Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ việt nam với ấn độ từ năm 1991 đến năm 2011 tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.32 KB, 24 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Việt Nam với Ấn Độ đã có bề dày trong giao lưu kinh tế, văn
hoá từ hằng nghìn năm lịch sử. Mối quan hệ hữu nghị truyền thống
giữa hai nước được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Jawarhalal
Nehru, đặt nền móng từ những năm 50, thế kỷ XX.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH. Qua các kỳ
Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước củng cố, tăng
cường và phát triển quan hệ với Ấn Độ, luôn coi đó là hướng ưu tiên
trong chính sách đối ngoại của mình. Mối quan hệ hữu nghị truyền
thống tốt đẹp đã được hai nước Việt Nam và Ấn Độ phát triển lên
tầm cao mới đối tác chiến lược (7- 2007) và được thực hiện ngày
càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững.
Đề tài: “Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
từ năm 1991 đến năm 2011”, được nghiên cứu dưới góc độ khoa học
lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đề tài luận
án trình bày một số vấn đề cơ bản về những yếu tố tác động và yêu
cầu khách quan của quan hệ Việt Nam với Ấn Độ. Hệ thống hóa chủ
trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát triển quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ; đồng thời, đưa ra những nhận xét, đúc kết những kinh
nghiệm có ý nghĩa tham khảo cho lĩnh vực hoạt động đối ngoại song
phương với các đối tác trong thời gian tới.
Luận án có bố cục cơ bản gồm: phần mở đầu, tổng quan về
tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án và 3 chương.
Trong đó phần tổng quan trình bày kết quả nghiên cứu từ các công
trình đã công bố có liên quan đến đề tài và làm rõ những "khoảng
trống" cần phải tiếp tục giải quyết trong luận án; chương 1 và chương
2, trình bày chủ trương sự chỉ đạo của Đảng phát triển quan hệ Việt
Nam với Ấn Độ và kết quả thực hiện qua 2 giai đoạn (1991 - 2001)
và (2001 - 2011); chương 3, nhận xét và đúc kết một số kinh nghiệm


từ quá trình Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Cuộc khủng hoảng và tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa
(1991), đặc biệt là của Liên Xô tác động sâu sắc đến toàn bộ tình tình
thế giới trong nhiều năm. Sự kiện này xảy ra buộc các nước phải điều
chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Chủ nghĩa tư bản có thể tạm
thời điều hòa mâu thuẫn, xoa dịu phong trào đấu tranh của công nhân
và nhân dân lao động nhưng không xóa bỏ được cuộc đấu tranh đó.
Trong bối cảnh ấy, Phong trào Không liên kết đứng đầu là Ấn Độ vẫn
là lực lượng chính trị quan trọng đấu tranh cho bình đẳng, chủ quyền
độc lập dân tộc, dân chủ hóa quan hệ quốc tế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quá trình đổi
mới chính sách đối ngoại gắn liền với sự nghiệp đổi mới toàn diện
được khởi xướng từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam (12 - 1986), các Đại hội Đảng và các Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, từ khóa VI đến khóa X,


2
tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đối ngoại với mục
tiêu hòa bình và phát triển, triển khai đường lối đối ngoại rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng (6 - 1991) đã đề ra chủ trương phát triển
quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt với
Ấn Độ. Trong quá trình đó, Đảng luôn nhất quán coi trọng và phát
triển quan hệ hữu nghị, truyền thống...Tiếp tục mở rộng quan hệ với
các nước bạn bè truyền thống, trong đó có Ấn Độ luôn là hướng ưu
tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và xác định rõ tầm
quan trọng chiến lược trong việc tăng cường, phát triển hợp tác với
Ấn Độ, đặc biệt là về hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật. Phát huy

điểm tương đồng trong chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ quốc tế. Nâng cấp quan hệ song phương, duy trì và phát triển ở
tầm cao mới phục vụ thiết thực cho lợi ích quốc gia, dân tộc.
Xuất phát từ tầm quan trọng nhiều mặt của việc phát triển quan
hệ Việt Nam với Ấn Độ trên bình diện song phương cũng như đa
phương, cho thấy nghiên cứu vấn đề Đảng lãnh đạo phát triển quan
hệ Việt Nam với Ấn Độ trong tiến trình đổi mới, có ý nghĩa sâu sắc
cả về phương diện khoa học và thực tiễn. Trên bình diện song
phương, Việt Nam coi trọng giữ gìn mối quan hệ truyền thống hữu
nghị, thủy chung với Ấn Độ trong tiến trình hội nhập và ngày càng đi
vào chiều sâu trong các lĩnh vực ở tầm cao mới. Trên bình diện đa
phương, Việt Nam luôn ủng hộ Ấn Độ làm Ủy viên Thường trực của
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các cơ chế của ASEAN... Ấn Độ
luôn gắn bó, ủng hộ Việt Nam thông qua việc gia nhập ASEAN,
APEC, WTO và là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc, hai bên luôn giúp đỡ và khai thác tiềm năng của nhau để
cùng phát triển. Được trải nghiệm qua thử thách của thời gian, quan
hệ Việt Nam với Ấn Độ đã giành được những kết quả quan trọng, thể
hiện sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, kịp thời, phù hợp với xu thế
chung của thời đại. Có được những kết quả ấy một phần quan trọng
nhờ sự đổi mới tư duy sâu sắc về cục diện thế giới cũng như đường
lối, phương châm hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại của Đảng nói
chung, với Ấn Độ nói riêng. Tuy nhiên, quá trình phát triển quan hệ
Việt Nam với Ấn Độ còn gặp những khó khăn, bất cập của những
nhân tố khách quan và cả trong nhận thức tư duy, nguồn lực của Việt
Nam chưa theo kịp với thực tiễn tình hình khu vực và thế giới, nhưng
không làm thay đổi tiến trình phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
ở thế kỷ mới.
Cho đến nay, ngoài những bài viết và một số cuốn sách có đề
cập ở những mức độ nhất định về vấn đề lịch sử quan hệ Việt Nam Ấn Độ hay quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ dưới góc độ

lý luận quan hệ quốc tế nói chung, thành tựu và triển vọng trong thực
hiện quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước nói riêng, chưa có công
trình nào được công bố, nghiên cứu trực tiếp, có hệ thống và chuyên
sâu dưới góc độ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam về đề tài Đảng


3
lãnh đạo phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ trong thời kỳ đổi
mới. Thực tế đó, đặt ra yêu cầu bức thiết cần nghiên cứu đề tài Đảng
lãnh đạo phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ trong thời kỳ đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH.
Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ trong những năm 1991 –
2011, nhằm luận giải làm rõ yêu cầu khách quan, hệ thống hóa chủ
trương và sự chỉ đạo của Đảng phát triển quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ, nhận xét và rút ra những kinh nghiệm có giá trị tham khảo,
vận dụng vào hoạt động đối ngoại của Đảng trong giai đoạn cách
mạng mới là việc làm cần thiết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Với lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Đảng lãnh
đạo phát triển quan Việt Nam với Ấn Độ từ năm 1991 đến
năm 2011” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ Việt
Nam với Ấn Độ; nhận xét những ưu điểm, hạn chế, rút ra một số kinh
nghiệm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại Việt Nam
với Ấn Độ thời gian tới.
Nhiệm vụ
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án

Nghiên cứu, làm rõ yếu tố tác động đến quá trình phát triển
quan hệ Việt Nam với Ấn Độ.
Trình bày có hệ thống và phân tích, làm rõ chủ trương, quá trình chỉ
đạo của Đảng về phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ.
Nhận xét và rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo
phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2011.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về phát triển quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ
đạo của Đảng về phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ trên các nội
dung trong chính sách, mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, phương châm,
nguyên tắc, nội dung, biện pháp và quá trình chỉ đạo của Đảng về phát
triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ trên các lĩnh vực.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu từ năm 1991 đến tháng 01
năm 2011.
Để vấn đề nghiên cứu có tính hệ thống và so sánh, luận án có
tìm hiểu một số nội dung về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ thời gian
trước năm 1991 và sau năm 2011.
Về không gian: Mối quan hệ hợp tác Việt Nam với Ấn Độ.


