VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIỆU THỊ NGÂN HÀ
TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG
Chuyên ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Mã số: 60.38.01.04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2017
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Beo
Phản biện 1: PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ họp tại Học viện khoa học xã hội
9 giờ 45 ngày 11 tháng 10 năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam sau khi nhiều năm thực hiện công cuộc đổi mới
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội. Bên cạnh sự
phát triển của nền kinh tế thì hoạt động xây dựng pháp luật cũng
được tăng cường và phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là pháp luật hình
sự đối với các tội về ma tuý đã luôn được sửa đổi và bổ sung với
hướng ngày càng cụ thể và nghiêm khắc hơn nhằm đáp ứng yêu cầu
của cuộc đấu tranh phòng chống các tội phạm này. Vì lý do đó tác
giả chọn đề tài: Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang làm luận văn tốt nghiệp
cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để tìm hiểu nguyên nhân tội phạm ma tuý không giảm là một
vấn đề đang là sự quan tâm của toàn xã hội, một giải pháp hết sức
quan trọng là cần phải có giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm ma tuý, tạo
cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi phạm tội về ma tuý. Tội
phạm về ma tuý đã được nhiều tác giả nghiên cứu với nhiều tên đề
tài khác nhau: “Đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Cần Thơ” của
thạc sĩ Nguyễn Thúy Hằng năm 2012 ; luận văn cao học “Đấu tranh
phòng chống các tội phạm về ma túy trên đại bàn quận Lê Chân,
thành phố Hải Phòng” của thạc sĩ Đào Thị Huệ năm 2011; “Kiểm
sát điều tra các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma
túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh” của thạc sĩ Lê Viễn Phương. Các công trình nghiên
1
cứu đó gắn với một địa bàn tỉnh thành cụ thể của cả nước. Đề tài “tội
tàng trữ trái phép chất ma tuý theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Tiền Giang” là một nghiên cứu chuyên sâu về hành vi
tàng trữ trái phép chất ma tuý trong điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội
trên một địa bàn cụ thể của tỉnh Tiền Giang được luật hình sự quy
định là tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá đúng thực tiễn tội tàng trữ trái phép chất ma tuý trên
địa bàn tỉnh Tiền Giang cũng như thực trạng hoạt động định tội danh
và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội tàng trữ trái phép chất ma
tuý trên địa bàn tỉnh Tiền Giang; đưa ra các giải pháp bảo đảm áp
dụng đúng pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ cụ thể
cần giải quyết sau đây:
- Khái quát lịch sử hình thành và hoàn thiện các quy phạm
pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, thể hiện rõ
được các khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng
trữ trái phép chất ma tuý.
- Phân tích các quy định pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái
phép chất ma tuý.
- Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự xử lý
tội tàng trữ trái phép chất ma tuý trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
2
Đối tượng nghiên cứu đề tài là quy định về tội tàng trữ trái
phép chất ma tuý theo pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn tại
tỉnh Tiền Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các quy định của BLHS năm
1999 BLHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn áp dụng thực hiện.
Các số liệu phục vụ kết quả nghiên cứu được thu thập từ kết quả xét
xử hai cấp của Tòa án tại tỉnh Tiền Giang trong thời gian từ năm
2012 – 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Các quan điểm, chính sách của Đảng,
pháp luật hình sự để tìm hiểu, đánh giá các vấn đề lý luận chung về
tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và đưa ra giải pháp hoàn thiện.
- Để hoàn thành luận văn tác giả còn sử dụng phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh đối chiếu,
chứng minh, đánh giá và một số phương pháp khác liên quan nhằm
làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực tiễn của đề tài.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Khi nghiên cứu đề tài: Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang làm rõ được
những cơ sở khoa học, cơ sở lý luận và đánh giá được thực trạng của
tội này từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang. Qua đó đề xuất giải pháp hoàn
thiện khi áp dụng đúng pháp luật hình sự để xử lý tội tàng trữ trái
phép chất ma tuý.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
3
Trên cơ sở nghiên cứu tác giả nêu lên những hạn chế, vướng
mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để xử lý tội tàng trữ trái phép
chất ma tuý từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang trong công tác xét xử và
hướng hoàn thiện sẽ có ý nghĩa nhất định trong việc lựa chọn căn cứ
để áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma
tuý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận
chung, luận văn gồm có 03 ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tàng trữ
trái phép chất ma tuý theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình
sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý tại tỉnh Tiền Giang.
