìm ra những bất cập, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng, từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy
định của pháp luật về quản trị CTNY nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản trị CTNY
một cách chặt chẽ và bền vững nhất.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, Luận văn có các mục tiêu nghiên cứu cụ
thể sau đây:
-
Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quản trị công ty nói
chung và CTNY nói riêng theo quy định pháp luật Việt Nam.
-
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quản trị công ty niêm yết ở Việt
Nam hiện nay.
-
Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về quản trị công ty niêm
yết ở Việt Nam hiện nay.
-
Phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị
công ty niêm yết ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật về quản trị CTNY theo Luật Doanh nghiệp , Luật chứng khoán và các văn
bản có liên quan đến các nguyên tắc quản trị CTNY.
3
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu pháp luật của Việt Nam về quản trị CTNY,
đối chiếu so sánh với các khuyến nghị của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) với các thông lệ quốc tế về quản trị CTNY.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được viết dựa trên lý luận và phân tích thực tiễn các chế định pháp lý
về quản trị công ty nói chung, về quản trị CTNY nói riêng để đánh giá những vướng
mắc, khó khăn dẫn đến hạn chế tính khả thi của các quy định pháp luật. So sánh những
tiến bộ qua các lần sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan của pháp luật Việt nam.
Tìm hiểu thêm các quy định từng vấn đề pháp lý trong giới hạn nghiên cứu của pháp
luật một số quốc gia có điều kiện tương đồng để rút ra được kinh nghiệm khi đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong pháp luật Việt Nam về quản
trị CTNY.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật về quản trị CTNY,
xác định những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam về quản trị CTNY và từ đó
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật để phù hợp với thông
lệ quốc tế về QTCT và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu
quả quản trị CTNY tại Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập với thế giới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản trị công ty niêm yết và pháp luật về
quản trị công ty niêm yết
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về quản trị công
ty niêm yết ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty
niêm yết ở Việt Nam
4
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT
1.1. Khái quát về quản trị công ty
1.1.1 Khái niệm về quản trị công ty
Thuật ngữ quản trị được giải thích bằng nhiều nghĩa khác nhau, chưa có một
định nghĩa nào được tất cả mọi người chấp nhận hoàn toàn. Mary Parker Follett cho
rằng “quản trị là nghệ thuật đạt được mục đích thông qua người khác”. Định nghĩa này
nói lên rằng những nhà quản trị đạt được các mục tiêu của tổ chức bằng cách sắp xếp,
giao việc cho những người khác thực hiện chứ không phải hoàn thành công việc bằng
chính mình. Một định nghĩa khác giải thích tương đối rõ nét về quản trị được James
Stoner và Stephen Robbins trình bày như sau: “Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ
chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử
dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra”. Từ tiến
trình trong định nghĩa này nói lên rằng các công việc hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và
kiểm soát phải được thực hiện theo một trình tự nhất định. Khái niệm trên cũng chỉ ra
rằng tất cả những nhà quản trị phải thực hiện các hoạt động quản trị nhằm đạt được
mục tiêu mong đợi [10].
Các khái niệm và định nghĩa về quản trị công ty ( Corporate governance) cũng
rất đa dạng. Nó phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng công ty, các quốc gia và hệ
thống pháp luật của quốc gia nơi công ty đặt trụ sở và hoạt động. Một trong những
định nghĩa được sử dụng nhiều nhất và sớm nhất về QTCT được trình bày bởi Sir
Adrian Cadbury, người đứng đầu Ủy ban về các vấn đề tài chính của QTCT ở Anh.
Trong báo cáo của mình, ông định nghĩa QTCT là hệ thống mà công ty được chỉ đạo
và kiểm soát và thông qua đó HĐQT chịu trách nhiệm quản lý các công ty của họ. Ông
cũng giải thích vai trò của cổ đông trong quản trị như bổ nhiệm các giám đốc, kiểm
toán viên và để thỏa mãn bản thân họ về một cơ cấu quản trị phù hợp. Báo cáo này sau
đó được gọi là “Cadbury Report”, và trở nên nổi tiếng trong việc đặt ra các yêu cầu
QTCT đối với các công ty niêm yết ở Anh. Ngoài ra cũng có nhiều quan điểm khác về
5
bản chất của QTCT. Định nghĩa Sir Adrian Cadbury đã được mở rộng và ông chỉ ra rằng:
QTCT liên quan đến việc giữ được thế cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế và xã
hội và giữa các mục tiêu cá nhân và cộng đồng. Khuôn khổ QTCT ở đó để khuyến
khích việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đồng thời để quy định trách nhiệm về quản
lý các nguồn lực nhằm mục đích hướng tới, gần nhất có thể, các lợi ích của cá nhân,
công ty và xã hội [6, tr4].
Nhà khoa học kinh tế Monks và Minow, những người tiên phong trong QTCT
định nghĩa QTCT trong cuốn sách của họ như là mối quan hệ giữa các bên tham gia
như TGĐ điều hành, ban quản lý, các cổ đông và người lao động, những người được
cho là rất quan trọng trong việc quyết định định hướng và hiệu quả hoạt động của công
ty. Định nghĩa này cũng tập trung vào mối quan hệ giữa những người tham gia QTCT
nhưng bỏ qua các yếu tố khác quyết định đến hiệu quả hoạt động của công ty như tài
chính và xã hội.
