Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Quản trị công ty niêm yết theo pháp luật việt nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.22 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM QUYÊN

QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số

: 60.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã
hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS.BÙI NGUYÊN KHÁNH

Phản biện 1: Hoàng Văn Tú
Phản biện 2: Vũ Thư

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận
thạc sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội 10 giờ 50 phút


ngày 08 tháng 08 năm 2015

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa
học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới kinh tế (1986 đến nay), hệ thống
doanh nghiệp Việt Nam đã và đang hình thành và càng ngày càng
phát triển; đông đảo về số lượng, đa dạng về loại hình và quy mô
ngày càng lớn. Do môi trường kinh doanh và xu hướng hội nhập kinh
tế quốc tế, doanh nghiệp tồn tại dưới hình thức công ty ngày càng trở
nên phổ biến. Công ty nói chung và công ty đại chúng/niêm yết nói
riêng đã và đang khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế
thị trường và trở thành một nhân tố cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế
và xã hội ở nước ta.
Theo các chuyên gia tài chính, quản trị công ty là một vấn đề
hết sức quan trọng, được đặt ra ở nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt
là sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Đối với Việt
Nam, quản trị công ty tốt sẽ giúp cải thiện hoạt động công ty, tăng
cường khả năng chống đỡ với rủi ro, đặc biệt khi Việt Nam ngày
càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Theo Công ty Tài
chính quốc tế (IFC), quản trị công ty ở Việt Nam hiện có khoảng
80% doanh nghiệp tuân thủ. Số doanh nghiệp tự nguyện thực hiện chỉ
chiếm 20% trong khi tại các nước tỷ lệ này khoảng 50%. Ngay tại
những công ty niêm yết lớn trên thị trường chứng khoán được xem là
đi đầu về quản trị công ty ở Việt Nam thì việc thực hiện quản trị công
ty tốt theo thông lệ quốc tế mới chỉ ở bước đầu.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng quản trị công ty

niêm yết trên thị trường chứng khoán yếu ,để bảo vệ tốt nhất các nhà
đầu tư, nâng cao hiệu quả quản trị công ty niêm yết, việc nghiên cứu
một cách đầy đủ và toàn diện về các vấn đề lý luận và thực tiễn thi
hành pháp luật về quản trị công ty niêm yết là một vấn đề cấp thiết.
Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sỹ là : “ Quản trị

1


công ty niêm yết theo Pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận
văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, quản trị CTNY cũng đã được đề cập tới trong
một số công trình khoa học, bài viết nghiên cứu của một số tác giả
liên quan tới quản trị CTNY theo pháp luật Việt Nam như : Luận văn
thạc sĩ, mã số 603850 “Quản trị công ty niêm yết những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của tác giả Lê Minh Thắng do PGS.TS Nguyễn
Như Phát hướng dẫn (2008); Luận văn thạc sĩ, mã số 60380107
“Việc tiếp nhận các nguyên tắc quản trị công ty của OECD trong
pháp luật quản trị công ty niêm yết của Việt Nam” của tác giả Võ Thị
Hà Linh do PGS.TS Lê Thị Thu Thuỷ hướng dẫn; Đề tài cấp ĐHQG,
mã số C2014-34-02 “Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” do PGS.TS Lê Vũ Nam
chủ nhiệm (2015); Luận văn thạc sĩ, mã số 60380107 “Hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về quản trị công ty cổ phần”của tác giả Hoàng
Thị Mai do TS Nguyễn Am Hiểu hướng dẫn (2015); Luận văn thạc
sĩ, mã số 60380107 “Pháp luật về quản trị công ty đại chúng ở Việt
Nam” của tác giả Lương Đình Thi do TS Phan Thị Thanh Thuỷ
hướng dẫn (2015),….
Các công trình nghiên cứu này đã góp phần làm sáng tỏ về

quản trị công ty nói chung và quản trị CTNY nói riêng. Tuy nhiên,
các công trình này chưa đi cụ thể vào việc quản trị CTNY theo pháp
luật Việt Nam hiện nay một cách toàn diện, chưa thực sự đi sâu vào
tình hình quản trị CTNY , chưa chỉ ra rõ những nguyên nhân yếu
kém trong quản trị CTNY theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu
Nhiệm vụ: Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật về
quản trị CTNY ở Việt Nam, đi sâu vào thực tế nhằm tìm ra những bất
cập, hạn chế trong thực tiễn áp dụng, từ đó đề xuất, kiến nghị các giải
pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về

2


quản trị CTNY nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản trị CTNY một
cách chặt chẽ và bền vững nhất.
Mục tiêu:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quản
trị công ty nói chung và CTNY nói riêng theo quy định
pháp luật Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quản trị công
ty niêm yết ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về quản
trị công ty niêm yết ở Việt Nam hiện nay.
- Phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật về quản trị công ty niêm yết ở Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các
quy định của pháp luật về quản trị CTNY theo Luật Doanh nghiệp ,

Luật chứng khoán và các văn bản có liên quan đến các nguyên tắc
quản trị CTNY.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu pháp luật của Việt Nam về
quản trị CTNY, đối chiếu so sánh với các khuyến nghị của Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) với các thông lệ quốc tế về
quản trị CTNY.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết dựa trên lý luận và phân tích thực tiễn các
chế định pháp lý về quản trị công ty nói chung, về quản trị CTNY nói
riêng để đánh giá những vướng mắc, khó khăn dẫn đến hạn chế tính
khả thi của các quy định pháp luật. So sánh những tiến bộ qua các lần
sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan của pháp luật Việt nam. Tìm
hiểu thêm các quy định từng vấn đề pháp lý trong giới hạn nghiên
cứu của pháp luật một số quốc gia có điều kiện tương đồng để rút ra

3


được kinh nghiệm khi đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng trong pháp luật Việt Nam về quản trị CTNY.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật về
quản trị CTNY, xác định những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt
Nam về quản trị CTNY và từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế về
QTCT và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, góp phần nâng cao
hiệu quả quản trị CTNY tại Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam đang
hội nhập với thế giới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản trị công ty niêm yết
và pháp luật về quản trị công ty niêm yết
Chương 2: Khung pháp luật và thực trạng áp dụng các quy
định pháp luật về quản trị công ty niêm yết ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
quản trị công ty niêm yết ở Việt Nam