Chương 3: Nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất
ma tuý.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội tàng trữ trái
phép chất ma tuý
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, chỉ có luật hình sự mới
quy định tội phạm và hình phạt. Luật hình sự Việt Nam được hình
thành từ hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan
hệ liên quan đến việc xác định tội phạm và hình phạt. Hành vi tàng
trữ trái phép chất ma túy được quy định là tội phạm đầu tiên trong
BLHS năm 1985, trước đó chưa được coi là tội phạm.
1.1.1. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép
chất ma tuý trước khi BLHS năm 1985 được ban hành
Ngay sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được
thành lập, nhận thức được tác hại do ma túy gây ra nên ngày
10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 47/SL tạm thời giữ
lại một số luật lệ cũ quy định về các tội phạm ma túy không trái với
nội dung chính thể cộng hòa. Đến ngày 05/3/1952 Thủ tướng chính
phủ ban hành Nghị định số 150/TTg quy định việc xử lý đối với
những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Ngày 22/12/1952
Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định số 255/TTg quy định
những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện bị xử lý.
Ngày 15/9/1955 Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định số
580/TTG bổ sung Nghị định số 150/TTg, quy định những trường hợp
có thể bị đưa ra Tòa án để xét xử [20].
Các quy phạm quy định trực tiếp về tội phạm và hình phạt đối
với các tội phạm về ma tuý ở giai đoạn này chưa rõ ràng và tách hẳn
5
với các lĩnh vực pháp luật khác. Các quy định của pháp luật về
phòng, chống các tội phạm về ma tuý ở giai đoạn này chỉ mới được
hình thành ở dạng sơ khai, chưa rõ nét.
1.1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam tội tàng trữ trái phép chất
ma tuý theo BLHS năm 1985
Nghiên cứu các quy định của pháp luật trong giai đoạn này có
thể thấy các quy định của pháp luật đối với tội tàng trữ trái phép chất
ma tuý đã phát triển và từng bước được hoàn thiện nhưng chưa đầy
đủ, chưa có một cơ quan chuyên trách, các hành vi phạm tội liên
quan đến ma tuý vẫn chỉ được các cơ quan chức năng tiến hành đấu
tranh phòng ngừa như những tội phạm thông thường. Việc ưu tiên
các điều kiện, phương tiện kỹ thuật cũng như các điều kiện khác
chưa được chú ý. Vì thế hiệu quả đấu tranh phòng, chống đối với loại
tội phạm này không cao [20].
1.1.3. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép
chất ma tuý theo BLHS năm 1999
BLHS năm 1999 được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21/12/1999 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2000. Trong BLHS năm 1999, tội tàng trữ trái
phép chất ma túy được quy định tại Điều 194 lồng ghép với tội vận
chuyển, mua bán trái phép và chiếm đoạt chất ma túy, trong chương
XVIII – các tội phạm về ma túy.
- Điểm mới của BLHS năm 1999 không quy định tình tiết
chuyển khung hình phạt nặng hơn khi có nhiều tình tiết định khung
tăng nặng của khung tăng nặng thấp hơn và sửa đổi tình tiết định
khung tăng nặng “sử dụng người chưa thành niên vào việc phạm
pháp” thành “sử dụng trẻ em vào việc phạm tội”; lạo bỏ tình tiết “thu
lợi bất chính lớn” và “có tính chất chuyên nghiệp”.
6
1.1.4. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép
chất ma túy theo BLHS năm 2015
BLHS năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015. Trong
BLHS năm 2015, tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại
Điều 249, Chương XX, các tội phạm về ma túy. So với BLHS năm
1999 tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định thành một điều
luật riêng và quy định hành vi phạm tội cụ thể trong từng khung hình
phạt không phải căn cứ vào văn bản hướng dẫn như trước đây;
khoảng cách giữa các khung hình phạt được rút ngắn hơn; không áp
dụng hình phạt tử hình đối với loại tội này; quy định thêm một số
chất ma túy mới vào tội danh và thay đổi đơn vị tính từ “trọng
lượng” thành “khối lượng”.
