Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Các biện pháp tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.71 KB, 25 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ VĂN TÙNG

CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Beo

Phản biện 1: .....................................................................
.....................................................................

Phản biện 2: .....................................................................
.....................................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại Học viện khoa học xã hội vào lúc ...... giờ ...... ngày ......
tháng ...... năm ...........

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Khoa học xã hội




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp tư pháp là một trong những chế định quan trọng
của luật hình sự Việt Nam, thể hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ
nghĩa, với phương châm thể hiện thái độ nghiêm khắc, kết hợp với
chính sách khoan hồng, nhân đạo của nhà nước; giúp giáo dục và cải
tạo người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trở thành người
có ích cho xã hội.
Thực tiễn giải quyết, xét xử và tổ chức thi hành án được cơ
quan tư pháp nói chung, cơ quan tư pháp các cấp tỉnh Long An nói
riêng áp dụng biện pháp tư pháp đối với người phạm tội, người đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được chính sách
hình sự, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy
vậy, việc áp dụng các biện pháp tư pháp còn nhiều vướng mắc, bất
cập nhất định, làm giảm hiệu quả của việc áp dụng biện pháp tư
pháp. Một mặt, quy định về biện pháp tư pháp có nhiều thay đổi
trong Bộ luật hình sự và văn bản hướng dẫn thi hành do ngành Tòa
án nhân dân ban hành, dẫn đến việc áp dụng và thi hành biện pháp tư
pháp còn gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, biện pháp tư pháp trong
thực tiễn cũng có nhiều bất cập, như: việc giải thích hướng dẫn áp
dụng pháp luật chưa kịp thời, đồng bộ và đầy đủ; trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, kiến thức, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề
nghiệp của một bộ phận người làm công tác xét xử còn hạn chế,
nhiều trường hợp áp dụng biện pháp tư pháp đúng quy định của pháp
luật có tác dụng giáo dục, phòng ngừa; song không ít trường hợp áp
dụng biện pháp tư pháp chưa đúng mà nguyên nhân có thể do bản
lĩnh nghề nghiệp, bị chi phối, ảnh hưởng, áp lực của sự can thiệp từ
một hoặc một vài cá nhân có quyền lực trong bộ máy nhà nước,

1


trong xã hội; cũng có thể do đạo đức, phẩm chất, thậm chí do tiêu
cực, cố tình hiểu sai vấn đề, áp dụng pháp luật không đúng.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách
tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Xây
dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng
sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”
thì việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng
chế định biện pháp tư pháp trên thực tế là một vấn đề hết sức cần
thiết, thời sự, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đổi mới công tác cải
cách tư pháp. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Các biện pháp tư pháp
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình, nhằm góp phần đem
lại cách hiểu đúng đắn về biện pháp tư pháp, từ đó giúp cho việc áp
dụng pháp luật được chính xác, khách quan, tăng cường hiệu quả
hoạt động, đấu tranh phòng chống tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Biện pháp tư pháp là một trong những vấn đề được sự quan
tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, có thể kể đến các công trình
nghiên cứu điển hình như sau:
Dưới góc độ giáo trình được nghiên cứu biên soạn dùng cho
việc giảng dạy bậc cao học có giáo trình luật hình sự phần chung của
Học viện khoa học xã hội xuất bản năm 2014, do giáo sư tiến sĩ Võ
Khánh Vinh chủ biên; giáo trình luật hình sự phần chung do Trường
đại học luật Hà Nội biên soạn giảng dạy bậc đại học.