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY VÀ PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM

1.1 Khái quát về quản trị công ty
1.1.1 Khái niệm về quản trị công ty
Các khái niệm và định nghĩa về quản trị công ty ( Corporate
governance) rất đa dạng. Nó phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng
công ty, các quốc gia và hệ thống pháp luật của quốc gia nơi công ty
đặt trụ sở và hoạt động. Một trong những định nghĩa được sử dụng
nhiều nhất và sớm nhất về QTCT được trình bày bởi Sir Adrian
Cadbury, người đứng đầu Ủy ban về các vấn đề tài chính của QTCT
ở Anh. Trong báo cáo của mình, ông định nghĩa QTCT là hệ thống
mà công ty được chỉ đạo và kiểm soát và thông qua đó HĐQT chịu
trách nhiệm quản lý các công ty của họ.
Nhà khoa học kinh tế Monks và Minow, những người tiên
phong trong QTCT định nghĩa QTCT trong cuốn sách của họ như là
mối quan hệ giữa các bên tham gia như TGĐ điều hành, ban quản lý,
các cổ đông và người lao động, những người được cho là rất quan

trọng trong việc quyết định định hướng và hiệu quả hoạt động của
công ty.
Shleifer và Vishny đưa ra một định nghĩa tiến bộ hơn rằng:
QTCT đề cập đến những cách thức mà các nhà cung cấp tài chính
cho các công ty đảm bảo mình nhận được một khoản lợi nhuận từ
việc đầu tư.
Vào năm 1999, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD –
Organization for Economic Cooperation and Development) đã xuất
bản một tài liệu mang tên “Các nguyên tắc Quản trị công ty” (OECD
Principles of Corporate Governance), trong đó đưa ra một định nghĩa
chi tiết hơn về QTCT như sau: QTCT là những biện pháp nội bộ để
điều hành và kiểm soát công ty (…..), liên quan tới các mối quan hệ
giữa ban giám đốc, HĐQT và các cổ đông của một công ty với các

5


bên có quyền lợi liên quan. QTCT cũng tạo ra một cơ cấu để đề ra
các mục tiêu của công ty, và xác định các phương tiện để đạt được
những mục tiêu đó, cũng như để giám sát kết quả hoạt động của công
ty. QTCT chỉ được cho là có hiệu quả khi khích lệ được Ban giám
đốc và HĐQT theo đuổi các mục tiêu vì lợi ích của công ty và của
các cổ đông, cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát
hoạt động của công ty một cách hiệu quả, từ đó khuyến khích công ty
sử dụng các nguồn lực một cách tốt hơn.
Quyết định số 12 ngày 13/03/2007 của Bộ tài chính ban hành
về quy chế QTCT định nghĩa: QTCT là hệ thống các quy tắc để đảm
bảo cho công ty được định hướng điều hành và được kiểm soát một
cách có hiệu quả vì quyền lợi của các cổ đông và những người liên
quan đến công ty. Các nguyên tắc QTCT bao gồm: (1) Đảm bảo một

cơ cấu quản trị hiệu quả; (2) Đảm bảo quyền lợi của cổ đông; (3) Đối
xử công bằng giữa các cổ đông; (4) Đảm bảo vai trò của những người
có quyền lợi liên quan đến công ty; (5) Minh bạch trong hoạt động
của công ty; (6) Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát lãnh đạo và kiểm
soát công ty có hiệu quả.
1.1.2 Phân biệt quản trị công ty và quản lý công ty
Quản trị và quản lý là hai khái niệm khác nhau nhưng dễ gây
nhầm lẫn.
Quản lý công ty liên quan đến các công cụ để điều hành công
ty theo những chiến lược, hoặc định hướng sẵn của công ty đã đề ra.
Quản lý công ty tập trung vào các công cụ cần thiết để điều hành
doanh nghiệp. Quản lý công ty là hệ quả của quản trị công ty.
QTCT liên quan tới cơ chế kiểm soát quá trình ra quyết định
của công ty; là các quy trình nhằm đảm bảo sự công bằng, tính minh
bạch, tính trách nhiệm và tính giải trình. QTCT được đặt ở một tầm
cao hơn đảm bảo rằng công ty sẽ được quản lý theo một cách sao cho
nó phục vụ lợi ích của các cổ đông.
1.1.3 Nguyên tắc quản trị công ty

6


Các Nguyên tắc QTCT giúp các nhà hoạch định chính sách
đánh giá và cải thiện khuôn khổ pháp lý và thể chế liên quan đến
quản trị công ty, với mục đích hỗ trợ phát triển kinh tế, tăng trưởng
bền vững và ổn định tài chính.
OECD đã đưa ra các nguyên tắc quản trị công ty như sau:
(1) Đảm bảo cơ sở cho một khuôn khổ quản trị công ty hiệu
quả
Các cơ quan giám sát, quản lý và thực thi phải liêm chính, có đủ

thẩm quyền, và nguồn lực để hoàn thành chức năng của mình một cách
chuyên nghiệp và khách quan. Hơn nữa, các quyết định của những cơ
quan này phải kịp thời, minh bạch và được giải thích đầy đủ.
(2) Quyền của cổ đông và các chức năng sở hữu cơ bản
Các quyền cơ bản của cổ đông bao gồm quyền được: 1) Đảm
bảo các phương thức đăng ký quyền sở hữu; 2) Chuyển nhượng cổ
phần; 3) Tiếp cận các thông tin liên quan và quan trọng về công ty
một cách kịp thời và thường xuyên; 4) Tham gia và biểu quyết tại
Đại hội đồng cổ đông; 5) Bầu và bãi miễn các thành viên Hội đồng
Quản trị; 6) Hưởng lợi nhuận của công ty.
Khuôn khổ quản trị công ty phải bảo vệ và tạo điều kiện thực
hiện quyền của cổ đông và bảo đảm đối xử công bằng với mọi cổ
đông, kể cả cổ đông thiểu số và nước ngoài. Mọi cổ đông phải có cơ
hội khiếu nại hiệu quả khi quyền của họ bị vi phạm.
(3) Các nhà đầu tư tổ chức, thị trường chứng khoán và các
trung gian khác
Khuôn khổ quản trị công ty nên đưa ra các chính sách khuyến
khích hợp lý trong suốt chuỗi đầu tư và tạo điều kiện cho thị trường
chứng khoán hoạt động để hỗ trợ cải thiện quản trị công ty.
(4) Vai trò của các bên có quyền lợi liên quan trong quản trị
công ty
Khuôn khổ quản trị công ty phải công nhận quyền của các bên
có quyền lợi liên quan đã được pháp luật hay quan hệ hợp đồng quy