Shleifer và Vishny đưa ra một định nghĩa tiến bộ hơn bằng cách cụ thể hơn đến
việc cung cấp tài chính, xem xét việc bảo vệ các nhà đầu tư bên ngoài khỏi việc chiếm
đoạt các nguồn lực tài chính của họ bởi công ty. Định nghĩa chỉ ra rằng: QTCT đề cập
đến những cách thức mà các nhà cung cấp tài chính cho các công ty đảm bảo mình
nhận được một khoản lợi nhuận từ việc đầu tư. Làm thế nào để họ đảm bảo rằng các
nhà quản lý không lấy đi khoản vốn mà họ cung cấp hoặc đầu tư vào các dự án không
tốt và bằng cách nào để các nhà cung cấp tài chính kiểm soát các nhà quản lý[6, tr5].
Theo IFC, QTCT là “những cơ cấu và những quá trình để định hướng và kiểm
soát công ty”. Vào năm 1999, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD –
Organization for Economic Cooperation and Development) đã xuất bản một tài liệu
mang tên “Các nguyên tắc Quản trị công ty” (OECD Principles of Corporate
Governance), trong đó đưa ra một định nghĩa chi tiết hơn về QTCT như sau: QTCT là
những biện pháp nội bộ để điều hành và kiểm soát công ty (…..), liên quan tới các mối
quan hệ giữa ban giám đốc, HĐQT và các cổ đông của một công ty với các bên có
quyền lợi liên quan. QTCT cũng tạo ra một cơ cấu để đề ra các mục tiêu của công ty,
và xác định các phương tiện để đạt được những mục tiêu đó, cũng như để giám sát kết
quả hoạt động của công ty. QTCT chỉ được cho là có hiệu quả khi khích lệ được Ban
6
giám đốc và HĐQT theo đuổi các mục tiêu vì lợi ích của công ty và của các cổ đông,
cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát hoạt động của công ty một
cách hiệu quả, từ đó khuyến khích công ty sử dụng các nguồn lực một cách tốt hơn.
Theo pháp luật Việt nam, bộ máy công ty cổ phần được cơ cấu theo luật pháp
và điều lệ công ty với nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch và
hoạt động có hiệu quả. Điều 134 LDN 2014 quy định, công ty cổ phần tổ chức quản lý
và hoạt động theo một trong hai mô hình sau:
- Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm doát và Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở
hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban kiểm soát.
- Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập
và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập thực
hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành
công ty.
Quyết định số 12 ngày 13/03/2007 của Bộ tài chính ban hành về quy chế QTCT
định nghĩa: QTCT là hệ thống các quy tắc để đảm bảo cho công ty được định hướng
điều hành và được kiểm soát một cách có hiệu quả vì quyền lợi của các cổ đông và
những người liên quan đến công ty. Các nguyên tắc QTCT bao gồm: (1) Đảm bảo một
cơ cấu quản trị hiệu quả; (2) Đảm bảo quyền lợi của cổ đông; (3) Đối xử công bằng
giữa các cổ đông; (4) Đảm bảo vai trò của những người có quyền lợi liên quan đến
công ty; (5) Minh bạch trong hoạt động của công ty; (6) Hội đồng quản trị và Ban
kiểm soát lãnh đạo và kiểm soát công ty có hiệu quả.
Cách hiểu khái niệm QTCT như trên tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế tốt
nhất (best practices) về QTCT. Ở đây, cần lưu ý rằng QTCT không chỉ liên quan đến
cổ đông mà còn chi phối và ảnh hưởng đến các bên liên quan đến công ty. Vì vậy, các
công ty (dù là niêm yết hay chưa niêm yết), khi xây dựng quy chế QTCT (đôi khi, gọi
là các nguyên tắc QTCT - corporate governance principles), cần hết sức lưu ý đến
những người liên quan đến công ty, bao gồm cổ đông, khách hàng, đối tác, chủ nợ,
nhân viên, các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng.
7
1.1.2 Phân biệt quản trị công ty và quản lý công ty
Quản trị và quản lý là hai khái niệm khác nhau nhưng dễ gây nhầm lẫn. Việc
phân biệt, áp dụng được hai khái niệm này trong công ty là quan trọng vì nó liên quan
trực tiếp đến “sức khoẻ” của công ty. Như ở khái niệm đã phân tích, quản trị có nghĩa
là toàn bộ quá trình quyết định ra chính sách, các khung về quy tắc, đặt ra các mục tiêu
chung. Đó là các hoạt động cấp cao. Quản trị còn là quá trình đặt nền móng các
nguyên tắc vận hành cơ bản cho một doanh nghiệp. Nó chính là việc hướng dẫn, lãnh
đạo, kiểm soát tổ chức, doanh nghiệp để hướng đến việc đạt được mục tiêu chung.
Trong khi đó, quản lý là việc tiếp nhận, kết nối và khởi động các nhân tố khác nhau,
điều phối, thúc đẩy, các nhân tố đa dạng khác nhau của tổ chức để hướng đến các mục
tiêu đã được đặt ra bởi quản trị. Nói cách khác, quản lý là nghệ thuật của việc đạt được
mục đích thông qua và cùng với những người khác trong nhóm được tổ chức.
Chức năng của quản trị là tư duy vì các kế hoạch và chính sách được quyết định
dựa theo các tư suy này; chức năng của quản lý là thi hành vì người quản lý hoàn
thành công việc của mình dưới sự giám sát nhất định. Quản trị chịu ảnh hưởng bởi
quan điểm cộng đồng, chính phủ, các tổ chức tôn giáo hoặc phong tục,…; còn quản lý
thì bị ảnh hưởng bởi giá trị, quan điểm, tín ngưỡng và quyết định của người quản lý
khác. Quản trị đại diện cho chủ sở hữu của doanh nghiệp, những người mà thu lại lợi
nhuận họ đã đầu tư theo hình thức cổ tức; quản lý chi phối người lao động của tổ chức,
những người được trả thù lao (theo hình thức lương).