2


Sách bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 của tác
giả Đinh Văn Quế, xuất bản năm 2000; sách chuyên khảo, như:
“Những vấn đề cơ bản trong khoa học hình sự” của Lê Cảm năm
2005…
Dưới góc độ luận văn tốt nghiệp bậc cao học: “Các biện
pháp tư pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lưu Thị
Thu Hương (năm 2014). Ngoài ra, tác giả chưa tìm thấy luận văn tốt
nghiệp nào khác nghiên cứu về đề tài này. Luận văn của tác giả Lưu
Thị Thu Hương trình bày những vấn đề lý luận chung về các biện
pháp tư pháp, phân tích các biện pháp tư pháp theo quy định của Bộ
luật hình sự năm 1999, thực tiễn áp dụng và đưa ra một số giải pháp
hoàn thiện chế định các biện pháp tư pháp.
Các đề tài có liên quan trực tiếp như luận văn tốt nghiệp bậc
cao học của các tác giả:
Đề tài “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình
Định” của tác giả Lê Văn Thường (năm 2016). Luận văn của tác giả
Lê Văn Thường trình bày những vấn đề lý luận chung về quyết định
hình phạt, phân tích các căn cứ quyết định hình phạt, thực tiễn quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn
tỉnh Bình Định, đề xuất những giải pháp bảo đảm quyết định hình
phạt đúng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Đề tài “Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Phạm Minh
Vương (năm 2017). Luận văn của tác giả Phạm Minh Vương trình
bày nhiều vấn đề về việc áp dụng pháp luật hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội, trong đó có áp dụng biện pháp tư pháp.

3


Đề tài “Các biện pháp tư pháp theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” được tác giả chọn làm luận văn tốt
nghiệp lần này được thực hiện trên cơ sở tiếp cận kiến thức thông
qua quá trình học tập, nghiên cứu tại Học viện khoa học và xã hội và
tiếp thu kết quả từ các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
pháp lý thông qua các giáo trình, giáo án, sách chuyên khảo và nhiều
bài viết bình luận về lý luận chế định các biện pháp tư pháp trong Bộ
luật hình sự Việt Nam. Đây sẽ là kết quả được nghiên cứu mang tính
chuyên sâu ở bậc cao học để so sánh, phân tích, đánh giá chế định
các biện pháp tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam, đồng thời
chỉ ra những bất cập vướng mắc. Từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn
thiện mang tính khả thi, nâng cao hiệu quả trong áp dụng và thi hành
các biện pháp tư pháp, nhằm góp phần thực hiện hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận,
cùng với việc áp dụng biện pháp tư pháp trong thực tiễn, luận văn đi
sâu phân tích từ nhiều khía cạnh khác nhau về biện pháp tư pháp
hình sự: quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự,
pháp luật thi hành án hình sự, xu hướng, cũng như điều kiện áp dụng,
việc áp dụng biện pháp tư pháp trong thực tiễn. Từ sự phân tích này,
tác giả luận văn đề xuất các giải pháp góp phần áp dụng đúng chế
định các biện pháp tư pháp trên địa bàn tỉnh Long An.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về các biện pháp tư
pháp: Khái niệm, đặc điểm, mục đích, vai trò, bản chất của các biện

pháp tư pháp.
4


Phân tích quy định của pháp luật về các biện pháp tư pháp,
phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về
chế định các biện pháp tư pháp, cũng như những hạn chế, bất cập
trong thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp trên địa bàn tỉnh Long
An.
Đưa ra những giải pháp và kiến nghị áp dụng đúng và thi
hành tốt các biện pháp tư pháp trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật, thực tiễn về áp dụng, thi hành các biện
pháp tư pháp trên địa bàn tỉnh Long An.
Phạm vi nghiên cứu:
Do tính phức tạp và rộng lớn của vấn đề, nên luận văn chỉ
giới hạn nghiên cứu các vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp, quy
định của pháp luật, cũng như hoạt động áp dụng và thi hành các biện
pháp tư pháp trong thực tiễn tại tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2012
đến 2016. Các hoạt động khác đều không thuộc phạm vi nghiên cứu
của luận văn này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng, nhà nước về đấu
tranh phòng chống tội phạm, về cải tạo, giáo dục người phạm tội.
Những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách
chuyên khảo, các bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học của
một số nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam.