7


định và phải khuyến khích sự hợp tác tích cực giữa công ty và các
bên có quyền lợi liên quan trong việc tạo dựng tài sản, việc làm và sự
phát triển bền vững của các doanh nghiệp vững mạnh về tài chính.

(5) Công bố thông tin và tính minh bạch
Khuôn khổ quản trị công ty phải đảm bảo việc công bố thông
tin kịp thời và chính xác về mọi vấn đề quan trọng liên quan đến
công ty, bao gồm tình hình tài chính, tình hình hoạt động, sở hữu và
quản trị công ty.
(6) Trách nhiệm của Hội đồng Quản trị
Khuôn khổ quản trị công ty cần đảm bảo định hướng chiến
lược của công ty, giám sát có hiệu quả công tác quản lý của Hội đồng
Quản trị và trách nhiệm giải trình của Hội đồng Quản trị đối với công
ty và cổ đông
Thành viên Hội đồng Quản trị phải làm việc trên cơ sở có đầy
đủ thông tin, một cách tin cậy, siêng năng và cẩn trọng, và vì lợi ích
cao nhất của công ty và cổ đông.
1.1.4 Sự cần thiết, ý nghĩa và vai trò của QTCT
Tình trạng hoạt động của doanh nghiệp phản ánh vai trò của
quản trị, nếu một doanh nghiệp phát triển thì doanh nghiệp đó có bộ
máy quản trị tốt và ngược lại. QTCT là nhằm tạo lập và duy trì một
môi trường nội bộ thuận lợi nhất, trong đó các cá nhân làm việc theo
nhóm có thể đạt được một hiệu suất cao nhất nhằm hoàn thành mục
tiêu chung của tổ chức.
QTCT đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công ty, trong đó
việc Hoạch định, Tổ chức, Lãnh đạo và Kiểm tra là những vai trò
nòng cốt trong quá trình hoạt động quản trị doanh nghiệp.
1.2 Pháp luật về quản trị công ty niêm yết tại Việt Nam
1.2.1 Pháp luật về quản trị công ty tại Việt Nam
Lần đầu tiên luật lệ về công ty tại Việt Nam được quy định là
trong “Bộ Dân luật thi hành tại các toàn Nam án Bắc Kỳ”. Trong bộ
luật này quy định hội buôn được chia thành hai loại là hội người và
hội vốn (tiết 5 chương IX); trong đó hội vốn được phân thành hai loại


8


là hội vô dành (CTCP) và hội hợp cổ (Công ty hợp vốn đơn giản).
Tuy nhiên, pháp luật về CTCP thời kỳ này mới chỉ là bắt đầu, còn rất
sơ khai.
Năm 1944, Bộ luật thương mại Trung phần có hiệu lực do
chính quyền Bảo Đại ban hành, được áp dụng tại Trung Kỳ; trong đó
từ Điều 102 đến Điều 142 và từ Điều 159 đến Điều 171 được quy
định về CTCP (công ty vô danh).
Năm 1972, Chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành Bộ luật
Thương mại,; trong đó, CTCP (hội nặc danh) gồm “có các hội viên
mệnh danh cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phần hùn
của mình dưới hình thức cổ phần” (Điều 236) và “chỉ được thành lập
nếu có số hội viên từ 7 người trở lên” (Điều 295).
21/12/1990, Luật công ty chính thức được ban hành tạo nền
tảng pháp lý đầu tiên cho sự ra đời của hệ thống công ty cũng như
khuôn khổ quản trị đối với các CTCP. Với 10 điều trong tổng số 46
điều khoản, Luật Công ty đã định hình được sơ lược về quản lý nội
bộ CTCP như ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS và Giám đốc điều hành, nhưng
thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan này lại chưa được phân
định rõ ràng.
12/06/1999, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp để thay
thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, đánh dấu bước
tiến quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật về QTCT ở Việt
Nam. Từ đó đến nay, với từng bước phát triển và hội nhập kinh tế,
Luật Doanh nghiệp 1999 đã được sửa đổi, bổ sung và thay đổi thành
Luật Doanh nghiệp 2005, sau đó là Luật Doanh nghiệp 2014. Trong
các văn bản này, CTCP vẫn được tiếp tục ghi nhận và được quy định
theo chuẩn mực quốc tế về quản trị CTCP.

1.2.2 Pháp luật về quản trị công ty đại chúng tại Việt Nam
1.2.2.1 Khái quát về công ty đại chúng
Theo Điều 25 của Luật Chứng khoán quy định : Công ty đại
chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau :
- Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng;
-

Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch
chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán;

9


-

Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở
hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và
có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên.