4
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đối ngoại của Đảng.
Cơ sở thực tiễn

Luận án nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn quá trình Đảng lãnh
đạo phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ. Các văn bản của Đảng,
Nhà nước, tài liệu của các bộ, ban, ngành, báo chí về quan hệ Việt
Nam với Ấn Độ nhất là trong những năm 1991 - 2011.
Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận án, tác giả sử dụng chủ yếu các
phương pháp: Phương pháp lịch sử, bằng các sự kiện lịch sử và các
mốc thời gian trong đã diễn ra trong quan hệ giữa hai nước, tác giả hệ
thống hóa chủ trương của Đảng trong quan hệ Việt Nam với Ấn Độ,
phương pháp này được sử dụng ở chương 1 và chương 2 trong thời
gian (1991 – 2001 và 2001 – 2011); phương pháp logic, sử dụng để
khái quát, đưa ra những nhận xét và đúc kết một số kinh nghiệm từ
quá trình phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ, tác giả sử thực hiện
ở chương 3. Đồng thời, sử dụng một số phương pháp khác như:
phương pháp phân tích để luận giải chủ trương và chỉ đạo của Đảng
về quan hệ Việt Nam với Ấn Độ; phương pháp tổng hợp, phương
pháp thống kê nhằm làm rõ những số liệu trong thực tiễn quan hệ
giữa hai nước trên các lĩnh vực; sử dụng phương pháp so sánh để
thấy sự phát triển về chủ trương của Đảng về phát triển quan hệ giữa
Việt Nam với Ấn Độ (từ năm 1991 đến năm 2011 có sự phát triển
hơn giai đoạn trước năm 1991). Các phương pháp trên được sử dụng
phù hợp với từng nội dung của luận án.
6. Những đóng góp mới của luận án
Luận án hệ thống hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về
phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ. Đưa ra những nhận xét về
quá trình Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ đối ngoại Việt Nam với
Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2011.
Luận án rút ra bốn kinh nghiệm từ quá trình phát triển quan
hệ Việt Nam với Ấn Độ, có giá trị vận dụng vào lãnh đạo hoạt
động đối ngoại của Đảng đối với Ấn Độ hiện nay.

Khẳng định sự phát triển về tư duy đối ngoại của Đảng nói
chung, với Ấn Độ nói riêng.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Luận án góp phần tổng kết sự lãnh đạo của Đảng về phát triển
quan hệ Việt Nam với Ấn Độ trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH. Đặc biệt từ khi hai nước thiết lập và thực hiện quan hệ
đối tác chiến lược.
Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp thêm căn cứ để bổ
sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng nhằm phát triển quan


5
hệ Việt Nam với Ấn Độ ở tầm cao mới; đồng thời, đấu tranh với những
quan điểm sai trái làm ảnh hưởng đến sự phát triển của hai nước.
Luận án là tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy đường lối đối ngoại của Đảng ở các học viện, nhà trường
trong và ngoài quân đội hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu; 3
chương (8 tiết); kết luận; danh mục các công trình của tác giả đã công
bố có liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1. Những nghiên cứu về chính sách của Ấn Độ trong quan
hệ với Việt Nam
Tác giả Sar Desai. D.R (1964), Indian Foreingn Policy in
Cambodia, Laos and Viet Nam 1947 - 1964. Chính sách đối ngoại của Ấn
Độ đối với Campuchia, Lào và Việt Nam (1947 - 1964) [116]. Cuốn sách

đề cập đến nội dung chính như: Vai trò của Ấn Độ đối với Đông Dương,
thái độ của Ấn Độ đối với việc chia cắt Việt Nam (1954 - 1958).
Tác giả Gixop (1991), Cuộc đấu tranh của Ấn Độ vì tự do và độc
lập của các nước Đông Dương [59]. Trong công trình này, tác giả đã trình
bày quan điểm của Ấn Độ ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam,
quan điểm của các đảng phái chính trị ở Ấn Độ đã tích cực đấu tranh phản
đối hành động xâm lược Việt Nam của Mỹ.
Cuốn sách của Vụ Đông Nam Á - Nam Á - Nam Thái Bình
Dương, Báo Thế giới và Việt Nam (2011), Ấn Độ và quan hệ Việt
Nam - Ấn Độ [142]. Cuốn sách cho thấy, ngay sau Hiệp định Pari
1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Ấn Độ
nhiều lần bày tỏ mong muốn đẩy mạnh quan hệ hai nước và tham gia
tái thiết Việt Nam sau chiến tranh. [142, tr. 136.]
Cuốn sách do tác giả Ngô Xuân Bình (Chủ biên), (2012), Thúc
đẩy quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong bối cảnh mới [33]. Đây là ấn
phẩm tập hợp các bài viết của nhiều tác giả trong và ngoài nước như:
Tác giả Đỗ Đức Định, Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ hữu nghị gắn bó
hướng tới hợp tác toàn diện đối tác chiến lược (33, tr. 68). Cũng trong
cuốn sách này, tác giả Võ Xuân Vinh, Những phát triển mới trong
quan hệ Việt Nam - Ấn Độ (33, tr. 139). Tiếp đó là tác giả Binoda
Kumar Mishra, Ấn Độ và Việt Nam trong mạng lưới an ninh Đông
Nam Á (33, tr. 36). Tác giả Nguyễn Thiết Sơn, Quan hệ Việt Nam - Ấn
Độ trong tương quan với các nước lớn trong khu vực (33, tr. 128),


6
Cuốn sách của tác giả Võ Xuân Vinh (2013), ASEAN trong
chính sách hướng Đông của Ấn Độ [140]. Cuốn sách đề cập về các
nội dung như: Về chính sách "hướng Đông" của Ấn Độ; vai trò
của ASEAN trong chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ

Tác giả Nguyễn Thị Quế (2015), Ấn Độ triển khai chính sách
hướng Đông đối với ASEAN - Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2015
[126], bài viết đã khái quát chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ trải
qua hai giai đoạn phát triển (giai đoạn đầu từ năm 1992 đến năm
2002; giai đoạn hai từ năm 2003 đến nay).
1.2. Những nghiên cứu về chủ trương của Việt Nam trong quan hệ với
Ấn Độ
Tác giả Nguyễn Thị Thuỷ (2005), với bài viết: Quan hệ Việt
Nam - Ấn Độ từ 2001 đến nay [136, tr. 291 - 320], đã phân tích mối
quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo và văn hoá, quốc phòng và an ninh. Từ
đó, nêu ra triển vọng quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong những năm tới
sẽ phát triển mạnh và hiệu quả.
Tác giả Hoàng Thị Điệp (2006), Quá trình phát triển quan hệ
Việt Nam - Ấn Độ từ năm 1986 đến năm 2004 [57], luận án Tiến sĩ,
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam cận và hiện đại. Đề tài đã khái quát
quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trước năm 1986; phân tích quá trình phát
triển quan hệ giữa hai nước từ năm 1986 đến năm 2004 trên các lĩnh
vực như: chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, giáo dục..
Tác giả Nguyễn Khắc Huỳnh (2011), Ngoại giao Việt Nam góc
nhìn và suy ngẫm [74]. Cuốn sách gồm một số bài viết, bài nghiên cứu đã
được chọn lọc của các tác giả và một số bài tham luận tại các cuộc hội
thảo trong và ngoài nước. Nội dung viết về quan hệ Việt Nam với Ấn Độ,
tác giả đã trích dẫn Nghị quyết 13 về quan hệ với Liên Xô, Ấn Độ và các
nước bạn khác. Trong đó xác định: “việc tăng cường quan hệ với Ấn Độ
có tầm quan trọng rất lớn trong chiến lược chung ở châu Á và Đông Nam
Á” (74, tr. 264 - 265). Như vậy, có thể thấy mối quan hệ của Việt Nam với
Ấn Độ ở tầm chiến lược đã được Việt Nam đặt ra từ rất sớm, đặc biệt
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Việt Nam luôn kiên trì, giữ gìn, củng
cố, phát triển quan hệ với các đối tác truyền thống đặc biệt với Ấn Độ.
Tác giả Đinh Xuân Lý (2013), Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ hữu

nghị truyền thống đến đối tác chiến lược [96]. Tác giả đã khái quát quá
trình từ khi hai nước có quan hệ cho đến khi thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược; những mốc thời gian và những chuyến thăm lịch sử đã gắn
kết hai nước trong đấu tranh giành độc lập cũng như ủng hộ lẫn nhau trên
các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng an ninh, khoa học
kỹ thuật, văn hoá.
1.3. Những nghiên cứu về thực tiễn quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ
Các tác giả Nguyễn Xuân Sơn - Nguyễn Văn Du (2006), Chiến
lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong hai
thập niên đầu thế kỷ XXI [120]. Tác giả Phạm Thị Phúc (2010), Quan