5


Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu như: thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh,
khảo sát thực tế, lý luận kết hợp với thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu đề tài “Các biện pháp tư pháp theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” có ý nghĩa về mặt lý
luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp tại tỉnh Long An.
Ý nghĩa lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu toàn bộ những quy
định của chế định các biện pháp tư pháp, phân tích, đánh giá thực
tiễn áp dụng trong những năm qua, nhằm làm rõ thêm các quan điểm
lý luận khoa học về định hướng áp dụng biện pháp tư pháp. Ngoài ra,
kết quả nghiên cứu đề tài còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo,
phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập khoa học luật hình sự, luật tố
tụng hình sự và luật thi hành án hình sự.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài có thể là ý kiến
hữu ích trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp
luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự. Ngoài ra, kết
quả nghiên cứu đề tài còn là đề tài hữu ích cho sinh viên tham khảo
khi nghiên cứu về chính sách hình sự, hình phạt và các biện pháp tư
pháp của pháp luật hình sự Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các
biện pháp tư pháp và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Long An

Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy
định của pháp luật về các biện pháp tư pháp
6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của các biện
pháp tư pháp hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tư pháp
Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự, được
quy định trong Bộ luật hình sự, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối
với người phạm tội cũng như người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, có tác dụng hỗ
trợ hoặc thay thế hình phạt.
Biện pháp tư pháp hình sự có những đặc điểm cơ bản như
sau: biện pháp tư pháp có tính chất nghiêm khắc ít hơn so với hình
phạt. Chủ thể chỉ bị áp dụng biện pháp tư pháp thì không bị xem là
có án tích; Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng các
biện pháp tư pháp đã quy định trong Bộ luật hình sự; Biện pháp tư
pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng; dùng để hỗ trợ
hoặc thay thế hình phạt.
1.1.2. Vai trò và mục đích của biện pháp tư pháp trong luật
hình sự
Biện pháp tư pháp là một biện pháp cưỡng chế về hình sự,
có vai trò thay thế hình phạt và cũng có thể được áp dụng để hỗ trợ
hình phạt.
1.2. So sánh biện pháp tư pháp với hình phạt và các biện
pháp cưỡng chế hành chính

1.2.1. So sánh biện pháp tư pháp với hình phạt
Sự giống nhau giữa biện pháp tư pháp và hình phạt
Sự khác nhau giữa biện pháp tư pháp và hình phạt
7


1.2.2. So sánh biện pháp tư pháp với các biện pháp
cưỡng chế hành chính
Sự giống nhau giữa biện pháp tư pháp với các biện pháp
cưỡng chế hành chính
Sự khác nhau giữa biện pháp tư pháp với các biện pháp
cưỡng chế hành chính
1.3. Quy định về các biện pháp tư pháp trong pháp luật
hình sự một số nước
Phần lớn luật hình sự nước ngoài quy định song song hai hệ
thống các biện pháp cưỡng chế, đó là hình phạt và biện pháp cưỡng
chế khác, ít có nước thiết lập riêng hình phạt hoặc là các biện pháp
cưỡng chế khác trong luật hình sự.
Kết Luận Chương 1
Qua nghiên cứu sơ bộ một số nội dung về lý luận, có thể
thấy được các biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế khác trong
pháp luật hình sự, cùng tồn tại với biện pháp cưỡng chế chính trong
pháp luật hình sự đó là hình phạt. Việc quy định hình phạt cùng với
các biện pháp tư pháp trong luật hình sự làm cho hệ thống các biện
pháp cưỡng chế về hình sự hoàn thiện, đầy đủ hơn, nâng cao khả
năng phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm của luật hình sự.
Với vai trò là để thay thế hoặc hỗ trợ hình phạt, nhưng các
biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự rất quan trọng
trong pháp luật hình sự, có ảnh hưởng lớn đến công tác phòng ngừa
tội phạm, xử lý các trường hợp đặc biệt mà nếu như không có nó thì

không giải quyết được. Nghiên cứu về lý luận các biện pháp tư pháp
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nguồn gốc, đặc điểm, vai trò, mục đích
của các biện pháp tư pháp.
8


Những hạn chế về mặt lý luận hiện nay về các biện pháp tư
pháp đã gây trở ngại cho việc quy định, việc áp dụng và thi hành các
biện pháp tư pháp, làm cho hiệu quả của công tác phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm đạt hiệu quả chưa cao.