1.2.2.2 Đặc điểm công ty đại chúng
CTĐC có nguồn gốc từ CTCP nên nó mang đầy đủ các đặc
điểm cơ bản của CTCP. Do đó nó phải tuân thủ các quy định của
LDN về cơ cấu tổ chức nội bộ của loại hình CTCP.
CTĐC là tổ chức kinh tế có cơ chế quản lý tập trung cao
CTĐC có số lượng cổ đông lớn: bản thân tên gọi “đại chúng”
đã cho ta thấy được sự rộng lớn không giới hạn về lượng cổ đông
công ty.
CTĐC có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường chứng khoán
1.2.2.3 Pháp luật về quản trị công ty đại chúng
Pháp luật về quản trị CTĐC là một bộ phận của luật Thương

mại bao gồm tổng hợp những quy phạm pháp luật do nhà nước ban
hành quy định về hình thức CTĐC, qua đó xác định khung quản trị
CTĐC nhằm đạt được mục đích của quản trị công ty đối với cơ quan
quản lý nhà nước, các chủ đầu tư và các chủ thể khác.
1.2.2.4 Đặc điểm pháp luật về quản trị công ty đại chúng
Pháp luật về quản trị CTĐC được điều chỉnh bằng phương
pháp bình đẳng pháp lý. Thương nhân và các chủ thể tham gia quan
hệ thương mại đều là những chủ thể độc lập, bình đẳng với nhau về
tổ chức và tài sản.
Trong pháp luật về quản trị CTĐC (đặc biệt CTĐC niêm yết),
quy tắc ấn và quy tắc cưỡng thường xuyên được sử dụng, và hạn chế
nguyên tắc tự do ý chí.
Trong quá trình quản trị CTĐC, các tranh chấp phát sinh
được giải quyết tuỳ thuộc vào lựa chọn của các bên tranh chấp thông
qua thương lượng, hoà giải, hay nhờ trọng tài hoặc toà án giải quyết
tranh chấp.
1.2.3 Pháp luật về quản trị công ty niêm yết tại Việt Nam
1.2.3.1 Khái quát về công ty niêm yết
Theo QĐ 12/2007-BTC, Công ty niêm yết là công ty cổ phần
được chấp thuận niêm yết cổ phiếu trên Sở Giao dịch Chứng khoán/
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán trên lãnh thổ Việt Nam.
Công ty niêm yết có đặc điểm như sau :

10


Thứ nhất, công ty niêm yết là loại công ty cổ phần có cổ phiếu
và trái phiếu được niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Được quyền phát hành chứng khoán khi có nhu cầu tăng vốn.
Thứ hai, công ty niêm yết còn bao gồm doanh nghiệp nhà nước

đã cổ phần hóa, nhà nước chiếm trên 50% cổ phần (Luật doanh
nghiệp). Bên cạnh đó, công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam được phát hành chứng khoán làm tăng vốn giữa hai dạng
cổ phiếu và trái phiếu.
Thứ ba, công ty niêm yết thường có quy mô lớn và phạm vi
hoạt động rộng khắp và có tình hình tài chính phức tạp hơn nhiều so
với các công ty không niêm yết.
1.2.3.2 Pháp luật về quản trị công ty niêm yết
CTNY chính là CTĐC niêm yết nên pháp luật về quản trị
CTNY cũng có những đặc điểm giống pháp luật về quản trị CTĐC và
đều được đảm bảo theo các nguyên tắc:
- Sự độc lập của các thành viên HĐQT và việc giám sát hữu
hiệu của họ;
- Chịu trách nhiệm với các cổ đông;
- Minh bạch và công bố thông tin;
- Bảo vệ quyền lợi của cổ đông nắm ít vốn.
1.2.3.3 Cấu trúc quản trị nội bộ của công ty niêm yết
Cơ cấu tổ chức hay cấu trúc quản trị nội bộ của các CTCP trên
thế giới, đặc biệt là các công ty niêm yết, hiện nay sử dụng một trong
hai mô hình cơ bản là mô hình hội đồng đơn ( hội đồng một tầng)
hoặc mô hình hội đồng kép ( hội đồng hai tầng).
Cấu trúc quản trị nội bộ theo mô hình hội đồng một tầng gồm
có Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng giám đốc với các thành viên do
Đại hội đồng cổ đông bầu chọn. Mọi quyền lực và các vấn đề pháp
luật của công ty nằm trong tay của Hội đồng giám đốc, trừ những vấn
đề mà pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định phải thuộc về Đại hội
đồng cổ đông.
Cấu trúc quản trị nội bộ theo mô hình hội đồng hai tầng gồm
có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng giám sát (Ban kiểm soát)và Hội


11


đồng quản trị. Ở đây, Hội đồng giám sát và Hội đồng quản trị do Đại
hội đồng cổ đông bầu và hai bộ phận này có thẩm quyền riêng biệt,
cơ cấu thành viên tách rời không được đồng đảm nhiệm cả hai vị trí.
Theo Luật doanh nghiệp 2005, cấu trúc quản trị của các công
ty cổ phần, đặc biệt là các công ty niêm yết sử dụng chính là cấu trúc
hỗn hợp giữa mô hình một tầng và hai tầng với cơ cấu tổ chức bao
gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm sát và Ban
giám đốc với quyền và nghĩa vụ được phân định rõ ràng. Sau đó sửa
đổi LDN 2005 về vấn đề này bằng Điều 134 LDN2014 : Công ty cổ
phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và họat động theo một trong
hai mô hình: a) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần
có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dứơi 50% tổng
số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban kiểm soát; b)
Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc. Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản
trị phải là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc
Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám
sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành
công ty.
1.2.3.4 Vai trò của pháp luật về quản trị công ty niêm yết
Như những phân tích ở trên ta có thể thấy, quản trị công ty tốt
giúp công ty ngày càng lớn mạnh, giúp nền kinh tế ngày càng phát
triển. Pháp luật đóng vai trò thúc đẩy quản trị công ty theo thông lệ
quốc tế và tăng cường nhận thức về quản trị công ty đối với các nhà
đầu tư nhất là đối với các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như
Việt Nam.