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ trái
phép chất ma tuý
1.2.1. Một số khái niệm liên quan đến tội tàng trữ trái phép
chất ma tuý
* Chất ma tuý: là các chất gây nghiện, chất hướng thần được
quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành
* Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, để
gây ra tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
* Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc
gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn đến tình trạng nghiện
đối với người sử dụng.
1.2.1.1. Khái niệm
* Tàng trữ chất ma tuý: là việc cất giữ, cất giấu chất ma tuý ở
bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong
vali, cho vào thùng xăng xe, cất giấu trong quần áo, tư trang mặc trên
7
người hoặc theo người …) mà không nhằm mục đích mua bán, vận
chuyển hay sản xuất trái phép chất ma tuý. Thời gian tàng trữ dài hay
ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này [4].
1.2.1.2. Khái niệm tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Từ khái niệm tội phạm theo Điều 8 Bộ luật hình sự có thể đưa
ra khái niệm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý như sau:
Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện việc cất giữ trái phép chất ma tuý một
cách cố ý, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của
Nhà nước.
1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ trái phép chất
ma tuý
Cơ sở của TNHS chính là cấu thành tội phạm với đầy đủ các
dấu hiệu luật định về khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và
chủ thể của tội phạm. Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu
hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy
định trong luật hình sự. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy
định tại Điều 249 BLHS năm 2015.
1.2.2.1. Khách thể
Khách thể của tội tàng trữ trái phép chất ma tuý là chế độ độc
quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Đối tượng của tội
phạm này là các chất ma tuý và các nguyên liệu thực vật có chứa
chất ma tuý. Do vậy, mọi hành vi vi phạm các quy định về chế độ
độc quyền quản lý chất ma tuý đều bị coi là tội phạm và bị xử lý
nghiêm khắc.
1.2.2.2. Mặt khách quan
8
Bất cứ một tội phạm nào khi xảy ra đều tồn tại bên ngoài thế
giới khách quan. Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi
nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc phải có của cấu thành tội
phạm; còn hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả cũng như các điều kiện bên ngoài khác có
thể bắt buộc, hoặc không bắt buộc. Mặt khách quan của tội tàng trữ
trái phép chất ma tuý thể hiện ở hành vi tàng trữ trái phép chất ma
tuý.
1.2.2.3. Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của tội tàng trữ trái phép chất ma tuý được thực
hiện do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm,
thấy trước được tác hại của hành vi phạm tội của mình gây ra nhưng
vẫn thực hiện. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ có
thể thực hiện do cố ý trực tiếp, không có trường hợp nào do cố ý gián
tiếp [20].
1.2.2.4. Chủ thể
Chủ thể phải chịu TNHS theo quy định tại Điều 249 BLHS
năm 2015 là bất kỳ ai đạt độ tuổi theo luật định, có năng lực TNHS
được quy định tại điều 12 BLHS năm 2015 đã được sửa đổi thì người
từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm;
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS đối với tội rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng được quy định ở các khung
tăng nặng từ khoản 2 trở lên quy định tại điều 249 BLHS.
1.3. Chế tài đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy
BLHS năm 2015 quy định các tội tàng trữ trái phép chất ma
túy tại điều 249 gồm có 05 khung hình phạt, trong đó có khung hình
phạt bổ sung. Đây là tội phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội, do
vậy nhà làm luật quy định các hình phạt rất nghiêm khắc đối với
9
những tội phạm này khởi điểm khung hình phạt được xác định là tội
phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng với
mức án cao nhất là tù chung thân. Ngoài ra còn quy định hình phạt
bổ sung như sau:
- Phạt tiền từ 5.000.000.000đồng đến 500.000.000đồng
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định với mức từ một năm đến năm năm hoặc tịch một phần hoặc
toàn bộ tài sản.