7
hệ Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao thập niên
đầu thế kỷ XXI [111]. Bộ Ngoại giao, Quan hệ đối tác chiến lược
Việt Nam - Ấn Độ (2011) [142, tr. 313]. Tác giả Nguyễn Văn Lịch
(2012), Đẩy mạnh quan hệ Việt Nam - Ấn Độ [33, tr. 92]
Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ (CIS), Hợp tác phát triển Việt
Nam, ASEAN - Ấn Độ: Thực trạng và triển vọng, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học quốc tế, Hà Nội, ( 2015 ) [126]. Các tác giả đã viết về thực
tiễn quan hệ Việt Nam - Ấn Độ và đề cập phong phú đến các lĩnh vực:
Về chính trị, ngoại giao, quốc phòng – an ninh: Tiêu biểu có các
tác giả: Pramoda Patel, Hợp tác chính trị và kinh tế giữa Ấn Độ và Việt
Nam (126, tr. 157); tác giả Nguyễn Ngọc Hà - Nguyễn Thị Mai, Chính
sách hướng Đông của Ấn Độ trong quan hệ hợp tác với ASEAN (126, tr.
59); Tác giả Jayadeva Ranade, Hợp tác Việt Nam, ASEAN - Ấn Độ trong
lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, an ninh (126, tr. 15). Tác giả Nguyễn
Hồng Quân, Quan hệ quốc phòng Việt Nam - Ấn Độ (126, tr. 52).
Về kinh tế: Tác giả Đỗ Thắng Hải, Hiệp định Thương mại

hàng hóa ASEAN - Ấn Độ và cơ hội tiếp cận thị trường Ấn Độ (126,
tr. 176). Tác giả Đoàn Xuân Thủy, Quan hệ kinh tế Việt Nam - Ấn Độ
- ASEAN trong thời gian gần đây và triển vọng trong tương lai (126,
tr. 181). Tác giả Lê Văn Chiến, Quan hệ thương mại Việt Nam - Ấn
Độ (126, tr. 186). Tác giả Trần Minh Tâm, Tăng cường hợp tác đầu
tư Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh hiện nay (126, tr. 193)...
Về văn hóa, giáo dục – đào tạo và các lĩnh vực khác: Tác giả
Bhabani Dikshit, Hợp tác Việt Nam, ASEAN - Ấn Độ trên lĩnh vực
văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và một số lĩnh vực
khác (126, tr.106); Tác giả Lê Thị Bình An, Việt Nam và Ấn Độ với
những mối liên kết lịch sử lâu đời về văn hóa (126, tr. 135). Tác giả
Lê Thị Hằng Nga, Hợp tác văn hóa Việt Nam - Ấn Độ từ khi hai
nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược đến nay (2007 - 2015):
Thành tựu và triển vọng (126, tr. 114)...
2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án tập trung giải quyết
2.1. Khái quát kết quả nghiên cứu từ các công trình đã công
bố liên quan đến đề tài
Từ cách tiếp cận một cách có hệ thống các công trình đã công bố
có liên quan đến đề tài, nghiên cứu sinh đưa ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra trước và sau khi
hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, Ấn Độ đã luôn ủng
hộ Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam, Ấn Độ luôn kiên trì lập trường thủy chung
trong quan hệ với Việt Nam; thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển
xứng tầm quan hệ đối tác chiến lược trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu đã góp phần làm rõ
những tác động đa chiều của tình hình thế giới, khu vực, tình hình
của mỗi nước liên quan đến hợp tác của Việt Nam với Ấn Độ, chủ



8
trương đối ngoại của Việt Nam với Ấn Độ thông qua những sự
kiện lịch sử diễn ra trong quan hệ song phương. Thực tiễn quan hệ
Việt Nam với Ấn Độ trên các lĩnh vực theo hướng phát triển ngày
càng hiệu quả.
Thứ ba, bằng những sự kiện lịch sử và những số liệu cụ thể,
các công trình nghiên cứu nêu trên đã góp phần dựng lại bức tranh
toàn cảnh của mối quan hệ Việt Nam với Ấn Độ trong quá khứ, hiện
tại và những triển vọng trong tương lai, từ truyền thống hữu nghị đến
đối tác chiến lược, trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quốc phòng
- an ninh, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ. Các nghiên cứu
cũng chỉ ra những nguyên nhân, những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm
quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Thứ tư, thông qua nghiên cứu thực trạng, một số công trình
đã đã dự báo triển vọng phát triển mối quan hệ Việt Nam với Ấn
Độ trên tất cả các lĩnh vực. Ở từng lĩnh vực cụ thể, các công trình
khoa học đã luận giải, làm sáng tỏ nhiều vấn đề như: Mối quan hệ
Việt Nam với Ấn Độ trong lịch sử hàng nghìn năm cùng tồn tại
trong hòa bình; đánh giá quan hệ truyền thống hữu nghị từ khi hai
nước giành được độc lập, thiết lập quan hệ ngoại giao đến quan hệ
đối tác chiến lược ngày càng đi vào chiều sâu. Một số công trình
đã đánh giá thực trạng quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên những lĩnh
vực chính trị, ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa,
giáo dục, khoa học - công nghệ...
Thứ năm, các công trình đã công bố bước đầu đề xuất các sáng
kiến, giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, thách thức; tăng
cường các yếu tố nền tảng, cụ thể hóa các cơ chế hợp tác, tăng hiệu
quả hợp tác trên các lĩnh vực, góp phần giữ vững môi trường hòa

bình, sự phát triển của hai quốc gia.
Những kết quả nghiên cứu nêu trên giúp cho nghiên cứu
sinh có phương pháp tiếp cận đúng đắn, cách đánh giá lịch sử
khách quan, toàn diện về quá trình phát triển quan hệ Việt Nam
với Ấn Độ, là nguồn tài liệu quý để nghiên cứu sinh tham khảo
trong quá trình thực hiện luận án. Nhưng cho đến nay, chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu về chủ
trương và sự chỉ đạo của Đảng trong phát triển quan hệ Việt Nam
với Ấn Độ; chưa có công trình nào tổng kết đánh giá một cách hệ
thống những ưu điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm từ quá
trình Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ từ
năm 1991 đến năm 2011. Đây là “khoảng trống” để nghiên cứu
sinh phải giải quyết trong luận án của mình.
2.2. Những vấn đề đặt ra luận án tập trung giải quyết
Một là, nghiên cứu làm rõ những yếu tố của tình hình thế
giới, khu vực, trật tự thế giới thay đổi sau Chiến tranh lạnh; xu thế


9
quan hệ thế giới theo hướng đa cực, vừa hợp tác, vừa đấu tranh...
tác động trực tiếp đến sự phát triển và nhu cầu của mối quan hệ
Việt Nam với Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2011
Hai là, hệ thống hóa, phân tích luận giải làm sáng tỏ chủ
trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát triển quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ, khẳng định tính nhất quán trong chủ trương đoàn kết và phát
triển với mục tiêu ở tầm chiến lược phù hợp với xu thế quan hệ quốc
tế; kết quả đạt được của hai nước, khẳng định quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững ở tương lai.
Ba là, nhận xét ưu điểm hạn chế, nguyên nhân ưu điểm, hạn
chế của quá trình Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn

Độ. Đổng thời, đúc kết một số kinh nghiệm từ quá trình phát triển
quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, có tác dụng tham khảo để tiếp tục phát
triển mối quan hệ Việt Nam với Ấn Độ những năm tiếp theo.


