Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

bất cập trong công tác quản lý thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.88 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và là một công cụ quan
trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ của
mình. Quản lý thuế là một trong những hoạt động quản lý hành chính nhà nước
nhằm thực hiện các mục tiêu đặt ra cho thuế trên cơ sở tổ chức bộ máy quản lý
thuế theo mô hình quản lý phù hợp từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý
thuế được thực hiện bằng các quy trình nghiệp vụ cụ thể theo các nguyên tắc nhất
định trên cơ sở thông tin có chất lượng thu được từ hệ thống bảo đảm thông tin
quản lý thuế nhằm phát huy hiệu lực và hiệu quả của cơ chế hành thu.
Ở Việt Nam,thuế luôn giữ một tỉ lệ lớn,tuy nhiên thuế lại là một vấn đề nhạy
cảm và thường gây ra sự phản ứng của người dân. Chính vì vậy làm sao để thu
thuế đạt hiệu quả mà vẫn đảm bảo tính công bằng và nguyện vọng của người dân
đó là phải thực hiện một công tác quản lý về thuế tốt. Nhận thức được vai trò của
công tác quản lý thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, em đã lựa chon đề tài:"
Những bất cập trong công tác quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay" để tìm hiểu
và nghiên cứu những vấn đề chung nhất về thuế và quản lý thuế, tìm hiểu thực
trạng quản lý thuế ở Việt Nam trong giai đoạn gần đây và đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện hơn công tác quản lý thuế ở Việt Nam.

2


Chương I: Những vấn đề chung về thuế và
quản lý thuế
I. Khái quát chung về thuế:
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại thuế:


1.1.Khái niệm:
Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều chỉnh của pháp
luật, các chuyên gia về luật thuế cũng đã nhận định:"Thuế là một trật tự đã được
thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa
vụ thu nộp vào ngân sách. Thuế không có sự phân biệt đối xử nào với các bang
hay vùng lãnh thổ".
Hiểu một cách chung nhất:"Thuế là hình thức động viên bắt buộc của nhà nước
theo luật định nhằm tập trung một bộ phận thu nhập của các thể nhân và pháp nhân
vào ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước và phục vụ lợi
ích công cộng".
1.2 Đặc điểm:
- Thuế là khoản thu mang tính chất bắt buộc vào ngân sách nhà nước.
- Thuế là một khoản thu của ngân sách nhà nước mang tính chất không hoàn
trả trực tiếp.
-Thuế là một hình thức phân phối của cải xã hội chứa đựng các yếu tố chính
trị, kinh tế, xã hội.
1.3. Phân loại:
Theo khả năng chuyển dịch gánh nặng thuế, có 2 loại thuế cơ bản là: thuế trực
thu và thuế gián thu.
Theo nội dung của cơ sở thuế, có thể phân loại thuế thành:
- Thuế đánh vào thu nhập: chỉ được thực hiện đối với những đối tượng có giá
trị thặng dư do phát sinh từ tài sản của họ. Các loại thuế như thuế thu nhập doanh

3


nghiệp, thuế thu nhập cá nhân có đối tượng tính thuế là những phần thu nhập phát
sinh trong quá trình sử dụng tài sản của mình hay do kết quả của lao động.
- Thuế đánh vào tiêu dùng: phần lớn là các loại thuế gián thu như thuế giá trị
gia tăng, thuế tiêu thu đặc biệt. Đặ điểm của các loại thuế trong nhóm thuế này đối

tượng tính thuế chính là phần thu nhập của người chịu thuế được mang tiêu dùng
vào thời điểm chịu thuế.
- Thuế đánh vào tài sản: là thuế đánh vào bản thân tài sản chứ không phải đánh
vào phần thu nhập phát sinh từ tài sản đó. Các loại thuế như thuế nhà đất, thuế
vốn, thuế chuyển nhượng tài sản, chuyển nhượng vốn là loại thuế tài sản.
2. Vai trò của thuế:
Thứ nhất, thuế là công cụ chủ yếu của nhà nước nhằm huy động, tập trung một
phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách nhà nước.
Thứ hai, thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế - xã
hội.
Thứ ba, thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối.
II. Khái quát chung về quản lý thuế:
1. Khái niệm, đặc điểm:
1.1. Khái niệm:
Theo nghĩa hẹp, quản lý thuế là một lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Quản lý thuế là việc tổ chức thực thi pháp luật thuế cảu nhà nước, là hoạt độngtác
động và điều hành họt động đóng thuế của người nộp thuế.
Theo nghĩa rộng, quản lý thuế là hoạt động mang tính lạp pháp về thuế gồm
các hoạt động về: hoạt động xây dựng chính sách thuế, ban hành pháp luật thuế,
hoạt động tổ chức hành thu, xử lý vi phạm pháp luật thuế.
1.2. Đặc điểm:
-Quản lý thuế là việc quản lý bằng pháp luật.
4