Như vậy ta có thể thấy rõ được: Quản lý công ty liên quan đến các công cụ để điều
hành công ty theo những chiến lược, hoặc định hướng sẵn của công ty đã đề ra. Quản lý
công ty tập trung vào các công cụ cần thiết để điều hành doanh nghiệp. Quản lý công ty là
hệ quả của quản trị công ty. Nói đến quản lý công ty là nói về các trung tâm hay cơ cấu
quyền lực ở đó. Việc ấn định quyền hành là do người sáng lập công ty quyết định. Dựa
trên luật, người ấy muốn mình đứng ở đâu trong các bộ phận để có và phải có những
quyền nào nhằm điều khiển công ty theo ý mình, hay để ít bị cản trở nhất.
QTCT liên quan tới cơ chế kiểm soát quá trình ra quyết định của công ty. Đó là
cơ chế đảm bảo những người quản lý công ty trung thành với lợi ích của cổ đông, với
chủ sở hữu công ty, cẩn trọng với tất cả các quyết định của mình, trung thực với các cổ
8
đông của mình. Hay nói cách khác, QTCT là các quy trình nhằm đảm bảo sự công
bằng, tính minh bạch, tính trách nhiệm và tính giải trình. QTCT được đặt ở một tầm
cao hơn đảm bảo rằng công ty sẽ được quản lý theo một cách sao cho nó phục vụ lợi
ích của các cổ đông.
1.1.3 Nguyên tắc quản trị công ty
Các Nguyên tắc QTCT giúp các nhà hoạch định chính sách đánh giá và cải
thiện khuôn khổ pháp lý và thể chế liên quan đến quản trị công ty, với mục đích hỗ trợ
phát triển kinh tế, tăng trưởng bền vững và ổn định tài chính.
Năm 1999, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã lần đầu tiên phát
hành ra “Bộ nguyên tắc” trở thành tài liệu tham chiếu chuẩn quốc tế cho các nhà hoạch
định chính sách, nhà đầu tư, doanh nghiệp và các bên có quyền lợi liên quan khác trên
toàn thế giới. Bộ Nguyên tắc cũng đã được Hội đồng Ổn định Tài chính áp dụng như
các Tiêu chuẩn then chốt cho Hệ thống Tài chính Vững mạnh và là cơ sở cho các báo
cáo của Ngân hàng thế giới về Tình hình tuân thủ Chuẩn mực và Nguyên tắc (ROSC)
trong lĩnh vực quản trị công ty.
Năm 2002, Uỷ ban chỉ đạo về QTCT dưới sự uỷ nhiệm của Hội đồng Bộ trưởng
OECD đã rà soát kỹ càng để cập nhật lại những diễn biến và kinh nghiệm ở các quốc
gia thành viên và không thành viên của OECD và xuất bản “Bộ nguyên tắc” năm
2004. “Bộ Nguyên tắc” 2004 này là căn cứ chính, với thông điệp chia sẻ rằng một hệ
thống quản trị công ty hiệu quả được xây dựng trên nền tảng của tính minh bạch cao,
tính giải trình, trách nhiệm giám sát của HĐQT, sự tôn trọng quyền của cổ đông và vai
trò của các bên tham gia khác. “Bộ Nguyên tắc” được tái bản lại với tên gọi “Bộ
Nguyên tắc Quản trị công ty của G20/OECD” vào năm 2014 và 2015, nhưng những
giá trị cốt lõi này đã được gìn giữ và củng cố để đảm bảo chất lượng, tính phù hợp và
tính ứng dụng của “Bộ Nguyên tắc”.
OECD đã đưa ra các nguyên tắc quản trị công ty như sau [15]:
(1) Đảm bảo cơ sở cho một khuôn khổ quản trị công ty hiệu quả
Khuôn khổ quản trị công ty cần thúc đẩy tính minh bạch và công bằng của thị
trường, và phân bổ hiệu quả nguồn lực. Khuôn khổ quản trị công phải phù hợp với quy
định của pháp luật, và hỗ trợ giám sát và thực thi hiệu quả.
9
Khuôn khổ quản trị công ty cần được phát triển dựa trên tác động của khuôn
khổ đối với hiệu quả kinh tế nói chung, tính chuẩn mực của thị trường và các cơ chế
khuyến khích mà khuôn khổ này tạo ra cho các bên tham gia thị trường và việc phát
triển các thị trường minh bạch và hiệu quả
Các quy định pháp lý và quản lý tác động tới thông lệ quản trị công ty cần phải
phù hợp với quy định của pháp luật, minh bạch và có khả năng được thực thi.
Việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý khác nhau phải được quy
định rõ ràng và phải được thiết kế để phục vụ lợi ích của công chúng.
Các cơ quan giám sát, quản lý và thực thi phải liêm chính, có đủ thẩm quyền, và
nguồn lực để hoàn thành chức năng của mình một cách chuyên nghiệp và khách quan.
Hơn nữa, các quyết định của những cơ quan này phải kịp thời, minh bạch và được giải
thích đầy đủ.
(2) Quyền của cổ đông và các chức năng sở hữu cơ bản
Khuôn khổ quản trị công ty phải bảo vệ và tạo điều kiện thực hiện quyền của cổ
đông và bảo đảm đối xử công bằng với mọi cổ đông, kể cả cổ đông thiểu số và nước
ngoài. Mọi cổ đông phải có cơ hội khiếu nại hiệu quả khi quyền của họ bị vi phạm.