9


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC
BIỆN PHÁP TƯ PHÁP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH LONG AN
2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các biện
pháp tư pháp
2.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng tám năm 1945 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
2.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1999 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
2.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm
2015 đến nay
2.1. 4.1. Các biện pháp tư pháp áp dụng chung đối với người
phạm tội

Khái niệm: Biện pháp tư pháp (chung) là biện pháp cưỡng
chế về hình sự, được quy định trong Bộ luật hình sự, do các cơ quan
tiến hành tố tụng áp dụng đối với người phạm tội cũng như người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần
hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm.
Biện pháp tư pháp áp dụng chung cho người phạm tội được
quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi
bổ sung năm 2017, gồm có các biện pháp như sau:
(1) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm;
10


(2) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại;
(3) Buộc công khai xin lỗi;
(4) Bắt buộc chữa bệnh .
Điều kiện áp dụng các biện pháp tư pháp theo quy định của
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
2.1.4.2. Biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân
thương mại phạm tội
Biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại
phạm tội được quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, gồm:
a) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm;
b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc
công khai xin lỗi;
c) Khôi phục lại tình trạng ban đầu;
d) Thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn

hậu quả tiếp tục xảy ra.
2.1.4.3. Biện pháp tư pháp áp dụng riêng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
Biện pháp tư pháp (riêng) áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội là biện pháp cưỡng chế về hình sự của nhà nước, được
quy định trong Bộ luật hình sự, do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng
khi xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt, căn cứ vào tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Biện pháp tư pháp áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội được quy định tại Điều 96 trong Bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau:
11


1. Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng từ 01 năm đến 02 năm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân
thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một
tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.
2. Người được giáo dục tại trường giáo dưỡng phải chấp
hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, học nghề, lao động, sinh
hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường.
2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp trên địa
bàn tỉnh Long An
Qua khảo sát công tác xét xử, giải quyết các vụ án hình sự
của các cơ quan tư pháp tỉnh Long An, về việc áp dụng các biện
pháp tư pháp trong những năm gần đây (giai đoạn từ năm 2012 đến
năm 2016) như sau:
Bảng thống kê trên cho ta thấy tổng thể về tình hình tội

phạm xảy ra tại địa bàn tỉnh Long An trong 05 năm qua, từ năm 2012
đến năm 2016. Tình hình tội phạm ở các năm có biến động nhưng
không nhiều, điều đó có thể cho ta thấy được việc đấu tranh phòng
chống tội phạm tại địa bàn tỉnh Long An đạt được hiệu quả nhất
định.
Kết quả thống kê trên cho ta thấy được thực trạng áp dụng
hình phạt và các biện pháp tư pháp thay thế hình phạt tại tỉnh Long
An trong 05 năm qua.
Bảng thống kê thể hiện được số bị cáo là người thành niên bị
áp dụng hình phạt là 8.626 bị cáo, không có trường hợp nào bị áp
dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, tỷ lệ bị cáo là người đã
thành niên bị áp dụng hình phạt so với tổng số bị cáo mà Tòa án đã
giải quyết là 86,60 % (8.626/9.960).
12