Pháp luật quản trị CTNY đóng vai trò hỗ trợ và kiểm soát
quá trình tạo lập nên công ty.
Pháp luật về quản trị CTNY là công cụ để củng cố, đảm bảo cho
sự phát triển lành mạnh của các công ty, giúp bảo vệ các nhà đầu tư,
đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính trong nước và quốc tế.
1.2.3.5 Các quy định niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch
chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán

12


Tiêu chuẩn niêm yết thường do Sở giao dịch chứng khoán của
quốc gia quy định, dựa trên cơ sở thực trạng của nền kinh tế. Tiêu
chuẩn này bao gồm các điều kiện về tài chính của các công ty, chính
sách khuyến khích hay hạn chế niêm yết,… Chúng được quy định
dưới hai hình thức : tiêu chuẩn định lượng ( thời gian hoạt động của
công ty từ khi thành lập, quy mô và cơ cấu sở hữu cổ phần công ty,
lợi suất thu được từ vốn cổ phần, tỷ lệ nợ và tỷ lệ cổ phiếu giữa các
cổ đông); và tiêu chuẩn định tính ( sự phát triển của công ty, phương
án về việc sử dụng vốn của các đợt phát hành, ý kiến kiểm toán về
các báo cáo tài chính, cơ cấu tổ chức hoạt động của công ty, mẫu
chứng chỉ chứng khoán, tổ chức công bố thông tin)
Điều kiện để công ty cổ phần được niêm yết chứng khoán
được quy định chi tiết trong Điều 53, Điều 54 Nghị định số
58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012 và được sửa đổi bổ sung theo Nghị
định số 60/2015/NĐ-CP.
Kết luận chương 1
Qua nghiên cứu một số vấn đề khái quát chung về pháp luật
quản trị CTNY ta có thể đưa ra một số kết luận như sau:
- QTCT là hệ thống các quy tắc để đảm bảo cho công ty được

định hướng điều hành và được kiểm soát một cách có hiệu quả vì
quyền lợi của các cổ đông và những người liên quan đến công ty.
- QTCT đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công ty, trong
đó việc Hoạch định, Tổ chức, Lãnh đạo và Kiểm tra là những vai trò
nòng cốt trong quá trình hoạt động quản trị doanh nghiệp.
- Tùy thuộc vào môi trường kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp trong mỗi quốc gia mà các mô hình quản trị đạt được những
hiệu quả khác nhau. Hiện nay trong pháp luật của các quốc gia có sự
linh hoạt, cho phép các công ty lựa chọn những mô hình quản trị
khác nhau phù hợp với mô hình kinh doanh để đạt hiệu quả tốt nhất.

13


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY NIÊM YẾT TẠI VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1 Những quy định pháp luật hiện hành về quản trị công
ty niêm yết tại Việt Nam
Sau 10 năm sử dụng Luật Doanh nghiệp 2005, vào ngày
01/07/2015, Luật Doanh nghiệp 2014 đã được Quốc hội thông qua
chính thức có hiệu lực. Luật này ngoài sự kế thừa các quy định của LDN
2005 về công ty cổ phần thì cũng có những sửa đổi, bổ sung các quy
định mới phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Đặc biệt, LDN 2014 đã cho
phép công ty cổ phần được lựa chọn mô hình tổ chức phù hợp với quy
mô, tính chất sở hữu và sự đa dạng của cách thức quản trị công ty thay vì
chỉ sử dụng một mô hình duy nhất như trước đây.
2.1.1 Cổ đông và đại hội đồng cổ đông
2.1.1.1 Cổ đông

Cổ đông (Shareholder) là cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền
sở hữu hợp pháp một phần hay toàn bộ phần vốn góp (cổ phần) của
một công ty cổ phần. Chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu này gọi là cổ
phiếu. Về bản chất, cổ đông là thực thể đồng sở hữu công ty cổ phần
chứ không phải là chủ nợ của công ty đó do vậy quyền lợi và nghĩa
vụ của họ gắn liền với kết quả hoạt động của công ty.
Có hai cách phân loại cổ đông:
Cổ đông phân biệt bằng quyền cũng như nghĩa vụ gắn liền với
loại cổ phiếu mà họ sở hữu : a) Cổ đông sáng lập; b) Cổ đông đặc
biệt; c) Cổ đông ưu đãi; d) Cổ đông thường.
Một cách phân loại khác là căn cứ tỷ lệ cổ phần mà cổ đông
nắm giữ, theo cách này cổ đông được phân loại thành cổ đông lớn và
cổ đông thiểu số.
Cổ đông có các quyền được quy định rõ trong Điều 114 Luật
Doanh nghiệp 2014. Các quyền của cổ đông theo quy định của pháp

14


luật nhìn chung ở mức độ khác nhau đã được thực hiện trên thực tế.
Tuy nhiên, hiệu lực của việc thực hiện các quyền đó, nhất là cổ đông
thiểu số, trong quá trình ra quyết định tại công ty là khá hạn chế.
Song song với quyền thì các cổ đông cũng cần phải thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ nhất định đối với công ty.
2.1.1.2 Đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết,
là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của Công ty cổ phần,
quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến sự tồn tại và
hoạt động của công ty.
Theo Khoản 2 Điều 135 LDN 2014 đã nêu chi tiết các quyền

của Đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi quyền
hành của mình, nhiều cổ đông do hiểu biết hạn chế hoặc cố tình
không thực hiện hết quyền hạn của mình, gây ra những thiệt hại cho
công ty không hề nhỏ và là mầm mống gây ra những mâu thuẫn,
chiến tranh ngầm trong nội bộ công ty.
2.1.2 Họp Đại hội đồng cổ đông thường niên , bất thường
Theo LDN 2014, ĐHĐCĐ họp thường niên mỗi năm một lần
trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Địa điểm
diễn ra cuộc họp phải ở trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài cuộc họp
thường niên, ĐHĐCĐ có thể triệu tập họp bất thường để có thể giải
quyết kịp thời các vấn đề phát sinh đột xuất, tạo điều kiện thuận lợi
cho các công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả.
2.1.2.1 Thẩm quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ
Hội đồng quản trị: HĐQT được cho là đương nhiên có quyền
triệu tập họp ĐHĐCĐ thường niên và bất thường.
Ban kiểm soát: BKS chỉ có quyền triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ
bất thường trong một số trường hợp mà đáng lẽ ra HĐQT phải triệu
tập họp ĐHĐCĐ bất thường, và Hội đồng quản trị đã không triệu tập
trong thời hạn do điều lệ công ty quy định (nếu điều lệ không quy
định thì thời hạn này là 30 ngày)

15


Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần
phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng (hoặc một tỷ lệ nhỏ
hơn quy định tại điều lệ công ty) đã yêu cầu Hội đồng quản trị triệu
tập họp có quyền thay thế Hội đồng quản trị, BKS triệu tập họp
ĐHĐCĐ trong trường hợp Hội đồng quản trị và BKS không triệu tập
ĐHĐCĐ theo quy định.