10
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI ẤN ĐỘ (1991 - 2001)
1.1. Những yếu tố tác động và nhu cầu phát triển quan hệ
Việt Nam với Ấn Độ
1.1.1. Những yếu tố tác động đến quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
Tình hình thế giới và khu vực
Cuộc khủng hoảng và tan rã của các nước XHCN, đặc biệt là của
Liên Xô đã tác động đến toàn bộ tình hình thế giới, ảnh hưởng lớn đến cả
Việt Nam - Ấn Độ. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương là khu vực phát
triển kinh tế năng động, nhưng ở đây cũng đang tồn tại những mâu thuẫn
và những nhân tố có thể gây mất ổn định tác động tiêu cực đến quan hệ
Việt Nam và Ấn Độ. Tình hình Đông Nam Á cũng phải đối phó với
những vấn đề lớn sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc.
Tình hình Ấn Độ
Chiến tranh lạnh kết thúc và sự tan rã của trật tự hai cực đã khiến
cho Phong trào Không liên kết, một lực lượng chính trị đứng giữa hai
phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa tạm thời lắng xuống. Thực
trạng khủng hoảng kinh tế toàn diện đã xảy ra Tình hình đó đã buộc các
nhà lãnh đạo Ấn Độ phải tiến hành cải cách một cách quyết liệt. Tháng 7
- 1991, Chính phủ Ấn Độ công bố triển khai kế hoạch “Cải cách toàn
diện” với hai giai đoạn (1991 - 1999 và từ 1999 đến nay).
Trên lĩnh vực đối ngoại, Ấn Độ đã cải thiện và phát triển quan
hệ cân bằng với hầu hết các nước lớn, đặc biệt đã thiết lập quan hệ

đối tác chiến lược với Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và EU. Với
các nước láng giềng, đặc biệt là Pakistan đã đạt được những kết quả
quan trọng. Ấn Độ cũng thể hiện vai trò đầu tàu trong hợp tác khu
vực thông qua Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á và Hiệp hội Hợp tác
vùng ven Ấn Độ... Chính sự vươn lên mạnh mẽ về mọi phương diện
và những thành tựu kinh tế và đối ngoại, làm cho vai trò và vị thế của
Ấn Độ trong khu vực và trên thế giới đang được nâng cao, trở thành
một nhân tố không thể thiếu trong tính toán của các nước trên thế
giới trong xu thế vừa hợp tác vừa đấu tranh.
Những nhân tố trên tác động đến quan hệ Việt Nam với Ấn Độ bởi
những động thái điều chỉnh chính sách của mỗi nước ở khu vực cũng làm
cho quan hệ giữa Việt Nam và Ấn Độ theo hướng gắn bó hơn
Tình hình Việt Nam
Bước vào thời kỳ đổi mới, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam
cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức. Vì “… chưa thực hiện
được mục tiêu do Đại hội V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân” [53, tr. 17-25]. Tiếp nối những kết
quả đã đạt được từ mối quan hệ truyền thống, hữu nghị. Đại hội lần


11
thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: “Chúng ta không
ngừng tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với Cộng
hòa Ấn Độ, nước có vị trí đặc biệt quan trọng ở châu Á và trên thế
giới, người bạn lớn đã luôn luôn dành cho nhân dân ta những tình
cảm tốt đẹp, sự ủng hộ và giúp đỡ chí tình” [53, tr. 104]. Thực hiện
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã ra
Chỉ thị số 04-CT/ TW, ngày 09 - 3 - 1987. Về việc: Tăng cường quan
hệ hữu nghị và hợp tác với Ấn Độ. Nhận định rõ tình hình quan hệ
của Việt Nam với một số nước lớn, tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết
Đại hội VI, ngày 20 - 5 - 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13 với chủ

đề: “Giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế”. Trong đó nội dung bàn
về quan hệ Việt Nam với Ấn Độ, Việt Nam xác định rõ việc tăng
cường quan hệ với Ấn Độ có tầm quan trọng rất lớn trong chiến lược
chung ở châu Á và Đông Nam Á. Sau 15 năm đổi mới (1986 - 2001),
Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng:
Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc
phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh. Lương thực không những đủ ăn mà
còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Ổn định chính trị xã hội được giữ vững. Quốc phòng, an ninh được củng cố... Quan hệ đối
ngoại của Việt Nam phát triển mạnh mẽ: phá được thế bị bao vây, cô lập;
mở rộng hợp tác và tham gia tích cực đời sống cộng đồng quốc tế; giữ
vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Quan hệ ổn định với các nước lớn.
Giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển, đảo với các nước
liên quan, giữ vững môi trường hoà bình. Tranh thủ vốn ODA, thu hút
nguồn FDI, mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu, hội nhập khu vực và
quốc tế để phát triển đất nước.
Thực trạng quan hệ Việt Nam với Ấn Độ trước năm 1991
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, hai nước lần lượt
giành được độc lập (Việt Nam tháng 9 - 1945, Ấn Độ tháng 9 1946). Ngay sau khi hòa bình được lập lại ở Việt Nam, hai nước đã
có những cuộc tiếp xúc cấp cao quan trọng. Thủ tướng J. Nehru là
chính khách nước ngoài đầu tiên đến thăm Hà Nội ngay sau ngày giải
phóng Thủ Đô (10 -1954). Sau đó, tháng 2 - 1958, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có chuyến thăm lịch sử tới Ấn Độ, đặt nền móng cho sự hợp
tác lâu dài giữa hai nước và để lại những ấn tượng rất sâu đậm trong
lòng nhân dân Ấn Độ.
Sự kiện, ngày 07- 01- 1972, Ấn Độ quyết định nâng quan hệ
ngoại giao đầy đủ với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là một dấu
mốc quan trọng, là cơ sở pháp lý của mối quan hệ Việt Nam với Ấn
Độ trong giai đoạn mới.
Sau khi Hiệp định Pari 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hoà bình ở Việt Nam được ký kết, phía Ấn Độ nhiều lần bày tỏ mong

muốn đẩy mạnh quan hệ hai nước và tham gia tái thiết Việt Nam sau
chiến tranh. Các công ty của Ấn Độ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam
từ năm 1988.


12
1.1.2. Nhu cầu phát triển quan hệ giữa Việt Nam với Ấn Độ
Đối với Việt Nam
Trong điều kiện mới, Việt Nam càng phải coi trọng vận dụng
bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện
đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam phát triển quan hệ với Ấn Độ trong khuôn khổ quan
hệ của Việt Nam với các nước lớn, nhìn thấy triển vọng của Ấn Độ
về kinh tế, chính trị, quân sự
Tiếp tục phát huy những điểm tương đồng trong chính sách đối
ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa của mỗi nước, theo hướng mở
rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước
Việc phát triển những thành tựu trên các lĩnh vực trong công
cuộc đổi mới của Việt Nam và công cuộc cải cách toàn diện ở Ấn Độ
là yếu tố vật chất cần cho sự phát triển quan hệ của hai bên làm cơ sở
cho sự hợp tác nhiều mặt giữa hai nước
Đối với Ấn Độ
Phía Ấn Độ cũng đặt ra những nhu cầu phát triển quan hệ với
Việt Nam, Ấn Độ nhận thức được Việt Nam đóng vai trò quan trọng
trong việc tăng cường các lợi ích kinh tế, chính trị, an ninh của Ấn
Độ ở Đông Nam Á, cũng như đối với sự thành công của chính sách
“hướng Đông
Ấn Độ mong muốn sự ủng hộ của Việt Nam trong quan hệ với
Đông Nam Á và trên nhiều diễn đàn quốc tế.