Tỷ lệ bị cáo chưa thành niên bị áp dụng hình phạt so với
tổng số bị cáo mà Tòa án đã giải quyết là 3,64 % (363/9.960). Tỷ lệ
bị cáo chưa thành niên bị áp dụng hình phạt so với tổng số bị cáo
chưa thành niên mà Tòa án đã giải quyết là 96,28 % (363/377).
Trong 05 năm (từ năm 2012 đến năm 2016) Tòa án nhân dân
hai cấp tỉnh Long An áp dụng biện pháp tư pháp để thay thế hình
phạt đối với 01 bị cáo là người chưa thành niên, với biện pháp tư
pháp được áp dụng là giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Kết quả thống
kê cho thấy tỷ lệ bị cáo bị áp dụng biện pháp tư pháp để thay thế cho
hình phạt so với tổng số bị cáo đã giải quyết trong 05 năm qua là
0,01% (1/9.960). Tỷ lệ bị cáo chưa thành niên bị áp dụng biện pháp
tư pháp để thay thế cho hình phạt so với tổng số bị cáo chưa thành
niên mà Tòa án hai cấp tỉnh Long An đã giải quyết trong 05 năm qua
là 0,26% (1/377).

Bảng thống kê này cho ta thấy thời gian qua, Tòa án nhân
dân các cấp tỉnh Long An trong xét xử chủ yếu là áp dụng hình phạt,
hiếm khi áp dụng biện pháp tư pháp để thay thế hình phạt. Cũng từ
đây, chúng ta có thể thấy rằng các biện pháp tư pháp được áp dụng
để thay thế hình phạt ít được Tòa án địa phương quan tâm xem xét,
áp dụng.
Theo bảng thống kê số bị can bị Viện kiểm sát nhân dân các
cấp tỉnh Long An áp dụng các biện pháp tư pháp “Bắt buộc chữa
bệnh” từ năm 2012 đến năm 2016 là rất ít, bởi vì biện pháp tư pháp
bắt buộc chữa bệnh chỉ được áp dụng trong trường hợp đặc biệt là
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mắc bệnh tâm thần
hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi.
13


Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp để hỗ trợ hình phạt
chiếm tỷ lệ cao trong số các vụ án đã xét xử trên địa bàn tỉnh Long
An. Kết quả khảo sát 45 bản án của Tòa án các cấp tại tỉnh Long An
cho thấy số các bản án có áp dụng biện pháp tư pháp là 26 (15+11)
bản án, chiếm tỷ lệ là 57,7%. Trong đó, biện pháp tư pháp “Tịch thu
vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm” được áp dụng là 15, chiếm
tỷ lệ 33,3% và biện pháp tư pháp “Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại” được áp dụng là 11 chiếm tỷ lệ 24,4%.
Bảng thống kê cho ta thấy Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các
biện pháp tư pháp hình sự để hỗ trợ hình phạt nhiều hơn cấp phúc
thẩm, cụ thể: cấp sơ thẩm áp dụng là 21/30 bản án, chiếm tỷ lệ là
70%. Cấp phúc thẩm ít áp dụng hơn cấp sơ thẩm, vì chỉ áp dụng khi
có kháng cáo, kháng nghị đối với việc áp dụng các biện pháp tư
pháp, số lượng bản án phúc thẩm có áp dụng là 5/15, chiếm tỷ lệ là

33.33%.
Bảng thống kê 2.3 cho ta thấy việc áp dụng biện pháp tư
pháp có nhiều hạn chế, thiếu sót như:
- Tịch thu sung quỹ có 08/13 bản án áp dụng đủ căn cứ pháp
luật (Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình
sự), chiếm tỷ lệ là 61,38%; có 5/13 bản án áp dụng thiếu căn cứ pháp
luật chiếm tỷ lệ là 38,46%;
- Tịch thu và tiêu hủy có 3/4 bản án áp dụng đủ căn cứ pháp
luật (Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình
sự), chiếm tỷ lệ là 75% và 1/4 bản án áp dụng thiếu căn cứ pháp luật
chiếm tỷ lệ là 25%;
- Biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại có 5/11 bản án áp dụng đủ căn cứ pháp luật (Điều 42 Bộ luật
hình sự và quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ
14