1.3.1. Chế tài theo khung cơ bản
Được quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. So với
quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 thì tội tàng trữ trái phép chất
ma tuý được quy định thành một điều luật riêng, khung cơ bản được
quy định từ 01 năm đến 05 năm, khoảng cách khung hình phạt có sự
cân đối hơn so với quy định của BLHS năm 1999 và cấu thành cơ
bản của tội phạm được quy định chi tiết cụ thể hơn, không phải dựa
vào văn bản hướng dẫn. Đây là điểm mới tiến bộ của BLHS năm
2015.
1.3.2. Chế tài theo các khung tăng nặng
Khung hình phạt tăng nặng gồm có 03 khung được quy định
tại khoản 2, 3 và 4 điều 249 BLHS năm 2015. Khung 2 được quy
định mức hình phạt từ 05 năm đến 10 năm; khung 3 từ 10 năm đến
15 năm và khung 4 được quy định từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù
chung thân dựa vào khối lượng chất ma túy thu giữ. Tội tàng trữ trái
phép chất ma túy được quy định tại điều 249 BLHS năm 2015 không
áp dụng hình phạt tử hình.
1.3.3 Hình phạt bổ sung
Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được
quy định trong BLHS nhằm mục đích giáo dục, cải tạo và ngăn ngừa
10
người bị kết án phạm tội mới. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS: “5. Người phạm tội còn
có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
1.4. Phân biệt tội tàng trữ trái phép chất ma tuý với các tội
vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt chất ma tuý.
Theo hướng dẫn TTLT số 17 ngày 24/12/2007 của BCA –
VKSNDTC – TANDTC – BTP:
- Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý: là hành vi cất giữ, cất giấu
bất hợp pháp chất ma tuý ở bất cứ nơi nào mà không nhằm mục đích
mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý.
- Tội vận chuyển trái phép chất ma tuý: là hành vi chuyển dịch
bất hợp pháp chất ma tuý từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang
vị trí khác, từ người này sang người khác dưới bất cứ hình thức nào
mà không nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất
ma túy.
- Tội mua bán trái phép chất ma tuý là bán hay mua để bán lại,
vận chuyển ma túy để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc
để sản xuất ra chất ma túy khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma
túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng hàng hóa để đổi lấy ma túy.
- Tội chiếm đoạt chất ma túy: là một trong các hành vi trộm
cắp, lừa đảo, tham ô, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp
giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma túy của người khác.
Kết luận Chương 1
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý được quy định khá sớm
trong các văn bản quy phạm pháp luật hình sự của Nhà nước ta và
được quy định là tội phạm trong BLHS năm 1985 và ngày càng được
11
hoàn thiện, gắn liền với quá trình lịch sử phát triển của đất nước ở
một giai đoạn nhất định, tội này được quy định thành tội danh độc
lập, có khi ghép với các nhóm tội khác cho phù hợp với thực tiễn áp
dụng. Hiện nay, BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 có lực pháp
luật vào ngày 01/01/2018, trong đó tội tàng trữ trái phép chất ma túy
được quy định thành một điều luật với tội danh riêng tại Điều 249 đã
kế thừa và khắc phục những hạn chế trong các quy định trước đây.
12
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
TẠI TỈNH TIỀN GIANG
2.1. Thực tiễn định tội danh
Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự nhằm đạt được chân lý khách quan trên cơ sở
xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội
đã thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự
quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối quan hệ tương đồng
giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của
hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn
nhất định.
2.1.1. Thực tiễn định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ
bản
Định tội danh là quá trình đối chiếu những tình tiết thực tế của
tội phạm đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành của một
loại tội phạm nhất định. Tội phạm là một thể thống nhất gồm bốn
yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan, các yếu
tố này quan hệ chặt chẽ với nhau.
2.1.1.1. Định tội danh theo khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là một thành phần không thể thiếu
trong bất kỳ một tội phạm nào. Khách thể của tội tàng trữ trái phép
chất ma túy là hành vi xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của
Nhà nước về chất ma tuý, trực tiếp là hoạt động tàng trữ trái phép các
chất ma tuý.