Các quyền cơ bản của cổ đông bao gồm quyền được: 1) Đảm bảo các phương
thức đăng ký quyền sở hữu; 2) Chuyển nhượng cổ phần; 3) Tiếp cận các thông tin liên
quan và quan trọng về công ty một cách kịp thời và thường xuyên; 4) Tham gia và
biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông; 5) Bầu và bãi miễn các thành viên Hội đồng
Quản trị; 6) Hưởng lợi nhuận của công ty.
Cổ đông phải được cung cấp đầy đủ thông tin và có quyền tham gia phê chuẩn
các quyết định liên quan tới những thay đổi cơ bản của công ty, ví dụ: 1) Sửa đổi các
quy định hay điều lệ của công ty hay các văn bản quản trị tương đương của công ty; 2)
Cho phép phát hành thêm cổ phiếu; 3) Các giao dịch bất thường, bao gồm việc chuyển
nhượng tất cả hay một phần lớn tài sản của công ty, dẫn đến việc bán công ty.
Cổ đông phải có cơ hội tham gia một cách hiệu quả và biểu quyết tại Đại hội
đồng cổ đông, và phải được thông tin về quy định họp Đại hội đồng cổ đông, bao gồm
cả thủ tục biểu quyết: (1) Cổ đông cần được thông tin đầy đủ và kịp thời về thời gian,
địa điểm và chương trình của các Đại hội đồng cổ đông cũng như thông tin đầy đủ và
10
kịp thời về các vấn đề cần được thông qua tại các đại hội này. (2) Các quy trình và thủ
tục của Đại hội đồng cổ đông phải đảm bảo sự đối xử bình đẳng với mọi cổ đông. Các
thủ tục của công ty không được gây khó dễ hoặc phát sinh chi phí không cần thiết khi
biểu quyết.
Cổ đông phải có cơ hội chất vấn Hội đồng Quản trị, kể cả các câu hỏi liên quan
tới kiểm toán độc lập hàng năm, kiến nghị các vấn đề đưa vào chương trình nghị sự
của Đại hội đồng cổ đông, và đề xuất các giải pháp trong giới hạn hợp lý.
Phải tạo điều kiện cho cổ đông tham gia hiệu quả vào việc ra các quyết định
quan trọng về quản trị công ty, ví dụ việc đề cử và bầu chọn thành viên Hội đồng Quản
trị. Cổ đông có thể đưa ra quan điểm của mình, kể cả thông qua việc biểu quyết tại đại
hội cổ đông, đối với chính sách thù lao cho thành viên Hội đồng Quản trị và cán bộ
quản lý chủ chốt. Các hợp phần có liên quan đến cổ phiếu trong kế hoạch thù lao cho
thành viên Hội đồng Quản trị và người lao động phải được sự chấp thuận của cổ đông.
Tất cả các cổ đông cùng loại cần được đối xử bình đẳng như nhau. Những cơ
cấu vốn và thỏa thuận cho phép một số cổ đông nắm giữ quyền kiểm soát không tương
ứng với tỷ lệ cổ phần mà họ sở hữu phải được công bố công khai.
Cổ đông thiểu số phải được bảo vệ khỏi các hành động lạm dụng trực tiếp hoặc
gián tiếp bởi hoặc vì lợi ích của các cổ đông nắm quyền kiểm soát và họ cần có các
phương tiện khiếu nại hiệu quả. Phải cấm các giao dịch trục lợi cá nhân.
Giao dịch với các bên liên quan phải được phê duyệt và tiến hành theo cách có
thể bảo đảm việc quản lý chặt chẽ đối với xung đột lợi ích và bảo vệ quyền của công ty
và cổ đông.
(3) Các nhà đầu tư tổ chức, thị trường chứng khoán và các trung gian khác
Khuôn khổ quản trị công ty nên đưa ra các chính sách khuyến khích hợp lý
trong suốt chuỗi đầu tư và tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán hoạt động để hỗ
trợ cải thiện quản trị công ty.
Các nhà đầu tư tổ chức hoạt động ủy thác cần công bố thông tin về chính sách
quản trị công ty và biểu quyết đối với các khoản đầu tư của họ, bao gồm các thủ tục
quyết định việc sử dụng quyền biểu quyết của họ.
11
Các nhà đầu tư tổ chức hoạt động ủy thác cần công bố cách thức quản lý các
xung đột lợi ích quan trọng có thể ảnh hưởng tới việc thực hiện các quyền sở hữu cơ
bản liên quan tới các khoản đầu tư của họ.
Khuôn khổ quản trị công ty phải yêu cầu các cố vấn ủy quyền, nhà phân tích,
môi giới, cơ quan xếp hạng và các đối tượng khác thực hiện phân tích và cố vấn liên
quan đến quyết định của nhà đầu tư, công bố và giảm thiểu xung đột lợ.
Giao dịch nội gián và thao túng thị trường phải bị cấm và các quy định phù hợp
phải được thực thi.
Đối với những công ty được niêm yết ở một quốc gia khác với quốc gia nơi
thành lập, các luật và quy định công ty áp dụng phải được công bố rõ ràng. Trong
trường hợp niêm yết chéo, các tiêu chí và thủ tục công nhận các quy định niêm yết của
nơi niêm yết chính phải minh bạch và được ghi nhận rõ ràng bằng văn bản.