Trong quan hệ với Việt Nam, Ấn Độ mong muốn tăng cường hợp
tác với Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực mà hai bên có tiềm năng.
1.2. Chủ trương của Đảng về phát triển quan hệ Việt Nam
với Ấn Độ (1991 - 2001)
1.2.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ
Quan điểm phát triển quan hệ đối ngoại của Đảng và đối với
Ấn Độ
Kế thừa và phát triển chủ trương của Đại hội VI và các Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị (khóa VI), về
quan hệ quốc tế thời kỳ đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII (1991), chủ trương: “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả
các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau [53, tr.
351]. Đại hội VIII (1996), tiếp tục khẳng định: “Hợp tác nhiều mặt,
song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu
vực” [53, tr. 701]. Từ quan điểm chung nêu trên, Đảng Cộng sản Việt


13
Nam đề ra những chính sách đối ngoại với các nước, các tổ chức
quốc tế, khu vực trong thời kỳ mới.
Đối với Ấn Độ, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: “Phát
triển quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều
mặt với Ấn Độ. Tiếp tục mở rộng hợp tác với các nước đang phát
triển khác. Tích cực góp phần củng cố và tăng cường Phong trào
Không liên kết” [53, tr. 351-352. Đại hội VIII của Đảng (1996), tiếp
tục khẳng định: “không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè
truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung
tâm kinh tế - chính trị trên thế giới, đồng thời luôn luôn nêu cao tinh
thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển ở châu Á, châu

Phi, Mỹ latinh, với Phong trào Không liên kết” [53, tr. 701-702].
Mục tiêu phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
Mục tiêu bao trùm trong chính sách đối ngoại của Đảng Cộng
sản Việt Nam là “hòa bình và phát triển”… để tiếp tục triển khai
chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ nhằm: "Tiếp tục triển khai chính
sách đối ngoại độc lập, tự chủ trực tiếp là đối với khu vực Nam Á;
tiếp tục tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác của Ấn Độ trong các lĩnh vực
Ấn Độ có thế mạnh" [41, tr.1]. Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam xác
định: “hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước, không phân
biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hoà bình” [53, tr. 351]. Trên những vấn đề như: vấn đề
Casơmia - Ấn Độ, Việt Nam ủng hộ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của
Ấn Độ thông qua thương lượng hoà bình [41]
1.2.2. Phương châm, nhiệm vụ, biện pháp phát triển quan hệ
Việt Nam với Ấn Độ
Phương châm phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
Trên cơ sở phương châm chung của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong quan hệ đối ngoại, quan hệ giữa Việt Nam với Ấn Độ được
Đảng chỉ rõ và được quán triệt trong quá trình phát triển quan hệ Việt
Nam với Ấn Độ là: “Hữu nghị truyền thống, hợp tác nhiều mặt và
lâu dài hướng tới tương lai”. Đồng thời, khẳng định chính sách,
quyết tâm của Việt Nam luôn phát huy truyền thống, hữu nghị, tiếp
tục tranh thủ giúp đỡ và hợp tác của Ấn Độ trong những lĩnh vực Ấn
Độ có thế mạnh... [41].
Nhiệm vụ phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
Trên cơ sở nhiệm vụ đối ngoại chung của Đảng, nhiệm vụ phát
triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ được xác định rõ: “phát triển hơn


14

nữa quan hệ nhiều mặt giữa hai nước cho tương xứng với tiềm năng
và quan hệ truyền thống tốt đẹp” [52].
Biện pháp phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
Để thực hiện nhiệm vụ phát triển quan hệ với Ấn Độ, Đảng đã
đề ra các biện pháp phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ được thể
hiện phong phú trên các lĩnh vực:
Về chính trị, ngoại giao, quốc phòng - an ninh, Việt Nam xây
dựng các cơ chế hợp tác quốc phòng - an ninh, năng lượng nguyên tử
giữa hai nước.
Về phát triển quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, Việt Nam
tiến hành các biện pháp hợp tác kinh tế - thương mại, đầu tư - tín
dụng, đa dạng hóa các mặt hàng... tạo thuận lợi mới cho quan hệ
kinh tế phát triển.
Về phát triển quan hệ văn hóa, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác Việt Nam tiến hành các biện pháp để
nhanh chóng ứng dụng tại Việt Nam.
1.3. Đảng chỉ đạo phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
và kết quả thực hiện
Tư tưởng chỉ đạo chung của Đảng được Nghị quyết Trung
ương lần thứ 3 khoá VII (1992) xác định là: “Giữ vững nguyên tắc vì
độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo,
năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực,
phù hợp với từng đối tượng ta có quan hệ. Giữ vững nguyên tắc
nhưng lại phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt xử lý từng việc, từng
đối tượng, ở từng thời điểm… đều rất cụ thể, không thể cứng nhắc,
dập khuôn” [114, tr. 29-30].
Tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam
với Ấn Độ, được quán triệt qua ý kiến của Tổng Bí thư Đỗ Mười là:
“Chúng tôi hiểu là các đảng phái ở Ấn Độ đều ủng hộ Việt Nam. Chúng
tôi sẽ làm mọi việc để tăng cường quan hệ với Ấn Độ. Chúng tôi rất yên

tâm khi hợp tác với Ấn Độ vì chúng ta là những người bạn tốt, Ấn Độ có
sức mạnh về kinh tế và khoa học kỹ thuật” [14].
Từ tư tưởng chỉ đạo trên, Đảng đã chỉ đạo phát triển quan hệ
Việt Nam với Ấn Độ trên các trụ cột: chính trị, kinh tế và văn hóa.
1.3.1. Phát triển quan hệ chính trị, ngoại giao và quốc phòng
- an ninh
Xuất phát từ tầm quan trọng trong việc phát triển quan hệ
chính trị, ngoại giao, quốc phòng - an ninh với Ấn Độ trong tình hình
mới, Đảng đã chỉ đạo: Bộ Quốc phòng xây dựng và triển khai ký
Nghị định thư hợp tác về quốc phòng (1994), thông qua các chuyến


15
thăm cấp cao của lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước, trao đổi các
đoàn tàu quân sự, tàu chiến Ấn Độ thăm Việt Nam và Ấn Độ giúp
đào tạo sỹ quan cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tiếp đó là một
Hiệp định hợp tác quốc phòng nhiều mặt được ký kết vào tháng 3 2000 gồm quan hệ quân sự tăng cường và nhiều hoạt động.
1.3.2. Phát triển quan hệ kinh tế
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ triển khai đến doanh
nghiệp Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên mà Ấn Độ có thế
mạnh như: Nông nghiệp, khoa học - công nghệ, đào tạo cán bộ. Sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn của Chính phủ Ấn Độ cho Việt Nam vay
khoản tín dụng quay vòng, cụ thể liên quan đến khoản tín dụng tương
đương 5 triệu USD để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế [41]. Các doanh
nghiệp tích cực, nỗ lực thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, tổ
chức Hội chợ triển lãm hàng và trao đổi đoàn doanh nghiệp. Phía Ấn Độ
tổ chức Hội chợ “Niềm kiêu hãnh Ấn Độ” ở Hà Nội để giới thiệu hàng
hoá và khả năng buôn bán. Phía Việt Nam xúc tiến lập Trung tâm Thương
mại - Văn hoá để giới thiệu hàng hoá và tham dự Hội chợ quốc tế hàng
năm tại New Delhi. Tích cực tham gia Hiệp định Thương mại hàng hóa

ASEAN - Ấn Độ (AITIG), hiệp định này được ký kết vào ngày 13 - 8 1999, tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN - Ấn Độ diễn ra ở Bangkok
(Thái Lan), chính thức có hiệu lực từ ngày 01 - 01 - 2010 tạo ra những cơ
hội mới cho các doanh nghiệp các nước ASEAN nói chung và Việt Nam
nói riêng về tiếp cận thị trường của Ấn Độ.
1.3.3. Phát triển quan hệ văn hóa, giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ tiến hành triển
khai đến các bộ, ngành xây dựng và thực hiện các chương trình
hợp tác với Ấn Độ, trên các lĩnh vực cụ thể.
Về văn hóa, Bộ Ngoại giao triển khai Công văn số:
932/NG - ĐNA, ngày 19 - 7 - 1996. Về việc tổ chức những ngày
văn hoá Ấn Độ tại Việt Nam.
Về giáo dục - đào tạo, thực hiện chỉ đạo của Đảng, Chính
phủ Việt Nam chủ động cử đoàn công tác do Thứ trưởng Bộ Giáo
dục - Đào tạo sang thăm Ấn Độ để trao đổi các biện pháp tăng
cường hợp tác và sử dụng tốt hơn sự giúp đỡ của Chính phủ Ấn
Độ trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo giữa hai nước đã cam kết.
[40, tr. 5].
Về khoa học - công nghệ, thực hiện chỉ đạo của Đảng, các
ngành của Việt Nam với Ấn Độ đã ký Hiệp định mới về khoa học
- công nghệ (2 - 1996).