luật dân sự), chiếm tỷ lệ là 45,45% và 6/11 bản áp dụng thiếu căn cứ
pháp luật, chiếm tỷ lệ là 54,55%.
Từ thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp, bên cạnh những kết
quả đạt được, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tại tỉnh
Long An khi áp dụng các biện pháp tư pháp vẫn còn có những
trường hợp sai sót cần tiếp tục khắc phục.
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong quy định, áp dụng và
thi hành các biện pháp tư pháp
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong quy định các biện pháp
tư pháp
Thứ nhất, các biện pháp tư pháp hình sự với tên gọi như hiện
nay là “Tịch thu tiền, vật”, “Trả lại tài sản” hoặc là “Buộc công khai
xin lỗi”… không chỉ được quy định trong pháp luật hình sự, mà còn

được quy định trong pháp luật hành chính, pháp luật dân sự.
Thứ hai, Việc áp dụng các biện pháp tư pháp do Hội đồng
xét xử tự xem xét, đánh giá và quyết định vì có một số biện pháp
không có định lượng cụ thể, dẫn đến việc áp dụng gặp khó khăn,
nhất là các biện pháp áp dụng để thay thế hình phạt, dễ dẫn đến áp
dụng không chính xác.
Thứ ba, biện pháp tư pháp tịch thu tiền, tài sản trực tiếp liên
quan đến tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, nhưng việc
quyết định sung quỹ nhà nước (sung vào ngân sách nhà nước) hay
tịch thu tiêu hủy vật chứng (tiền, tài sản trực tiếp liên quan đến tội
phạm) được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự là chưa hợp lý.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng biện pháp tư
pháp
2.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng biện pháp tư
pháp để thay thế cho hình phạt
15


2.3.2.2. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng biện pháp tư
pháp để hỗ trợ hình phạt
2.3.3. Những tồn tại, hạn chế trong thi hành biện pháp tư
pháp
2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực
tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp
Nguyên nhân thứ nhất, quy định của pháp luật hiện nay thì
các biện pháp tư pháp không khác gì so với các biện pháp chế tài dân
sự, hành chính, khó phân biệt được đâu là chế tài dân sự, hành chính
hay biện pháp tư pháp, nên cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ngại áp
dụng.
Nguyên nhân thứ hai, do trình độ nhận thức của người tiến

hành tố tụng còn hạn chế, chưa có đầy đủ bản lĩnh nên còn ngại trong
việc áp dụng biện pháp tư pháp hình sự, nhất là các biện pháp tư
pháp thay thế cho hình phạt.
Nguyên nhân thứ ba, Việc tổ chức, đầu tư, trang bị phương
tiện cho cơ quan thi hành biện pháp tư pháp còn hạn chế, nên hiệu
quả thi hành biện pháp tư pháp chưa cao.
Nguyên nhân thứ tư, cho đến nay ngành Tòa án vẫn chưa có
tổng kết nào về việc áp dụng các biện pháp tư pháp.

16


Kết luận chương 2
Việc áp dụng các biện pháp tư pháp đúng pháp luật không
làm mất đi tính nghiêm minh của pháp luật, mà còn góp phần tạo
được những điều kiện thuận lợi giúp cho người phạm tội nhanh
chóng khắc phục, sửa chữa sai lầm, cố gắng hoàn lương để trở thành
người có ích cho xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ
chức đoàn thể liên quan và nhất là bản thân người được áp dụng biện
pháp tư pháp thay đổi về nhận thức, điều chỉnh hành vi của bản thân
để có cách xử sự đúng mực. Đây chính là mục đích của chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy vậy, việc áp dụng các biện pháp tư pháp còn nhiều hạn
chế, áp dụng không chính xác, thiếu thống nhất và không đúng với
quy định của pháp luật. Điều này làm giảm tác dụng các biện pháp tư
pháp, ảnh hưởng đến vai trò và ý nghĩa của các biện pháp tư pháp
trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Vấn đề này
còn rất nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính phải kể đến là
do pháp luật còn thiếu những quy định cụ thể và chặt chẽ, thiếu sự
giải thích và hướng dẫn kịp thời của cơ quan có thẩm quyền. Một số