2.1.1.2. Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm
13
Mặt khách quan là mặt bên ngoài của hành vi phạm tội do luật
hình sự quy định bao gồm: Hành vi phạm tội, hậu quả nguy hại và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra.
Ngoài ra, còn có các dấu hiệu khác cũng đặc trưng cho mặt khách
quan của tội phạm, đó là hoàn cảnh, thời gian, công cụ, phương tiện
phạm tội …
2.1.1.3. Định tội danh theo chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người thực hiện tội phạm và có những
dấu hiệu (đặc điểm) được nêu trong pháp luật hình sự, độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự: “1.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng”.
2.1.1.4. Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là
thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội do họ thực hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội
hoặc đối với khả năng gây ra hậu quả đó.
* Những quan điểm chưa thống nhất trong định tội danh
theo cấu thành cơ bản:
+ Định tội danh chưa đúng theo văn bản hướng dẫn: Theo
Thông tư liên tịch số 17 ngày 24/12/2007: Tàng trữ chất ma túy
nhằm mục đích bán trái phép cho người khác thì xử lý theo tội mua
bán trái phép chất ma túy nhưng chỉ xử lý về tội tàng trữ trái phép
chất ma túy.
+ Chưa thống nhất trong quan điểm trong định tội danh do
đánh giá chứng cứ.
2.1.2 Thực tiễn định tội danh theo các khung tăng nặng
14
Được quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 194 Bộ luật hình sự:
2.2. Những hạn chế, bất cập từ thực tiễn xử lý tội tàng trữ
trái phép chất ma tuý tại Tiền Giang
Thứ nhất: Từ quy định của BLHS và văn bản hướng dẫn:
- Do văn bản hướng dẫn chưa đúng với quy định của BLHS
dẫn đến có nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình giải quyết vụ
án do trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy.
Thứ hai: Do quan điểm khác nhau của người áp dụng
pháp luật:
- Thực hiện Công văn 110, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám
định, tuy nhiên, có nơi Toà án khi nhận hồ sơ vụ án có kết luận giám
định “chứa thành phần” nhưng vẫn đưa ra xét xử.
Thứ ba: Do năng lực trình độ người áp dụng pháp luật chưa
đúng quy định, vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến không xử lý được
hành vi vi phạm.
Kết luận Chương 2
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hoạt động áp dụng pháp
luật trong giai đoạn xét xử vẫn còn những hạn chế nhất định dẫn đến
kéo dài thời hạn giải quyết vụ án, không đúng quy định làm ảnh
hưởng đến tinh thần đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
15
Chương 3
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
3.1. Nguyên nhân hạn chế, bất cập
Thứ nhất: Do văn bản hướng dẫn chưa phù hợp với tinh thần
của Bộ luật hình sự.
- Do văn bản hướng dẫn không đúng với quy định của BLHS
về việc xác định hàm lượng chất ma tuý
Do văn bản hướng dẫn chưa đúng quy định của BLHS không
quy định việc xác định hàm lượng chất ma tuý nên có sự khác nhau
về quan điểm của các ngành tố tụng về trọng lượng và hàm lượng
chất thu giữ làm căn cứ giải quyết vụ án nên mỗi ngành đều có văn
bản hướng dẫn riêng.
- Việc quy định tại Điều 194 BLHS hiện hành chưa đảm bảo
nguyên tắc phân hoá TNHS và hình phạt.
Qua thực tế áp dụng thì thấy việc quy định này cũng bộc lộ
nhiều điều bất cập và không đảm bảo nguyên tắc cá thể hoá trách
nhiệm và hình phạt vì thực tế thì các hành vi này luôn đan xen với
nhau, hành vi này là tiền đề cho hành vi kia, hình phạt quy định tại
Điều 194 BLHS có khung hình phạt rất cao tới tử hình nếu chúng ta
không cá thể hoá cụ thể từng hành vi trường hợp nào là tàng trữ, vận
chuyển, chiếm đoạt và mua bán thì việc áp dụng hình phạt sẽ không
đảm bảo nguyên tắc công bằng, nhân đạo, không phù hợp với chính
sách hình sự của Nhà nước ta, đặc biệt là không đúng với nguyên tắc
phân hoá TNHS mà BLHS đã quy định.