2.1.2.2 Tổ chức họp ĐHĐCĐ
Cuộc họp ĐHĐCĐ chỉ được tiến hành khi có số cổ đông dự
họp đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết. Trường hợp cuộc
họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành thì sẽ triệu tập họp lần
thứ hai trong 30 ngày kể từ ngày dự định lần họp thứ nhất nếu Điều
lệ công ty không quy định khác. Lúc này số cổ đông dự họp đại diện
ít nhất 33% tổng số phiếu biểu quyết. Nếu cuộc họp lần thứ hai cũng
không được tiến hành thì sẽ triệu tập họp lần thứ ba trong vòng 20
ngày kể từ ngày dự định lần họp thứ hai và sẽ không phụ thuộc vào
tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp.
2.1.2.3 Báo cáo hoạt động của HĐQT tại ĐHĐCĐ
Điều 9 Nghị định 71/2017/NĐ-CP quy định báo cáo của
HĐQT trình ĐHĐCĐ thường niên ngoài việc theo quy định tại điểm
c khoản 2 Điều 136 LDN và Điều lệ công ty còn phải đảm bảo những
nội dung sau:
- Thù lao, chi phí hoạt động và các lợi ích khác của HĐQT và
từng thành viên HĐQT theo quy định tại khoản 3 Điều 158 LDN và Điều
lệ công ty.
- Tổng kết các cuộc họp của HĐQT và các quyết định của HĐQT;
- Kết quả đánh giá của thành viên độc lập HĐQT về hoạt động của
HĐQT (nếu có);
- Hoạt động của ban kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT trong
trường hợp CTĐC hoạt động theo mô hình quy định tại điểm b khoản 1 Điều
134 LDN;
- Hoạt động của các tiểu ban khác thuộc HĐQT
- Kết quả giám sát đối với GĐ (TGĐ);
- Kết quả giám sát đối với người điều hành khác;
- Các kế hoạch trong tương lai .

16



2.1.2.4 Báo cáo hoạt động của BKS tại ĐHĐCĐ
Báo cáo của BKS là rất quan trọng đối với các cổ đông vì chức
năng và nhiệm vụ của BKS là giám sát, kiểm soát hoạt động của các
nhà quản lý trong công ty. Nghị định 71/2017/NĐ-CP cũng yêu cầu
đảm bảo có những nội dung tối thiểu mà báo cáo của BKS của CTĐC
phải có.
2.1.2.5 Thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ
ĐHĐCĐ thông qua các quyết định thuộc thẩm quyền bằng
hình thức biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản.
2.1.3 Hội đồng quản trị và thành viên Hội đồng quản trị
2.1.3.1 Hội đồng quản trị
Theo Điều 149 LDN 2014: Hội đồng quản trị là cơ quan quản
lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại
hội đồng cổ đông. Các chức năng nhiệm vụ của HĐQT cũng được
nêu rõ trong Điều này và được quy định bổ sung, cụ thể hơn tại Nghị
định 71/2017/NĐ-CP.
2.1.3.2 Thành viên Hội đồng quản trị
Điều 13,71/2017/NĐ-CP, công ty niêm yết “phải có ít nhất là
ba người và nhiều nhất là mười một người”
Chủ tịch HĐQT là người đứng đầu HĐQT, được bầu trong
cuộc họp đầu tiên của nhiệm kỳ HĐQT; Chủ tịch HĐQT không được
kiêm nhiệm chức danh Giám đốc (TGĐ) của cùng 1 công ty (quy
định này làm hạn chế việc lạm quyền khi một cá nhân vừa có quyền
biểu quyết vừa có quyền điều hành trong công ty) .
Các thành viên HĐQT cũng cần có trách nhiệm và nghĩa vụ
đối với công ty, cụ thể theo Điều 14, Nghị định 71/2017/NĐ-CP.
2.1.4 Người phụ trách quản trị công ty

Hội đồng quản trị của công ty niêm yết phải bổ nhiệm ít nhất
01 người làm các nhiệm vụ của Người phụ trách quản trị công ty.
Người phụ trách quản trị công ty có thể kiêm nhiệm làm Thư ký công
ty theo quy định tại khoản 5 Điều 152 Luật doanh nghiệp.
Người phụ trách quản trị công ty phải là người có hiểu biết
về pháp luật, không được đồng thời làm việc cho công ty kiểm toán
độc lập đang thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính của công ty.

17


2.1.5 Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc
HĐQT bổ nhiệm một người trong số họ (trừ chủ tịch HĐQT)
hoặc thuê người khác làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hàng
ngày của công ty; chịu sự giám sát của HĐQT và chịu trách nhiệm
trước HĐQT và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và
nhiệm vụ được giao.
2.1.6 Ban kiểm soát và thành viên Ban kiểm soát
BKS là một cơ quan riêng có nhiệm vụ thay mặt Cổ đông giám
sát, đánh giá công tác điều hành, quản lý của HĐQT và Ban TGĐ
theo đúng các quy định trong Điều lệ Công ty, các Nghị quyết, Quyết
định của ĐHĐCĐ.
Thành viên BKS có quyền tiếp cận tất cả các thông tin và tài
liệu liên quan đến tình hình hoạt động của công ty. Thành viên
HĐQT, HĐ (TGĐ) điều hành và các cán bộ quản lý khác có trách
nhiệm cung cấp các thông tin theo yêu cầu của các thành viên BKS.
2.1.7 Công khai hoá thông tin và kiểm soát giao dịch với các
bên có liên quan
2.1.7.1 Công khai hoá thông tin