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn hạn chế về năng lực xét xử,
thiếu tinh thần trách nhiệm, sợ áp lực của công việc như kiểm điểm,
giải trình, sợ dư luận xã hội,…
Để nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp trong
hoạt động xét xử các vụ án hình sự, chúng ta cần tiến hành đồng bộ
các mặt công tác như xây dựng pháp luật, hoàn thiện các quy định về
các biện pháp tư pháp; quy định trình tự, thủ tục xét giảm thời gian
chấp hành và quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan, tổ chức trực tiếp giám sát, giáo dục người chấp hành biện
pháp tư pháp; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn
17


nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân, đặc biệt thường xuyên tổ chức các cuộc hội nghị,
tổng kết rút kinh nghiệm về việc áp dụng các biện pháp tư pháp trong
hoạt động xét xử các vụ án hình sự.

18


Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
3.1. Hoàn thiện quy định, hướng dẫn, giải thích để áp
dụng thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự về các biện
pháp tư pháp
3.1.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các
biện pháp tư pháp
3.1.2. Hướng dẫn, giải thích để áp dụng thống nhất các

quy định của Bộ luật hình sự về các biện pháp tư pháp
3.2. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ các cơ quan tiến
hành tố tụng, cơ quan thi hành các biện pháp tư pháp
3.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành các biện pháp
tư pháp
3.4. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng, thi hành các
biện pháp tư pháp
3.5. Các biện pháp khác để bảo đảm áp dụng các biện pháp
tư pháp đúng quy định của pháp luật hình sự
3.5.1. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của các cơ
quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành biện pháp tư pháp
3.5.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật
3.5.3. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với
công tác tư pháp

19


Kết luận chương 3
Để nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp tư pháp trong
giải quyết, xét xử các vụ án hình sự, chúng ta cần tiến hành đồng bộ
các mặt công tác như: hướng dẫn, giải thích, áp dụng thống nhất các
quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 để hoàn thiện các quy định
các biện pháp tư pháp hình sự; tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng
các biện pháp tư pháp hình sự, phát huy hơn nữa những mặt làm
được, khắc phục những hạn chế, tồn tại trong quá trình áp dụng, thi
hành các biện pháp tư pháp; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ
có chức danh tư pháp, đặc biệt là thường xuyên tổ chức các cuộc hội

nghị, tổng kết rút kinh nghiệm về chuyên môn, trong đó có việc áp
dụng, thi hành các biện pháp tư pháp trong giải quyết các vụ án hình
sự. Song, để chế định các biện pháp tư pháp được thực thi có hiệu
quả, ngoài các công tác trên thì cần có những biện pháp khác để bảo
đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự như: Nâng cao
chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự; xây dựng cơ chế
phối hợp đảm bảo thi hành hiệu quả công tác giám sát, giáo dục
người được áp dụng các biện pháp tư pháp; tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thi hành các biện pháp tư pháp; tăng cường
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

20


KẾT LUẬN
Quản lý xã hội và đảm bảo ổn định trật tự xã hội thông qua
hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm là hoạt động quan trọng,
thể hiện thông qua chính sách hình sự để trấn áp tội phạm, đồng thời
giáo dục người phạm tội thông qua việc quy định, áp dụng hiệu quả
các hình phạt và các biện pháp tư pháp, nhằm trừng trị hành vi phạm
tội, kết hợp chặt chẽ tính nhân đạo, nhằm cải tạo những người lầm lỡ
mà nhất thời phạm tội có điều kiện sửa chữa sai lầm và tái hòa nhập
cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội. Các biện pháp tư pháp
còn có chức năng bảo vệ cho lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại, của những người khác trong vụ án hình
sự.
Biện pháp tư pháp là một chế định pháp lý được hình thành
và phát triển trong pháp luật hình sự nước ta tương đối sớm, với vai
trò là biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong Bộ luật
hình sự, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt. Biện pháp tư