-Quản lý thuế được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp hành chính.
-Quản lý thuế là hoạt động mang tính kĩ thuật, nghiệp vụ chặt chẽ.
2. Vai trò của quản lý thuế:
Như đã biết thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Trong quản lý

thu ngân sách nhà nước thì việc đảm bảo quản lý thu thuế là quan trọng nhất và
mang tính quyết định. Điều đó xuất phát từ vai trò của quản lý thuế:
-Thứ nhất, quản lý thuế quyết định trong việc đảm bảo nguồn thu từ thuế được
tập trung chính xác, kịp thời, thường xuyên, ổn định vào ngân sách nhà nước.
-Thứ hai, quản lý thuế góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật cũng như các
quy định về quản lý thuế.
-Thứ ba, quản lý thuế làm phát huy việc kiểm soát và điều tiết các hoạt động
kinh tế xã hội.
3. Nguyên tắc quản lý thuế:
Để hoạt động quản lý thuế đạt hiệu quả cần tuân thủ theo một số nguyên tắc
nhất định. Cụ thể:
-Phải tuân thủ đúng pháp luật.
-Đảm bảo tính hiệu quả.
-Thúc đẩy ý thức tự tuân thủ của người nộp thuế.
-Tuân theo nguyên tắc công khai, minh bạch.
-Tuân thủ và phù hợp với các thông lệ quốc tế.

Chương II: Những bất cập trong công tác quản lý thuế ở
Việt Nam hiện nay
I.Thực trạng quản lý thuế Việt Nam
1. Chính sách thuế và việc thực hiện chính sách thuế:
Ở Việt Nam,Luật Quản Lý Thuế số 78/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của
5


Quốc Hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 năm 2006 ra đời là cơ sở để tiến hành, thực hiện
việc quản lý thu thuế ở nước ta theo đúng quy trình thủ tục và theo đúng các quy
định của pháp luật. Đến nay là bộ luật số: 106/2016/QH13 ngày 06 tháng 4 năm
2016 Luật sửa đổi,bổ sung một số điều của luật thuế GTGT ,luật thuế tiêu thụ đặc
biệt và luật quản lý thuế.

Nghĩa vụ trách nhiệm pháp luật và quyền lợi của đối tượng nộp thuế, cơ quan
thuế và tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác thuế chưa được quy định đầy đủ
và thiếu nhất quán giữa các sắc thuế. Do đó chưa có đủ cơ sở pháp lý để tổ chức
quản lý thuế có hiệu quả.
2. Hoạt động của bộ máy quản lý thuế:
Sơ đồ bộ máy quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay.

6


Chức năng và nhiệm vụ của từng cấp cơ quan thuế được phân cấp như sau:
Tổng cục Thuế thực hiện các nhiệm vụ: Tham gia nghiên cứu, xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật về thuế, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thuế
theo phân cấp của Bộ Tài chính để hướng dẫn thực hiện trong phạm vi cả nước;
Nghiên cứu, xây dựng các quy trình nghiệp vụ quản lý thuế; hướng dẫn, chỉ đạo, tổ
chức thực các quy trình, biện pháp nghiệp vụ, quản lý biên chế, kinh phí, bảo đảm
thống nhất trong toàn ngành thuế. Tổng cục thuế cũng thực hiện chỉ đạo cơ quan
thuế các cấp thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật thuế,
trực tiếp tổ chức thanh tra thuế đối với những đối tượng nộp thuế lớn, có phạm vi
kinh doanh đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều địa phương hoặc quốc tế.
Cục Thuế bên cạnh nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo các Chi cục Thuế thực hiện
các chức năng quản lý thuế trên địa bàn, còn trực tiếp quản lý thuế đối với các
doanh nghiệp lớn và vừa, có phạm vi kinh doanh liên quan đến nhiều quận huyện,
tỉnh, thành phố; các doanh nghiệp thuộc diện phải hoàn thuế giá trị gia tăng; quản
lý những nguồn thu lớn, quan trọng, gồm các sắc thuế: giá trị gia tăng, tiêu thụ đặc
biệt, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân theo phương pháp khấu trừ tại
nguồn, các khoản phí, lệ phí của các tổ chức, doanh nghiệp thuộc tỉnh, thành phố
quản lý. Thực hiện chức năng thanh tra đối với tất cả các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Chi cục Thuế trực tiếp quản lý thuế đối với các tổ chức, cá nhân nộp thuế còn