16
Kết luận chương 1
Từ năm 1991 đến năm 2001, trước những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới, khu vực, tác động đến nhiều quốc gia. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nhận thức đúng về những yêu cầu khách
quan trong quan hệ quốc tế của mỗi nước cũng thay đổi, tình hình
đó cũng tác động đến quan hệ Việt Nam với Ấn Độ là một hiện thực

khách quan.
Từ tình hình trên, Đảng đã đề ra chủ trương đúng đắn về phát
triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ. Chủ trương của Đảng phát triển
quan hệ Việt Nam với Ấn Độ là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với
nguyện vọng và lợi ích của Chính phủ và nhân dân hai nước trong
bối cảnh mới vừa thắt chặt mối quan hệ hữu nghị truyền thống vừa
phát triển, hỗ trợ, tăng cường hợp tác với nhau trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa... trên cả hai bình diện song phương và đa
phương.
Quá trình chỉ đạo luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên,
tăng cường vận hành các cơ chế, thực hiện các hiệp định đi vào hoạt
động, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực. Kết quả đạt được trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế văn hóa, khoa học - công nghệ...cho thấy
quan hệ truyền thống và tình hữu nghị Việt Nam với Ấn Độ không
ngừng được củng cố và nâng cao. Phát triển quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ thể hiện được chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế phù hợp với lợi ích của
chính phủ và nhân dân hai nước trên các lĩnh vực. Đây là một định
hướng chiến lược lâu dài của Việt Nam, là cơ sở để Đảng Cộng sản
Việt Nam từng bước thiết lập và thực hiện quan hệ đối tác chiến lược
Việt Nam với Ấn Độ.
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG TIẾP TỤC
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI ẤN ĐỘ (2001 - 2011)
2.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu mới tiếp tục phát
triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
2.1.1. Những yếu tố tác động đến quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
Tình hình thế giới và khu vực tác động đến quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ
Trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, tình hình thế giới và khu

vực có những thời cơ, thuận lợi cũng như những khó khăn, thách
thức liên quan trực tiếp đến quan hệ Việt Nam với Ấn Độ có tác động


17
trực tiếp đến quan hệ Việt Nam với Ấn Độ trong tình hình mới, đặt ra
cho Ấn Độ và Việt Nam đều phải quan tâm, giải quyết trên cả bình
diện song phương và đa phương.
Tình hình Ấn Độ trong những năm 2001 - 2011
Công cuộc cải cách toàn diện của Ấn Độ được phát động từ
thập kỷ cuối của thế kỷ XX; trải qua hai giai đoạn đã đem lại những
thành tựu to lớn, làm thay đổi diện mạo và thực lực kinh tế, khoa học
công nghệ, quốc phòng cũng như vị thế của Ấn Độ, đưa nước này trở
thành một cường quốc đóng vai trò quan trọng trên bàn cờ chiến lược
châu Á và toàn thế giới.
Chiến lược đối ngoại của Ấn Độ đã tác động đến quan hệ Ấn
Độ với Việt Nam: một mặt, Ấn Độ cũng phải tính toán khi quan hệ với
các nước Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Indonexia, Singapo…trong
tổng thể quan hệ với Việt Nam; mặt khác, Việt Nam cũng có quan hệ với
các nước mà Ấn Độ có quan hệ. Đây là sự đan xen lợi ích mà mỗi quốc
gia đều phải tính đến cả thuận lợi và khó khăn của quan hệ song phương
cũng như đa phương trong bối cảnh vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Tình hình Việt Nam trong những năm 2001 - 2011
Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Tình hình chính trị ổn định, khối đại đoàn kết toàn dân
được nâng lên, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội... kinh tế tăng trưởng khá nhanh.
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 178 nước trên thế
giới; có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn và trung tâm

kinh tế - chính trị lớn trên thế giới. Có quan hệ kinh tế thương mại
với trên 200 nước và vùng lãnh thổ... [30, tr. 1 - 4]. Uy tín, vị thế của
Việt Nam trên thế giới và khu vực không ngừng tăng lên. Thành tựu đó tạo
ra nhiều điều kiện thuận lợi để nhân dân Việt Nam đổi mới, đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội bền vững hơn. Tình hình đó tác động theo hướng thuận
lợi, thúc đẩy quan hệ Việt Nam với Ấn Độ phát triển ở tầm cao mới.
2.1.2. Yêu cầu mới tiếp tục phát triển quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ
Về phía Việt Nam, kiên định thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển.
Về phía Ấn Độ nhận thấy, Việt Nam là thị trường tiềm năng
đối với Ấn Độ như: đầu tư, thương mại, quốc phòng, khoa học công
nghệ. Việt Nam là nhân tố quan trọng giúp Ấn Độ thực hiện các mục
tiêu chiến lược và chính sách “hướng Đông” tham gia sâu hơn vào
các thể chế khu vực Cấp cao Đông Á, ASEM, APEC.
2.2. Chủ trương của Đảng tiếp tục phát triển quan hệ Việt
Nam với Ấn Độ (2001 - 2011)
2.2.1. Quan điểm, mục tiêu tiếp tục phát triển quan hệ Việt
Nam với Ấn Độ
Quan điểm đối ngoại của Đảng và đối với Ấn Độ


18
Bước vào thế kỷ mới, trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn,
đáp ứng yêu cầu mới trên lĩnh vực đối ngoại, Đại hội IX của Đảng
(4- 2001) chủ trương: “Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè
truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở
châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ Latinh, các nước trong Phong
trào Không liên kết, ủng hộ lẫn nhau cùng phát triển, phối hợp bảo vệ
lợi ích chính đáng của nhau. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước

phát triển và các tổ chức quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn
đa phương.” [54, tr. 121]. Trong đó, Ấn Độ luôn là bạn bè truyền
thống trong Phong trào Không liên kết, là hướng ưu tiên trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn mới. Trên cơ sở tổng kết 20
năm đổi mới, Đại hội X của Đảng (4 - 2006), tiếp tục khẳng định:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá,
đa dạng hoá các quan hệ quốc tế... Phát triển quan hệ với tất cả các
nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế” [55, tr.
112]. Với phương châm: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực”. Đây là bước phát triển mới về quan điểm so
với Đại hội VII và Đại hội VIII thể hiện nhận thức lý luận của Đảng
trên lĩnh vực đối ngoại trong bối cảnh thế giới đa dạng, phức tạp, đan
xen lợi ích, hợp tác và đấu tranh.
Đối với Ấn Độ, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy mối
quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống, coi đó là một chủ trương ưu
tiên nhất quán trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đoàn kết và
ủng hộ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Quyết tâm phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ thông qua việc
thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng: “Đồng ý chủ trương thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với
Ấn Độ nhằm thúc đẩy tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước’’[6],
xác định rõ trong nội dung quan hệ đối tác chiến lược phải: “nghiên
cứu, phân tích và khuyến khích các chính sách, biện pháp thích hợp
để thúc đẩy hợp tác giữa hai nước. Các vấn đề hai bên cần nghiên
cứu, giao cơ quan chức năng hai nước thực hiện” [6].
Mục tiêu phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
Tiếp tục phát huy mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa
Việt Nam với Ấn Độ và nâng quan hệ hợp tác giữa hai nước lên tầm

cao mới nhằm ứng phó với các thách thức của toàn cầu hóa, mối đe
dọa khủng bố và những thách thức to lớn đối với hệ thống quốc tế.
Nhằm: “Đưa quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ ngày càng
đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững”. [22].
2.2.2. Phương châm, nhiệm vụ, biện pháp tiếp tục phát
triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
Phương châm tiếp tục phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
Phát huy tối đa truyền thống quan hệ chính trị tốt đẹp để đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, an
ninh - quốc phòng, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo. Đồng
thời, lấy việc tăng cường quan hệ kinh tế... để củng cố hơn nữa quan
hệ tốt đẹp về chính trị [22].