(4) Vai trò của các bên có quyền lợi liên quan trong quản trị công ty
Khuôn khổ quản trị công ty phải công nhận quyền của các bên có quyền lợi liên
quan đã được pháp luật hay quan hệ hợp đồng quy định và phải khuyến khích sự hợp
tác tích cực giữa công ty và các bên có quyền lợi liên quan trong việc tạo dựng tài sản,
việc làm và sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp vững mạnh về tài chính.
Quyền của các bên có quyền lợi liên quan được pháp luật quy định hoặc theo
các thỏa thuận song phương phải được tôn trọng.
Khi lợi ích của các bên có quyền lợi liên quan được pháp luật bảo vệ, các bên
có quyền lợi liên quan phải có cơ hội được khiếu nại hiệu quả khi quyền lợi của họ bị
vi phạm.
Cần cho phép phát triển các cơ chế nâng cao hiệu quả tham gia của người lao động.
Khi các bên có quyền lợi liên quan tham gia vào quá trình quản trị công ty, họ
phải được tiếp cận với thông tin phù hợp, đầy đủ và đáng tin cậy một cách kịp thời và
thường xuyên.
Các bên có quyền lợi liên quan, bao gồm cả người lao động và tổ chức đại diện
cho họ, phải được tự do báo cáo những lo ngại của họ về những việc làm không hợp
pháp hoặc không phù hợp đạo đức lên Hội đồng Quản trị và cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và việc này không được phép ảnh hưởng tới các quyền của họ.
12
. Khuôn khổ quản trị công ty cần được bổ sung bằng một khuôn khổ về phá sản
hiệu quả và việc thực thi hiệu quả quyền của chủ nợ
(5) Công bố thông tin và tính minh bạch
Khuôn khổ quản trị công ty phải đảm bảo việc công bố thông tin kịp thời và
chính xác về mọi vấn đề quan trọng liên quan đến công ty, bao gồm tình hình tài
chính, tình hình hoạt động, sở hữu và quản trị công ty.
Công bố thông tin phải bao gồm, nhưng không hạn chế các nội dung quan trọng về:
- Kết quả tài chính và hoạt động của công ty.
- Mục tiêu và thông tin phi tài chính của công ty.
- Sở hữu cổ phần kiểm soát, bao gồm chủ sở hữu thực và quyền biểu quyết.
- Thù lao cho thành viên Hội đồng Quản trị và cán bộ quản lý cấp cao
- Thông tin về từng thành viên Hội đồng Quản trị, bao gồm trình độ, quy trình
tuyển chọn, các vị trí đang nắm giữ tại công ty khác và liệu họ có được Hội đồng Quản
trị coi là độc lập hay không.
- Các giao dịch với các bên liên quan.
- Các yếu tố rủi ro có thể tiên liệu.
- Các vấn đề liên quan đến người lao động và các bên có quyền lợi liên quan khác.
- Cơ cấu và chính sách quản trị, bao gồm nội dung của bộ quy tắc hoặc chính
sách quản trị công ty và quá trình thực hiện.
Thông tin phải được chuẩn bị và công bố phù hợp với các tiêu chuẩn chất lượng
cao về báo cáo kế toán, tài chính và phi tài chính.
Kiểm toán hàng năm phải được tiến hành bởi một đơn vị kiểm toán độc lập và
đủ năng lực theo chuẩn mực kiểm toán chất lượng cao nhằm cung cấp ý kiến đánh giá
độc lập và khách quan cho Hội đồng Quản trị và các cổ đông, đảm bảo rằng các báo
cáo tài chính đã thể hiện một cách trung thực và hợp lý tình hình tài chính và hoạt
động của công ty về mọi mặt chủ chốt.
Các đơn vị kiểm toán độc lập phải chịu trách nhiệm giải trình đối với cổ đông
và có trách nhiệm thực hiện công tác kiểm toán một cách chuyên nghiệp cẩn trọng đối
với công ty.
Các kênh phổ biến thông tin phải tạo điều kiện cho người sử dụng tiếp cận
13
thông tin bình đẳng, kịp thời và hiệu quả.
(6) Trách nhiệm của Hội đồng Quản trị
Khuôn khổ quản trị công ty cần đảm bảo định hướng chiến lược của công ty,
giám sát có hiệu quả công tác quản lý của Hội đồng Quản trị và trách nhiệm giải trình
của Hội đồng Quản trị đối với công ty và cổ đông
Thành viên Hội đồng Quản trị phải làm việc trên cơ sở có đầy đủ thông tin, một
cách tin cậy, siêng năng và cẩn trọng, và vì lợi ích cao nhất của công ty và cổ đông.
Khi quyết định của Hội đồng Quản trị có thể ảnh hưởng tới các nhóm cổ đông
khác nhau theo các cách khác nhau thì Hội đồng Quản trị phải đối xử bình đẳng với
mọi cổ đông.
Hội đồng Quản trị phải áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức cao, phải quan tâm tới
lợi ích của các bên có quyền lợi liên quan.
Hội đồng Quản trị phải thực hiện các chức năng chủ yếu bao gồm:
- Xem xét và định hướng chiến lược công ty, các kế hoạch hoạt động cơ bản,
chính sách và quy trình quản lý rủi ro, ngân sách và kế hoạch kinh doanh hàng năm;
đặt ra các mục tiêu hoạt động, theo dõi việc thực hiện mục tiêu và hoạt động của công
ty; giám sát các hoạt động đầu tư vốn, thâu tóm và thoái vốn chủ yếu.
- Giám sát hiệu quả các thực tiễn quản trị công ty và thực hiện các thay đổi khi
cần thiết.