16
- Việc quy định về định lượng các chất ma tuý không đảm bảo
nguyên tắc công bằng.
Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (Điều 194) được chia khung
hình phạt làm bốn khoản chính và một khoản quy định hình phạt bổ
sung, định lượng chất ma tuý được quy định từ ít đến nhiều để làm
tình tiết định khung và là căn cứ để áp dụng mức hình phạt từ thấp
đến cao.
Thứ hai: Do năng lực trình độ, chuyên môn của cán bộ chưa
đáp ứng được yêu cầu nghiệp vụ như: lập hồ sơ ban đầu chưa chặt
chẽ, chưa tuân thủ những quy định của pháp luật.
Thứ ba: Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc
của các cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu, chưa đảm bảo và chưa
ổn định.
3.2. Yêu cầu và phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Để đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật có hiệu quả trên
thực tế phải quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước, thực hiện các phương hướng, nhiệm vụ được đề ra trong chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như chiến lược xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam định hướng đến năm 2020
với các yêu cầu sau đây:
- Quán triệt chính sách hình sự hướng thiện trong cải cách tư
pháp, coi trọng tính phòng ngừa, giảm hình phạt tù, tăng hình phạt
tiền và hình phạt cải tạo không giam giữ;
- Cụ thể hoá tư tưởng tôn trọng và bảo vệ quyền con người của
Hiến pháp năm 2013; quyền con người; quyền công dân chỉ có thể bị
hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội …;
17
- Đảm bảo tính cụ thể, minh bạch, khả thi trong kỹ thuật lập
pháp; QPPL ban hành phải bảo đảm thuận tiện, dễ áp dụng và có tính
thống nhất trong áp dụng pháp luật;
- Khắc phục những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự những năm qua.
3.3. Các giải pháp cụ thể
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật
- BLHS năm 2015 và Nghị quyết của Quốc hội hướng dẫn
giải quyết án ma túy, không căn cứ vào hàm lượng chất ma túy. Do
đó, cần có kế hoạch kiểm tra rà soát lại các văn bản hướng dẫn áp
dụng pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, thay thế
hoặc bãi bỏ những văn bản có nội dung trái với quy định trên. Đồng
thời hướng dẫn giải quyết án tồn đọng do vướng mắc trong quá trình
thực hiện công văn 234 và công văn 110 của Tòa án.
- Các chất ma túy khác rất đa dạng, do đó cần quy định bổ
sung nằm trong danh mục được hướng dẫn.
- Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung về sử dụng thuật ngữ “trọng
lượng” thành “khối lượng” và bổ sung thêm thuật ngữ “thể tích” đối
với các chất ma tuý ở thể lỏng; có phân biệt giữa quả thuốc phiện
tươi và khô. Để tránh bất cập trong nhận thức nên sớm cần có văn
bản liên ngành hướng dẫn áp dụng khi có hiệu lực pháp luật.
3.3.2. Nâng cao trình độ người áp dụng pháp luật
Thường xuyên giáo dục đạo đức, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật cho cán bộ, đặc biệt cán bộ có chức danh tư pháp để họ nhận
thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của công tác giải quyết án tàng
trữ trái phép chất ma túy.
3.3.3. Các giải pháp khác
18
- Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác tuyên
truyền phòng, chống tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Đầu tư thoả
đáng cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật cho các cơ quan
hoạt động tư pháp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ
quan như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Xây dựng hệ
thống dữ liệu pháp luật, dữ liệu vụ án ma tuý nổi cộm để dùng tham
khảo, và dữ liệu nghiệp vụ phục vụ cho nhu cầu công tác.
- Các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có kế hoạch tập huấn
nghiệp vụ hàng năm để nhận thống nhất thống nhất pháp luật, để
không xảy ra việc nhận thức không thống nhất, cần thống nhất chung
về biện pháp xử lý tránh văn bản đơn ngành.