Những yêu cầu về công khai hoá thông tin được quy định trong
Bộ nguyên tắc OECD, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán và một
số văn bản hướng dẫn thi hành.
Công ty niêm yết phải công bố thông tin định kỳ, thông tin bất
thường và thông tin theo yêu cầu của Ủy ban chứng khoán nhà nước
(UBCKNN) ( định kỳ 06 tháng về tình hình quản trị công ty). Các
phương tiện và hình thức công bố thông tin gồm: (1) Báo cáo thường
niên, trang thông tin điện tử và các ấn phẩm khác của tổ chức thuộc
đối tượng công bố thông tin; (2) Các phương tiện công bố thông tin
của UBCKNN bao gồm: báo cáo thường niên, trang thông tin điện tử
và các ấn phẩm khác của UBCKNN; (3) Các phương tiện công bố
thông tin của Sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK), Trung tâm giao
dịch chứng khoán (TTGDCK) bao gồm: bản tin thị trường chứng
khoán, trang thông tin điện tử của SGDCK, TTGDCK, bảng hiện

18


điện tử tại SGDCK, TTGDCK, các trạm đầu cuối tại SGDCK,
TTGDCK; (4) Phương tiện thông tin đại chúng.
2.1.7.2 Công khai hoá và kiểm soát giao dịch với các bên liên
quan
Công ty cần phải công khai hoá và kiểm soát giao dịch với các
bên có liên quan tới công ty, các giao dịch có nguy cơ xung đột lợi
ích tới công ty nhằm đảm bảo để công ty được điều hành vì lợi ích
của tất cả các nhà đầu tư.
2.1.8 Giám sát và xử lý vi phạm
CTNY giám sát thông qua hoạt động thanh tra theo LCK.
CTNY và các tổ chức, cá nhân có liên quan có nghĩa vụ cung cấp kịp
thời , chính xác các thông tin, tài liệu, dữ liệu liên quan đến hoạt

động quản trị công ty và giải trình các sự việc liên quan theo yêu cầu
của UBCKNN.
Các CTNY và các tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm hoặc
không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về quản trị công ty
thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại phải bồi thường
theo quy định của pháp luật ( NĐ số 108/2013/NĐ-CP, NĐ số
145/2016/NĐ-CP)
.2.2 Thực trạng áp dụng quản trị CTNY theo pháp luật
Việt Nam
2.2.1 Tổng quan về thực trạng áp dụng các quy định pháp
luật về quản trị CTNY ở Việt Nam
Qua kết quả chấm điểm QTCT của các doanh nghiệp, các công
ty niêm yết Việt Nam còn chưa thực sự coi việc nâng cao chất lượng
QTCT là nhu cầu thiết yếu. Số lượng doang nghiệp nhận thức được
tầm quan trọng của QTCT vẫn còn hạn chế; đa số các doanh nghiệp
chỉ tuân thủ những quy định đơn giản ( ban hành điều lệ công ty phù
hợp với LDN, ban hành Quy chế quản trị, thông qua việc chủ tịch
HĐQT kiêm TGĐ trong ĐHĐCĐ,...), chỉ có ít công ty đáp ứng được
việc áp dụng các quy định phức tạp hơn (số lượng thành viên HĐQT
độc lập, việc tham gia các khoá đào tạo về QTCT của các thành viên
HĐQT, đảm bảo tránh xung đột về lợi ích trong gioa dịch với các bên

19


liên quan,....); thậm chí nhiều doanh nghiệp đã hoạt động nhưng
chưa có điều lệ hay bộ quy tắc quản trị công ty; Dù có thời gian phát
triển tương đối dài, nhưng khái niệm QTCT với nhiều lãnh đạo doanh
nghiệp vẫ còn rất mới mẻ, lẫn lộn giữa QTCT với quản trị tác nghiệp.

2.2.1.1 Về quyền của cổ đông
Trên thực tế, các công ty mới tuân thủ nguyên tắc về quyền cổ
đông trên hình thức. Trong các cuộc họp ĐHĐCĐ, đa số cổ đông
không được tiếp cận đầy đủ các tài liệu họp như Báo cáo thường
niên, trình tự thủ tục triệu tập và biểu quyết tại ĐHĐCĐ,...trường hợp
có đăng trên web của công ty thì đôi khi không tải được về một cách
dễ dàng; và hầu hết không có phiên bản tiếng Anh gây khó khăn cho
các cổ đông là người nước ngoài. Quyền lợi của cổ đông nhỏ chưa
được chú trọng khi tính đại chúng của CTNY còn thấp và tỷ lệ tập
trung sở hữu vào các cổ đông lớn còn cao.
2.2.1.2 Về vấn đề đối xử với các cổ đông
Hiện tại các cuộc họp ĐHĐCĐ đều diễn ra trong lãnh thổ Việt
Nam chứ không được tiến hành ở nước ngoài, điều này gây ảnh
hưởng lớn tới nhóm cổ đông là nàh đầu tư nước ngoài.
2.2.1.3 Về công bố thông tin
Như đã nói ở trên, việc thực hiện quản trị công ty ở Việt Nam
chủ yếu nhằm đối phó nên đa phần các công ty thực hiện đầy đủ theo
luật lệ, nhưng nội dung công bố thông tin rất sơ sài, nghèo nàn và chỉ
ở mức tối thiểu. Chất lượng thông tin trên báo cáo của HĐQT và
BKS còn sơ sài, chưa được chú trọng. Chủ sở hữu, các cổ đông
không được nhận thông tin về công ty đầy đủ, chính xác và kịp thời.
Bên cạnh đó, các thông tin trực tiếp liên quan đến lợi ích của những
người quản lý cũng rất ít, thậm chí không được công khai hoá.
2.2.1.4 Về kiểm soát giao dịch của công ty với các bên có liên
quan
Hầu hết các công ty chưa xác định được cụ thể các đối tượng
thuộc diện các bên có liên quan của công ty; chưa có cơ chế và cách