- Lựa chọn, trả thù lao, giám sát và thay thế các cán bộ quản lý then chốt khi
cần thiết và giám sát kế hoạch chọn người kế nhiệm.
- Gắn mức thù lao của cán bộ quản lý cấp cao và Hội đồng Quản trị với lợi ích
lâu dài của công ty và cổ đông.
- Đảm bảo sự nghiêm túc và minh bạch của quy trình đề cử và bầu Hội đồng
Quản trị.
- Giám sát và xử lý các xung đột lợi ích tiềm ẩn của Ban điều hành, Hội đồng
Quản trị và cổ đông, bao gồm việc sử dụng tài sản công ty sai mục đích và lợi dụng
các giao dịch với bên liên quan.
- Đảm bảo tính trung thực của hệ thống báo cáo kế toán và tài chính của công
ty, kể cả báo cáo kiểm toán độc lập, và bảo đảm rằng các hệ thống kiểm soát phù hợp
14
luôn hoạt động, đặc biệt là các hệ thống quản lý rủi ro, kiểm soát tài chính và hoạt
động, tuân thủ theo pháp luật và các tiêu chuẩn liên quan.
- Giám sát quy trình công bố thông tin và truyền đạt thông tin.
Hội đồng Quản trị phải có khả năng đưa ra phán quyết độc lập, khách quan về
các vấn đề của công ty.
- Hội đồng Quản trị phải xem xét việc bổ nhiệm một số lượng đủ các thành
viên Hội đồng Quản trị không điều hành có khả năng đưa ra phán quyết độc lập đối
với các vấn đề khi tiềm ẩn xung đột về lợi ích. Ví dụ như đảm bảo tính trung thực của
các báo cáo tài chính và phi tài chính, rà soát các giao dịch liên quan, đề cử thành viên
Hội đồng Quản trị và cán bộ quản lý chủ chốt và thù lao cho Hội đồng Quản trị.
- Hội đồng Quản trị nên cân nhắc việc thành lập các ủy ban chuyên môn để hỗ
trợ Hội đồng Quản trị thực hiện các chức năng của mình, đặc biệt liên quan đến kiểm
toán, và, tùy thuộc vào quy mô và hồ sơ rủi ro của công ty, cả về quản lý rủi ro và thù
lao. Khi các ủy ban của Hội đồng Quản trị được thành lập, thẩm quyền, thành phần và
quy trình hoạt động của các ủy ban phải được Hội đồng Quản trị quy định và công bố
rõ ràng.
- Thành viên Hội đồng Quản trị phải cam kết thực hiện các trách nhiệm của
mình một cách hiệu quả.
- Hội đồng Quản trị nên thường xuyên thực hiện tự đánh giá để thẩm định kết
quả hoạt động và đánh giá liệu họ có sở hữu tập hợp kiến thức, kinh nghiệm và năng
lực phù hợp.
Đế thực hiện trách nhiệm của mình, thành viên Hội đồng Quản trị phải được
tiếp cận với thông tin chính xác, phù hợp và kịp thời.
Khi đại diện của người lao động trong Hội đồng Quản trị là bắt buộc phải có,
nên xây dựng cơ chế để thúc đẩy khả năng tiếp cận thông tin và đào tạo cho đại diện
của người lao động, sao cho việc đại diện này được thực hiện một cách hiệu quả và có
đóng góp tốt nhất vào việc cải thiện kỹ năng, thông tin và sự độc lập của Hội đồng
Quản trị.
15
1.1.4 Sự cần thiết, ý nghĩa và vai trò của QTCT
Tình trạng hoạt động của doanh nghiệp phản ánh vai trò của quản trị, nếu một
doanh nghiệp phát triển thì doanh nghiệp đó có bộ máy quản trị tốt và ngược lại. Khi
nói đến nguyên nhân sự phá sản của các doanh nghiệp thì có thể có nhiều nguyên
nhân, nhưng nguyên nhân hàng đầu thường vẫn là quản trị kém hiệu quả, hay nhà quản
trị thiếu khả năng. Trong cùng hoàn cảnh như nhau, nhưng người nào biết tổ chức các
hoạt động quản trị tốt hơn, khoa học hơn, thì triển vọng đạt kết quả sẽ chắc chắn hơn.
Đặc biệt quan trọng không phải chỉ là việc đạt kết quả mà sẽ còn là vấn đề ít tốn kém
thì giờ, tiền bạc, nguyên vật liệu và nhiều loại phí tổn khác hơn, hay nói cách khác là
có hiệu quả hơn.
Không có các hoạt động QTCT, doanh nghiệp sẽ không biết phải làm gì, làm
lúc nào, công việc sẽ diễn ra một cách lộn xộn. QTCT là nhằm tạo lập và duy trì một
môi trường nội bộ thuận lợi nhất, trong đó các cá nhân làm việc theo nhóm có thể đạt
được một hiệu suất cao nhất nhằm hoàn thành mục tiêu chung của tổ chức.
QTCT đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công ty, trong đó việc Hoạch
định, Tổ chức, Lãnh đạo và Kiểm tra là những vai trò nòng cốt trong quá trình hoạt
động quản trị doanh nghiệp [25].
Thứ nhất, QTCT có vai trò Hoạch định: Hoạch định là chức năng đầu tiên
trong tiến trình QTCT, bao gồm: việc xác định mục tiêu hoạt động, xây dựng chiến
lược tổng thể để đạt mục tiêu, và thiết lập một hệ thống các kế hoạch để phối hợp các
hoạt động. Hoạch định liên quan đến dự báo và tiên liệu tương lai, những mục tiêu cần
đạt được và những phương thức để đạt được mục tiêu đó. Nếu không lập kế hoạch
thận trọng và đúng đắn thì dễ dẫn đến thất bại trong quản trị. Có nhiều công ty không
hoạt động được hay chỉ hoạt động với một phần công suất do không có hoạch định
hoặc hoạch định kém.