pháp được khẳng định là một biện pháp cải tạo, giáo dục người phạm
tội, phòng ngừa tội phạm có hiệu quả và có ưu thế trên nhiều mặt.
Tuy nhiên, không vì thế mà áp dụng biện pháp tư pháp thay
thế cho hình phạt một cách phổ biến, tràn lan, mà đòi hỏi cơ quan tư
pháp khi áp dụng biện pháp tư pháp buộc phải dựa trên những căn cứ
theo luật định. Nếu áp dụng đúng đắn, chính xác các biện pháp tư
pháp sẽ có tác dụng tốt trong cải tạo, giáo dục người phạm tội thành
người có ích cho xã hội, phòng ngừa tội phạm. Ngược lại, nếu áp
dụng biện pháp tư pháp không đúng, không thực hiện tốt công tác
theo dõi, giám sát, giáo dục người được áp dụng biện pháp tư pháp
sẽ gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt.
21


Hiện nay, đất nước ta đã và đang thực hiện công cuộc đổi
mới với xu thế hòa nhập trong khu vực và thế giới, nền kinh tế phát
triển nhanh, hệ thống pháp luật của ta nói chung và luật hình sự nói
riêng đã bộc lộ những khuyến điểm cần phải sửa đổi cho phù hợp.
Xét trên phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng chế định
các biện pháp tư pháp trong thời gian qua, vẫn còn tồn tại những bất
hợp lý, chưa phù hợp, chưa đáp ứng nhu cầu công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm. Chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu
hơn về mặt lý luận, quy định của pháp luật, áp dụng và thi hành các
biện pháp tư pháp, để kịp thời đề xuất những ý kiến, kiến nghị về
việc sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật về các biện pháp tư
pháp, góp phần nâng cao hiệu quả của pháp luật hình sự trong đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Từ thực tiễn giải quyết và xét xử các vụ án hình sự trong thời
gian qua cho thấy các biện pháp tư pháp áp dụng để hỗ trợ hình phạt
được áp dụng nhiều, các biện pháp tư pháp áp dụng để thay thế hình

phạt ít được quan tâm, ít được áp dụng. Vì vậy, trong thời gian tới
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Long An cần quan tâm nhiều hơn đến
việc áp dụng biện pháp tư pháp để thay thế hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, tại chương 1 chúng tôi đã
cố gắng làm rõ khái niệm khoa học, bản chất của chế định biện pháp
tư pháp trong pháp luật hình sự Việt Nam, các quan điểm khác nhau
về biện pháp tư pháp, phân biệt biện pháp tư pháp với các biện pháp
cưỡng chế nhà nước khác, ý nghĩa của biện pháp tư pháp trong chính
sách hình sự nước ta. Đồng thời luận văn cũng đi sâu phân tích luật
thực định của biện pháp tư pháp và thực tiễn áp dụng biện pháp tư
pháp tại tỉnh Long An trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm
22


2016, để làm rõ nguyên nhân dẫn đến những mặt tồn tại trong quá
trình áp dụng và thi hành biện pháp tư pháp.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài “Các biện pháp
tư pháp theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An”
để nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá và đưa ra giải pháp hoàn thiện chế
định này. Với tinh thần và quyết tâm cố gắng nổ lực hết mình của
bản thân, với khả năng còn hạn chế nhất định sẽ còn nhiều sai sót.
Nhưng với hoài bảo mong muốn đóng góp một phần công sức của
mình vào việc hoàn thiện hơn nữa và trở thành chế định pháp luật
thực sự khoa học và đúng đắn.
Tác giả tin rằng hướng đề xuất các giải pháp bảo đảm áp
dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư
pháp được nêu trong luận văn này sẽ là tiền đề nghiên cứu tiếp theo
và ứng dụng khắc phục những bất cập, vướng mắc, qua đó sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp tư pháp trong

thực tế.

23


×