20



thức thu thập, tập hợp, lưu trữ và quản lý hồ sơ về các bên có liên
quan. Điều này khiến cho việc công khai hoá và kiểm soát các giao
dịch của công ty với các bên có liên quan hầu như chưa được thực
hiện.
2.2.1.5 Về trách nhiệm của HĐQT
Ở Việt Nam chưa có quy định bắt buộc thành lập các tiểu ban
của HĐQT và còn lẫn lộn vai trò của chủ tịch HĐQT với TGĐ nên
các nhận định, quyết định của HĐQT đôi khi thiếu tính khách quan,
độc lập và thiếu hiệu quả.
2.2.1.6 Về ban Giám đốc
Ban giám đốc là những người được cổ đông thuê để điều hành
các hoạt động sản xuất - kinh doanh của DN và được trả lương theo
hiệu quả công việc.Tuy nhiên, thường xuyên có sự mâu thuẫn giữa
Ban giám đốc với các cổ đông do bản chất của mối quan hệ giữa chủ
và người làm thuê.
2.2.1.7 Về ban kiểm soát
BKS chưa thể hiện đầy đủ vai trò bảo vệ cổ đông và nhà đầu
tư. Tại một số công ty, HĐQT và BGĐ nhiều khi cũng không rõ vai
trò của BKS, coi BKS chỉ là một phòng Ban trong công ty, thậm chí
ngay cả BKS cũng không rõ vai trò và quyền hạn của mình. Vì thế sự
tồn tại của BKS nhiều khi mang nặng tính hình thức.
2.2.1.8 Một số vấn đề khác
Hoạt động QTCT tại một số CNTY vẫn còn mang tính đối
phó, chưa xuất phát từ ý thức và tinh thần tự nguyện thực thi các
thông lệ tốt nhất về QTCT mà chỉ dừng lại ở mức cố gắng tuân thủ
các quy định tối thiểu của pháp luật. Báo cáo về QTCT của các
CTNY chỉ cho thấy bề nổi về “lượng” của hoạt động QTCT chứ
không thể hiện chiều sâu về “chất” và tính hiệu quả.
2.2.2 Những bất cập trong thực tiễn quản trị CTNY theo

pháp luật Việt Nam

21


Thứ nhất: Việc công khai, minh bạch hóa thông tin doanh
nghiệp LDN 2014 quy định đã được bổ sung chi tiết hơn so với LDN
2005; tuy nhiên, các chế tài chưa đủ mạnh để buộc doanh nghiệp
thực hiện nghiêm túc và đầy đủ .
Thứ hai: quy định về chuyển nhượng cổ phần trong Khoản 1
Điều 126 LDN 2014 và khoản 1 Điều 120 về cổ phiếu của Luật này
nếu không chú ý sẽ gây rủi ro lớn cho người nhận chuyển nhượng, vì
không thể biết được cổ phần có bị hạn chế chuyển nhượng hay
không.
Thứ ba: Điều 153 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về
Cuộc họp Hội đồng quản trị không xác định được thành viên nào của
Hội đồng quản trị có quyền yêu cầu triệu tập họp Hội đồng quản trị.
Thứ tư: Quy định về cổ phần đã bán còn bất hợp lý
Thứ năm: Các quy định về việc thông báo và báo cáo được quy
định tại Điều 12 và tại Điểm b, Khoản 1, Điều 32 LDN 2014 là
không cần thiết vì các thông tin này vốn không được ghi nhận trong
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy đề nghị đăng ký doanh
nghiệp
Thứ sáu: Quy định về quyền của cổ đông còn nhiều hạn chế
Thứ bảy: Quyền lực tập trung quá nhiều dẫn đến việc HĐQT
lạm dụng quyền lực.
Thứ tám: bất cập trong vai trò của BKS
2.3 Phương hướng và yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về
quản trị CTNY
2.3.1 Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường

Để kinh tế có thể phát triển thì Nhà nước cần phải xây dựng
một hành lang pháp lý thật chặt chẽ, phù hợp với thông lệ quốc tế để
tránh xảy ra xung đột, mâu thuẫn gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của người dân. Pháp luật đưa ra phải đảm bảo cho các thành phần
kinh tế môi trường hoạt động thuận lợi, an toàn và đảm bảo trật tự
công cộng.
2.3.2 Đảm bảo được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Điều chỉnh hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp và tương
đồng với thị trường thế giới, tạo thuận lợi pháp lý nhất định cho việc
hội nhập và hợp tác với các nước và các tổ chứ kinh tế quốc tế.

22


2.3.3 Định hướng hoàn thiện pháp luật về quản trị CTNY
Thứ nhất: Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị
CTNY phải căn cứ vào những đặc điểm của nền kinh tế thị trường
Việt Nam.
Thứ hai: Các quy định của pháp luật về quản trị CTNY phải
phù hợp với đặc điểm văn hóa kinh doanh của người Việt Nam.
Thứ ba: Các quy định về QTCT phải đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế.
Thứ tư: Việc hoàn thiện các quy định về QTCT cần được đặt
trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế.
2.42 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị CTNY
2.4.1 Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quản trị CTNY
Thứ nhất : Cần tách bạch giữa sở hữu và quản trị điều hành
doanh nghiệp, tạo bộ máy quản trị độc lập.
Thứ hai: Thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ để các CTNY có

thể tiếp cận với các chuẩn mực kiểm toán nội bộ quốc tế.
Thứ ba : Nâng cao hiệu quả của BKS
Thứ tư: Vấn đề công bố thông tin
2.4.2 Giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về quản trị CTNY
Thứ nhất: Nâng cao nhận thức về vấn đề QTCT
Thứ hai : Đưa ra các quy định mang tính áp đặt và bắt buộc
Thứ ba: Tăng cường vai trò giám sát, xử lý vi phạm trong hoạt
động đới với CTNY của UBCKNN.
Kết luận chương 3
Trong chương 3 này, luận văn đã nêu lên được phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị CTNY ở Việt
Nam. Có thể thấy, hoàn thiện pháp luật về QTCT là tất yếu khách
quan nhằm tạo ra hành lang pháp lý, đảm bảo cho quá trình hoạt
động và phát triển của các công ty nói chung và CTNY nói riêng.
QTCT luôn là vấn đề thiết yếu mang tính thời sự. Ngoài việc
hoàn thiện hành lang pháp lý cần phải nâng cao nhận thức của các
doanh nghiệp về vấn đề QTCT để các doanh nghiệp tập trung hơn
vào vấn đề quản trị, giúp thúc đẩy và phát triển doanh nghiệp một
cách nhanh chóng và có hiệu quả hơn.

23


×