19
Ấn Độ

Nhiệm vụ, biện pháp tiếp tục phát triển quan hệ Việt Nam với

Trên cơ sở nhiệm vụ đối ngoại chung của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhiệm vụ, biện pháp tiếp tục phát triển quan hệ Việt Nam
với Ấn Độ trong giai đoạn mới, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của
cả Việt Nam với Ấn Độ.
Một là, tiến hành thường xuyên các cuộc gặp gỡ cấp cao
nhằm củng cố quan hệ chính trị tốt đẹp vốn có và tạo động lực mới
cho sự hợp tác về mọi mặt giữa hai nước.
Hai là, tiếp tục hợp tác chặt chẽ tại Liên hợp quốc và các
diễn đàn quốc tế khác cũng như hợp tác khu vực và song phương,
Ba là, giúp nhau bảo vệ lợi ích của mỗi nước trên trường quốc
tế và góp phần vào nỗ lực chung nhằm dân chủ hóa quan hệ quốc tế,

Bốn là, tiếp tục duy trì và nâng cao hơn nữa hiệu quả của các
cuộc họp thường kỳ (hai năm một lần) của Ủy ban hỗn hợp Việt Nam
với Ấn Độ làm cho cơ chế này đáp ứng tốt hơn tiến trình cải cách
kinh tế ở mỗi nước
Năm là, nâng cao tầm hợp tác kinh tế trên các lĩnh vực như: về
thương mại phải đa dạng hóa cơ cấu mặt hàng xuất - nhập khẩu,
Sáu là, đẩy mạnh hợp tác khoa học - công nghệ trong các
ngành như: nông nghiệp, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ thông tin, viễn thám..
Bảy là, từng bước mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực
quốc phòng và an ninh, tiến hành các biện pháp chống cướp biển,
ngăn chặn các hành động khủng bố nhằm vào mỗi nước,
Tám là, đẩy mạnh hợp tác phát triển nguồn nhân lực, tiếp
tục mở rộng và đa dạng hóa lĩnh vực giáo dục - đào tạo
Chín là, tăng cường trao đổi, hợp tác về văn hóa - thông
tin, khảo cổ học, bảo tồn, bảo tàng, du lịch, y tế, thể dục thể thao
ở cấp độ quốc gia và địa phương. [22].
2.3. Sự chỉ đạo của Đảng tiếp tục phát triển quan hệ Việt
Nam với Ấn Độ và kết quả thực hiện
2.3.1. Tiếp tục phát triển quan hệ chính trị, ngoại giao và
quốc phòng, an ninh trong tình hình mới
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, để tăng cường hợp tác quốc
phòng, tháng 11 - 2009, Bộ Quốc phòng Việt Nam tiến hành ký Bản
ghi nhớ về tăng cường hợp tác quốc phòng, nhằm tiếp tục đẩy mạnh
trao đổi thông tin, kinh nghiệm đào tạo học viên, quan sát viên quân
sự, đào tạo nhân sự quốc phòng; liên doanh, hợp tác sản xuất, cung
cấp thiết bị, chia sẻ, trợ giúp và đào tạo kỹ thuật quân sự, triển khai
Đề án hợp tác quốc phòng với Ấn Độ.
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Bộ Công an Việt Nam xây dựng và
triển khai Đề án hợp tác an ninh với Ấn Độ; đồng thời, ban hành Chỉ

thị số: 17/CT - BCA, ngày 10 - 10 - 2007, Về việc tăng cường công
tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của lực lượng Công an nhân dân
trong tình hình mới, Thực hiện chỉ đạo của Đảng, Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam thăm chính thức Ấn Độ (9 - 2001 và 4 – 2005), ký Hiệp định
hợp tác giữa Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình Ấn Độ
Doordarshan (9 - 2001)
2.3.2. Tiếp tục phát triển quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư


20
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Văn phòng Chính phủ triển
khai Công văn, số: 494/VPCP - QHQT, ngày 11 - 10 - 2001, Về việc
hợp tác với Ấn Độ. Nội dung chính là Khuôn khổ hợp tác toàn diện
Việt Nam - Ấn Độ, Việt Nam thành lập Diễn đàn đối thoại chính sách
kinh tế Việt Nam - Ấn Độ gồm đại diện Bộ Công thương, Bộ Kế
hoạch - Đầu tư, Bộ Văn hoá, Thể thao, Du lịch nhằm chia sẻ thông
tin, kinh nghiệm xây dựng và thực thi chính sách phát triển thương
mại, đầu tư, du lịch.
Cụ thể hóa chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công thương đã ban
hành Thông tư số: 15/2010/TT - BCT, ngày 15 - 4 - 2010, Về việc
thực hiện Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại hàng hóa
ASEAN - Ấn Độ và tiếp đó là Thông tư số: 58/2010/TT - BCT, ngày
16 - 4 - 2010, Về việc ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt
của Việt Nam để thực hiện khu vực mậu dịch tự do.
2.3.3. Tiếp tục phát triển hợp tác khoa học - công nghệ văn
hóa, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng về tiếp tục phát triển, hợp tác với
Ấn Độ về khoa học - công nghệ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, Văn phòng
Chính phủ triển khai Công văn, số: 494/ VPCP- QHQT, ngày 11 - 10 2001, Về việc hợp tác với Ấn Độ, trong “Khuôn khổ hợp tác toàn diện Việt
Nam - Ấn Độ” và triển khai cho các bộ, ngành, địa phương xây dựng các

Đề án nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác với Ấn Độ.
Cụ thể hóa chỉ đạo của Chính phủ, ngày 20 - 12 - 2001, Bộ
Giáo dục và Đào tạo có Công văn, số: 13826/QHQT gửi Trường
Đại học Hoa Sen tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc đồng ý cho
hợp tác với Viện Công nghệ tin học quốc gia Ấn Độ (NIIT) để đào
tạo thí điểm các khóa học do NIIT cấp chứng chỉ. Tiếp đó, Chính
phủ triển khai Công văn, số: 4236/VPCP - QHQT, ngày 07 - 8 2006, Về việc cho phép Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng tiếp
nhận và thực hiện dự án thành lập Trung tâm đào tạo tiếng Anh tại
Việt Nam. Ngày 29 - 3 - 2007, Ủy ban nhân dân Thành phố Đà
Nẵng có quyết định, số: 2360/QĐ - UBND, Về việc thành lập Trung
tâm đào tạo tiếng Anh Việt Nam - Ấn Độ tại Thành phố Đà Nẵng.
Kết luận chương 2
Từ năm 2001 đến năm 2011, Đảng đã nhận thức rõ những biến
động mới của tình hình thế giới, khu vực, tình hình của mỗi nước, đặt ra
những yêu cầu mới cho sự phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ Việt
Nam; từ đó, kịp thời đề ra chủ trương tiếp tục phát triển, thiết lập và
thực hiện quan hệ hợp tác với Ấn Độ lên tầm cao mới là đối tác chiến
lược của nhau, nhất quán quan điểm coi trọng việc phát triển hợp tác
Việt Nam với Ấn Độ trên cả bình diện song phương và đa phương; đồng
thời, bổ sung phương châm, nhiệm vụ, biện pháp nhằm tiếp tục phát
triển quan hệ với Ấn Độ trong tình hình mới. Quá trình phát triển luôn
lấy quan hệ hữu nghị, truyền thống làm nền tảng, thúc đẩy quan hệ kinh
tế làm tiền đề vật chất tạo điều kiện cho việc hợp tác, phát triển trên các
lĩnh vực khác trên cả bề rộng và chiều sâu.