- Nâng cao nhận thức lý luận và pháp luật, thực hiện đầy đủ
chức năng, nhiệm và thực hiện nghiêm túc các quy định được quy
định trong Bộ luật hình sự, luật Phòng chống ma túy, các văn bản
hướng dẫn xử lý tội phạm về ma túy… Trên cơ sở đó vận dụng linh
hoạt, đúng đắn để xử lý đối với từng bị can, từng hành vi phạm tội,
đầu tư trọng tâm vào các địa bàn trọng điểm về ma túy, xác định
nhiệm vụ cụ thể cho mỗi cấp trong các kế hoạch phòng chống tội
phạm ma túy.
- Có chế độ, chính sách đãi ngộ hợp lý đối với các chức danh
tư pháp để họ yên tâm công tác. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, Tổ chức triển khai các quy định mới của luật đến cán
bộ trong ngành tư pháp.
- Phối hợp với các cơ quan, ban ngành làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và thường xuyên xét xử lưu động
các vụ án hình sự để nâng cao nhận thức pháp luật cho toàn xã hội.
19
Kết luận Chương 3
Từ thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ
án hình sự nói chung và các vụ án về tội tàng trữ trái phép chất ma
tuý nói riêng tại các toà án tỉnh Tiền Giang trong thời gian qua cho
thấy bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế, thiếu
sót nhất định. Do đó, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự về tội phạm ma tuý nói chung, tội
tàng trữ trái phép chất ma tuý nói riêng trong thời gian tới phải đồng
bộ, nhất thống chung trong các ngành tố tụng để địa phương vận
dụng khi xử lý tội phạm. Trong đó giải pháp nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của những người tiến hành tố tụng hình sự,
nhất là đội ngũ Thẩm phán là quan trọng hơn cả để góp phần nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật của Toà án trong việc giải quyết các
vụ án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.
20
KẾT LUẬN
Thực tiễn định tội danh đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma
tuý trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Tiền Giang cho thấy công
tác giải quyết, xét xử luôn được các cấp chú trọng. Số vụ án bị sửa
theo thủ tục phúc thẩm rất ít (không có án bị huỷ). Điều này cho thấy
sự nổ lực rất lớn từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng tại Tiền Giang
nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử. Bên cạnh những kết quả
đạt được, thực tiễn còn một số hạn chế nhất định về quan điểm áp
dụng pháp luật vấn đề cấp thiết đang được tranh cãi giữa các ngành
tố tụng hiện chưa được thống nhất.
Thực tế hiện nay cho thấy còn tình trạng luật đã ban hành
nhưng không thực hiện được do chưa có văn bản hướng dẫn hoặc
tình trạng các điều luật còn chung chung, dẫn đến cách nhận thức
khác nhau trong quá trình áp dụng. Điều đó đã gây ra rất nhiều khó
khăn cho các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nói riêng
trong quá trình tiến hành tố tụng. Thực tế này đặt ra yêu cầu cần thiết
là đẩy mạnh công tác giải thích, hướng dẫn thi hành pháp luật. Tuy
nhiên về lâu dài thì cần có phương hướng xây dựng luật, bộ luật đảm
bảo dễ hiểu, dễ áp dụng. Một vấn đề đặt ra là các cơ quan tư pháp
cần hạn chế và đi đến chấm dứt trình trạng các cơ quan chỉ giải thích,
hướng dẫn pháp luật cho riêng ngành mình. Đồng thời kịp thời bổ
sung các chất ma tuý mới vào danh mục chất ma tuý và tiền chất để
phục vụ kịp thời công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy
trong giai đoạn hiện nay, tránh bỏ lọt tội phạm.
Việc trang bị nền tảng lý luận cơ bản và vững chắc đối với tội
phạm về ma tuý là rất quan trọng. Do vậy, tác giả chọn đề tài nghiên
cứu “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” với mong muốn thông quan đó
21
góp phần hoàn thiện về mặt lý luận của hoạt động phòng, chống tội
phạm nói chung, tội tàng trữ trái phép chất ma tuý nói riêng, đồng
thời nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống tội tàng trữ
trái phép chất ma tuý trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
22