Thứ hai, QTCT nắm vai trò Tổ chức, đây là chức năng thiết kế cơ cấu, tổ chức
công việc và tổ chức nhân sự cho một tổ chức. Công việc này bao gồm: xác định
những việc phải làm, người nào phải làm, phối hợp hoạt động ra sao, bộ phận nào
được hình thành, quan hệ giữa các bộ phận được thiết lập thế nào và hệ thống quyền
hành trong tổ chức đó được thiết lập ra sao? Tổ chức đúng đắn sẽ tạo nên môi trường
16
nội bộ thuận lợi thúc đẩy hoạt động đạt mục tiêu, tổ chức kém thì công ty sẽ thất bại,
dù hoạch định tốt.
Thứ ba, QTCT có vai trò Lãnh đạo. Một tổ chức bao gồm nhiều người, mỗi
một cá nhân có cá tính riêng, hoàn cảnh riêng và vị trí khác nhau. Nhiệm vụ của lãnh
đạo là phải biết động cơ và hành vi của những người dưới quyền, biết cách động viên,
điều khiển, lãnh đạo người khác, chọn những phong cách lãnh đạo phù hợp với những
đối tượng và hoàn cảnh cùng sở trường của người lãnh đạo, nhằm giải quyết các xung
đột giữa các thành phần, thắng được sức ỳ của các thành viên trước những thay đổi.
Lãnh đạo xuất sắc có khả năng đưa công ty đến thành công dù kế hoạch và tổ chức
chưa thật tốt, nhưng sẽ chắc chắn thất bại nếu lãnh đạo kém.
Thứ tư, QTCT có vai trò Kiểm tra. Sau khi đã đề ra những mục tiêu, xác định
những kế hoạch, vạch rõ việc xếp đặt cơ cấu, tuyển dụng, huấn luyện và động viên
nhân sự, công việc còn lại vẫn còn có thể thất bại nếu không kiểm tra. Công tác kiểm
tra bao gồm việc xác định thành quả, so sánh thành quả thực tế với thành quả đã được
xác định và tiến hành các biện pháp sửa chữa nếu có sai lệch, nhằm bảo đảm tổ chức
đang trên đường đi đúng hướng để hoàn thành mục tiêu.
Với vai trò to lớn như vậy, QTCT là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa to lớn đối
với sự phát triển của công ty. QTCT được xem là “trụ cột” của doanh nghiệp, nếu
không có QTCT thì công ty không thể đi vào hoạt động. QTCT chính là nguồn vốn
“nhân lực” trong doanh nghiệp, do đó QTCT phải luôn được xây dựng, đổi mới, cải
tiến và hoàn thiện liên tục để phù hợp với sự phát triển kinh tế của doanh nghiệp nói
riêng và của toàn xã hội nói chung.
1.2. Quản trị công ty niêm yết tại Việt Nam
1.2.1 Chứng khoán và niêm yết chứng khoán
Sự ra đời và phát triển của TTCK là một đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị
trường. Ở các nước phát trỉển, TTCK đã ra đời và phát triển từ rất lâu, nó được xem là
một thể chế tài chính bậc cao, là một kênh dẫn vốn không thể thiếu trong nền kinh tế.
Nhận thức được vai trò quan trọng của TTCK với nền kinh tế thị trường, Chính phủ đã
bắt đầu hoạch định để xây dựng TTCK ở Việt Nam. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương : “Thúc đẩy sự hình thành,
17
phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt quan tâm tới các thị trường quan trọng nhưng chưa có hoặc sơ khai như
thị trường lao động, TTCK, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công
nghệ”. Với nhiều nỗ lực chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11/07/1998 Chính phủ đã ký Nghị
định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho TTCK
Việt Nam ra đời. Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh – TTCK
tập trung đầu tiên của Việt Nam - đã được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐTTg ngày 11/07/2000 và chính thức diễn ra phiên giao dịch đầu tiên vào ngày
28/07/2000. Đây là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển trong quá trình
đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế. Lúc này, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về
giá do nguồn cung hàng hóa khan hiếm. Tuy nhiên thị trường đã liên tục sụt giảm
trong suốt 3 năm sau và tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2003. Ngày 08/03/2005,
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội được thành lập. Tuy nhiên TTCK giai đoạn
2000-2005 quy mô còn nhỏ và chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo
công chúng nên hoạt động còn khá trầm [16].
Từ năm 2006, TTCK Việt Nam bắt đầu khởi sắc và đã có bước tăng trưởng
mạnh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn doanh số giao dịch. Ngày 29/06/2006
Quốc hội đã ban hành Luật Chứng khoán (số 70/2006/QH11) và chính thức đưa vào
họat động kể từ ngày 01/01/2007 để tạo lập khuôn khổ pháp lý, đồng bộ và thống nhất
cho hoạt động của TTCK, từng bước loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với các văn
bản pháp luật khác có liên quan ( Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư). Ngày 24/11/2010,
Quốc hội cũng đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán
số 62/20140/QH12 (chính thức thi hành từ ngày 01/07/2011); và
đến ngày
18/12/2013, Văn phòng Quốc hội phê duyệt và ký xác thực Văn bản hợp nhất số
27/VBHN-VPQH để hợp nhất – không làm thay đổi nội dung và hiệu lực - từ 02 văn
bản quy phạm pháp luật trên và gọi là Luật chứng khoán 2013.