21
Dưới sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ đã tích cực triển
khai đến các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, doanh nghiệp tiến
hành các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác với Ấn Độ trên

các lĩnh vực. Duy trì quan hệ với các đối tác tầm trung ương và địa
phương đi vào chiều sâu, ổn định, và phát triển. Tiếp tục hợp tác
nhiều mặt cho thấy quá trình phát triển quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
ngày càng có triển vọng tốt đẹp hơn phản ánh được quan hệ đối tác
chiến lược ở tầm cao mới, đi vào hiệu quả bền vững.
Kết quả phát triển và nâng cao hiệu quả hợp tác về chính trị,
kinh tế và văn hóa, quan hệ Việt Nam với với Ấn Độ đã phát triển
theo hướng thuận lợi hơn, góp phần quan trọng trong tiến trình đẩy
mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của
Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Chương 3
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1. Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ
Việt Nam với Ấn Độ (1991- 2011)
3.1.1. Ưu điểm
Một là, xác định đúng vị trí, vai trò của Ấn Độ và mối quan
hệ Việt Nam với Ấn Độ đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất
nước và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Hai là, chủ trương đối ngoại của Việt Nam trong quan hệ với
Ấn Độ đã phản ánh đúng yêu cầu, nhiệm vụ trong nước và phù hợp
với xu thế khu vực, quốc tế.
Ba là, thực tiễn chỉ đạo của Đảng trong quan hệ với Ấn Độ
đã phát huy được mối quan hệ hữu nghị truyền thống; đồng thời,
phục vụ cho nhu cầu phát triển của hai nước.
Bốn là, kết quả phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ (1991
- 2011) đã củng cố thêm quan hệ hữu nghị truyền thống và nâng cao
hiệu quả, bền vững của quan hệ Việt Nam với Ấn Độ.
Nguyên nhân ưu điểm:
Những ưu điểm trên là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên
nhân trong thực tiễn quan hệ giữa Việt Nam với Ấn Độ:

Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức đúng và có
bản lĩnh chính trị vững vàng, thành công trong công cuộc đổi mới nói
chung, đổi mới đường lối đối ngoại nói riêng. Việt Nam với Ấn Độ
luôn phát huy được tình hữu nghị, truyền thống và thiết lập được
quan hệ ở tầm đối tác chiến lược. Hai là, Đảng, Nhà nước và Chính
phủ Việt Nam có nhiều văn bản chỉ đạo tích cực nhằm phát triển quan
hệ Việt Nam với Ấn Độ . Ba là, Chính phủ, nhân dân Việt Nam và
Chính phủ, nhân dân Ấn Độ luôn có sự đoàn kết thủy chung, gắn bó,


22
vượt qua khó khăn, thách thức, giúp đỡ lẫn nhau trong hoàn cảnh đấu
tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc
3.1.2. Hạn chế
Một là, quá trình hoạch định chủ trương phát triển quan hệ
với Ấn Độ chưa mang tính tổng thể, đồng bộ; thực tiễn chỉ đạo trong
quan hệ Việt Nam với Ấn Độ còn chậm so với thực tế. Hai là, đã có
nhiều hiệp định, thỏa thuận được ký kết trên lĩnh vực chính trị,
ngoại giao. đẹp. Ba là, quan hệ trên lĩnh vực quốc phòng vẫn
còn khiêm tốn. Bốn là, quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại giữa hai
nước trong những năm (1991 - 2011), có sự phát triển hơn so với
trước năm 1991, song chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn
của hai bên. Năm là, quy mô hợp tác khoa học - công nghệ và giáo
dục - đào tạo giữa hai nước còn khiêm tốn so với nhu cầu và tiềm
năng của hai bên.
Nguyên nhân hạn chế:
Một là, Việt Nam và Ấn Độ đều đổi mới và cải cách, thu
hút được nhiều dự án đầu tư mới, song cũng phải giải quyết rất
nhiều khó khăn, thách thức mới nảy sinh trong quan hệ với các

nước khác. Hai là, các cơ chế hợp tác chưa thích ứng, chưa phù hợp
với các nguyên tắc kinh tế thị trường. Ba là, Việt Nam chưa kịp thời
đưa ra những chính sách cụ thể, hấp dẫn, định hướng, khuyến
khích và hỗ trợ các doanh nghiệp. Bốn là, do phía Ấn Độ có chính
sách bảo hộ nền nông nghiệp nên các sản phẩm nông nghiệp của Việt
Nam khó vào được thị trường Ấn Độ, nếu vào được phải chịu mức
thuế cao, dẫn đến lợi nhuận thấp.
3.2. Một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo phát
triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2011
3.2.1. Luôn nhận thức đúng tình hình mỗi nước, xu thế
vận động, phát triển trong khu vực, trên thế giới, kịp thời đề ra chủ
trương phát triển quan hệ với Ấn Độ trong tình hình mới
3.2.2. Trên nền tảng phát huy yếu tố hữu nghị truyền
thống, đẩy mạnh quan hệ song phương và đa phương tạo cơ sở
vững chắc để phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ
3.2.3. Phát triển quan hệ với Ấn Độ phải phục vụ lợi ích
dân tộc, phù hợp với mục tiêu vì hòa bình, hợp tác, phát triển của
khu vực và thế giới.
3.2.4. Trong quá trình phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn
Độ, các bộ, ngành, các địa phương luôn phải phối hợp chặt chẽ,
nhịp nhàng trong mọi lĩnh vực hợp tác.


23
Kết luận chương 3
Sau hai mươi năm (1991 - 2011) phát triển quan hệ Việt Nam
với Ấn Độ đã đạt được những thành tựu quan trọng mang ý nghĩa đột
phá, thay đổi về chất. Những kết quả đạt được trong quá trình phát
triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ (1991 - 2011) đã củng cố thêm
quan hệ hữu nghị truyền thống và nâng cao hiệu quả, bền vững của

quan hệ Việt Nam với Ấn Độ. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế
nhất định trong quá trình hợp tác như các lĩnh vực quốc phòng,
thương mại, du lịch…, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và
chủ quan, những yếu tố tác động đến sự phát triển quan hệ Việt Nam
với Ấn Độ. Những hạn chế trên chỉ là tạm thời, với đà phát triển ở
ầm đối tác chiến lược, sự quyết tâm của hai chính phủ và sự ủng hộ
của các tầng lớp nhân dân hai nước nhất định sẽ phát trển bền vững
hơn nữa trong tương lai.
Quá trình phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ cho thấy việc
nhận thức đúng xu thế vận động của quốc tế, kịp thời đề ra chủ
trương phát triển quan hệ với Ấn Độ trong tình hình mới là rất quan
trọng. Trên nền tảng phát huy yếu tố hữu nghị truyền thống, đẩy
mạnh quan hệ song phương và đa phương tạo cơ sở vững chắc để
phát triển quan hệ Việt Nam với Ấn Độ phải tiến hành thường
xuyên. Quá trình phát triển quan hệ với Ấn Độ phải phục vụ lợi ích
dân tộc không xa rời mục tiêu vì hòa bình, hợp tác, phát triển của
khu vực và thế giới. Từ thực tiễn phát triển quan hệ Việt Nam với
Ấn Độ, các bộ, các ngành, các địa phương cần phải phối hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng trong mọi lĩnh vực hợp tác để nâng cao hiệu quả,
đáp ứng được tiềm năng và triển vọng của hai bên.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đề tài: ''Đảng lãnh đạo phát triển quan hệ Việt Nam
với Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2011'', luận án đã làm sáng tỏ những vấn
đề như:
1.Từ nhận thức đối với Ấn Độ là một nước lớn trong khu vực
và trên thế giới, quan hệ Việt Nam với Ấn Độ được kế thừa di sản
của lịch sử, văn hóa, của lãnh tụ và nhân dân hai nước dày công vun
đắp. Triển khai chính sách “hướng Đông”, Ấn Độ có nhiều lợi ích ở
Đông Nam Á. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam luôn nhất quán quan điểm coi trọng việc củng cố và phát triển

quan hệ hợp tác với Ấn Độ.
2. Chủ trương của Đảng về phát triển quan hệ với Ấn Độ từ
năm 1991 đến năm 2011 nhằm thực hiện đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa phù hợp với tình hình quốc tế và
khu vực, tương đồng với chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Thực hiện
nhất quán quan điểm phát triển quan hệ đối với Ấn Độ và đưa mối
quan hệ Việt Nam với Ấn Độ đi vào chiều sâu, hiệu quả bền vững tạo
động lực mới cho các doanh nghiệp của cả hai bên đều tăng trưởng
kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh...


24
3. Nhìn tổng quát quan hệ Việt Nam với Ấn Độ từ năm 1991
đến năm 2011 đã đạt được những ưu điểm nổi bật trên nhiều lĩnh vực
hơp tác song phương như: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo
vv, đến hợp tác đa phương trên nhiều vấn đề an ninh và hợp tác ngoại
giao quan trọng, đưa quan hệ hai nước bước sang thời kỳ mới với sự
phát triển cả bề rộng và chiều sâu, trở thành mối quan hệ đối tác chiến
lược gắn bó và tin cậy.



×