Điều 6 Luật chứng khoán 2013 quy định:
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện
dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau:
18
a, Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b, Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khóan hoặc chỉ số chứng khoán;
c, Hợp đồng góp vốn đầu tư;
d, Các loại chứng khóan khác do Bộ Tài chính quy định.
Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ điều kiện vào sàn
giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Tổ chức phát hành khi niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán,
Trung tâm giao dịch chứng khoán phải đáp ứng các điều kiện về vốn, hoạt động kinh
doanh và khả năng tài chính, số cổ đông hoặc số người sở hữu chứng khoán.
Tổ chức phát hành nộp hồ sơ niêm yết phải chịu trách nhiệm về tính chính xác,
trung thực và đầy đủ của hồ sơ niêm yết. Tổ chức tư vấn niêm yết, tổ chức kiểm toán
được chấp thuận, người ký báo cáo kiểm toán và bất cứ tổ chức, cá nhân nào xác nhận
hồ sơ niêm yết phải chịu trách nhiệm trong phạm vi liên quan đến hồ sơ niêm yết.
Chính phủ quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục niêm yết chứng khoán của tổ chức
phát hành Việt Nam, tổ chức phát hành nước ngoài tại Sở giao dịch chứng khoán,
Trung tâm giao dịch chứng khoán của Việt Nam; quy định điều kiện, hồ sơ, thủ tục
niêm yết chứng khoán của tổ chức phát hành Việt Nam tại Sở giao dịch chứng khoán
nước ngoài.
Các công ty cổ phần khi niêm yết chứng khoán thường nhằm các mục tiêu : a)
Tăng nguồn vốn hoạt động và tăng vốn tự có cho doanh nghiệp; b) Quảng bá tên tuổi,
hình ảnh cho công ty; c) Tạo điều kiện cho người lao động tham gia góp vốn vào công ty.
1.2.2 .Khái niệm và đặc điểm công ty niêm yết
Theo QĐ 12/2007-BTC, Công ty niêm yết là công ty cổ phần được chấp thuận
niêm yết cổ phiếu trên Sở Giao dịch Chứng khoán/ Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
trên lãnh thổ Việt Nam.
Công ty niêm yết có đặc điểm như sau :
Thứ nhất, công ty niêm yết là loại công ty cổ phần có cổ phiếu và trái phiếu
được niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Được quyền phát hành chứng
khoán khi có nhu cầu tăng vốn: Công ty có đặc trưng là sự tách rời giữa người sở hữu
19
vốn cổ đông và người quản lý. Điều này xét trên góc độ kiểm toán, có thể là sự không
tin cậy từ các báo cáo ( trong đó có các thông tin tài chính) của các nhà quản lý do mâu
thuẫn lợi ích giữa cổ đông và ban lãnh đạo công ty niêm yết, hoặc giữa nhóm cổ đông
lớn và cổ đông nhỏ.
Thứ hai, công ty niêm yết còn bao gồm doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa,
nhà nước chiếm trên 50% cổ phần (Luật doanh nghiệp). Bên cạnh đó, công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam được phát hành chứng khoán làm tăng vốn giữa
hai dạng cổ phiếu và trái phiếu. Công chúng ở đây là các nhà đầu tư, những người
quyết định đầu tư, không đầu tư vào doanh nghiệp niêm yết thông qua quyết định mua
hoặc không mua chứng khoán của công ty. Các quyết định đầu tư với chứng khoán của
công ty chủ yếu do thông tin mà chính Doanh nghiệp niêm yết cung cấp theo luật định.
Thứ ba, công ty niêm yết thường có quy mô lớn và phạm vi hoạt động rộng
khắp với mục đích chính của doanh nghiệp khi lựa chọn con đường niêm yết nhằm đáp
ứng nhu cầu mở rộng vốn kinh doanh trên quy mô lớn thông qua thu hút vốn đầu tư
dài hạn từ các nhà đầu tư, bên cạnh đó nhằm khẳng định thương hiệu và uy tín, do vậy
công ty niêm yết thường có quy mô lớn và có tình hình tài chính phức tạp hơn nhiều so
với các công ty không niêm yết.
1.2.3 Cấu trúc quản trị nội bộ của công ty niêm yết
Cơ cấu tổ chức hay cấu trúc quản trị nội bộ của các CTCP trên thế giới, đặc biệt
là các công ty niêm yết, hiện nay sử dụng một trong hai mô hình cơ bản là mô hình hội
đồng đơn ( hội đồng một tầng) hoặc mô hình hội đồng kép ( hội đồng hai tầng) [13 ].
Cấu trúc quản trị nội bộ theo mô hình hội đồng một tầng có trong luật công ty
của hầu hết các nước thuộc hệ thống thông luật (Common law) và dòng họ luật thành
văn (Civil law). Cấu trúc này gồm có Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng giám đốc với
các thành viên do Đại hội đồng cổ đông bầu chọn. Mọi quyền lực và các vấn đề pháp
luật của công ty nằm trong tay của Hội đồng giám đốc, trừ những vấn đề mà pháp luật
hoặc điều lệ công ty quy định phải thuộc về Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng giám đốc
bổ nhiệm một trong các thành viên trong hội hoặc người khác đảm nhiệm các công
việc điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty với người đứng đầu bộ
phận điều hành là Tổng giám đốc. Theo cơ cấu tổ chức này không có cơ quan phụ
20