lại, đó là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, các đối tượng nộp thuế thu nhập cá
nhân (không qua khấu trừ tại nguồn), các khoản thu lệ phí trước bạ, thuế chuyển
quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, các loại phí, lệ phí phát sinh trên địa bàn quận,
huyện, thị xã... và các sắc thuế mới theo chương trình cải cách của Nhà nước. Chi
cục Thuế thực hiện tất cả các chức năng quản lý thuế, trừ nhiệm vụ thanh tra thuế.
3. Thực trạng thuế ở Việt Nam:

7


Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Bùi Văn Nam cho biết, năm 2016 tình
hình tài chính, tiền tệ, kinh tế thế giới tiếp tục phức tạp, trong nước diễn biến thời
tiết có nhiều bất lợi với thiên tai, lũ lụt, hạn hán diễn ra liên tục đã tác động xấu
đến nền kinh tế nước ta, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình thu ngân sách Nhà
nước. Tuy nhiên với sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, Bộ Tài chính và sự nỗ
lực của Tổng cục Thuế, ngành Thuế đã huy động, khai thác kịp thời nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tạo thuận
lợi cho người nộp thuế, gắn liền với tăng cường kỷ cương kỉ luật nội ngành. Kết
quả năm 2016 toàn ngành đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước năm 2016, ông
Cao Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế thông tin, số thu do ngành
Thuế quản lý ước đạt 884.399 tỷ đồng, vượt 9,3% so dự toán pháp lệnh (tương ứng
vượt 74.899 tỷ đồng). Thu từ dầu thô đạt 40.186 tỷ đồng (bằng 73,7% dự toán).
Thu nội địa ước đạt 844.214 tỷ đồng (bằng 111,8% dự toán) . Trong đó: Thu tiền
sử dụng đất đạt 97.495 tỷ đồng, bằng 195% dự toán (vượt 47.495 tỷ đồng); Thu cổ
tức và lợi nhuận còn lại đạt 74.168 tỷ đồng (bằng 134,9% dự toán); thu nội địa
không kể tiền sử dụng đất, cổ tức và lợi nhuận còn lại đạt 672.550 tỷ đồng (bằng
103,5% dự toán).
Trong năm qua, toàn ngành Thuế đã tập trung hướng dẫn người nộp thuế thực
hiện đúng chính sách, pháp luật thuế, cập nhật thường xuyên các văn bản quy

phạm pháp luật về thuế. Công tác kiểm kê, rà soát mã số thuế luôn được cơ quan
thuế các cấp quan tâm và chú trọng đảm bảo kiểm soát, nắm bắt kịp thời đối tượng
nộp thuế, để đưa vào diện theo dõi, quản lý thuế. Đáng chú ý, công tác thanh tra
kiểm tra năm 2016 được xem là một trong những nhiệm vụ được ngành Thuế đặc
biệt quan tâm và chú trọng. Ước thực hiện năm 2016, toàn ngành thanh tra, kiểm
tra 84.472 doanh nghiệp (đạt 94,2% kế hoạch năm 2016) với tổng số thuế tăng thu
8


qua thanh tra, kiểm tra là 17.164 tỷ đồng, từ đó số tiền thuế nộp vào ngân sách là
11.907 tỷ.
Số thu do ngành Thuế quản lý ước đạt 884.399 tỷ đồng, vượt 9,3% so dự toán
pháp lệnh (tương ứng vượt 74.899 tỷ đồng). Thu từ dầu thô đạt 40.186 tỷ đồng
(bằng 73,7% dự toán). Thu nội địa ước đạt 844.214 tỷ đồng (bằng 111,8% dự toán)
. Trong đó: Thu tiền sử dụng đất đạt 97.495 tỷ đồng, bằng 195% dự toán (vượt
47.495 tỷ đồng); Thu cổ tức và lợi nhuận còn lại đạt 74.168 tỷ đồng (bằng 134,9%
dự toán); thu nội địa không kể tiền sử dụng đất, cổ tức và lợi nhuận còn lại đạt
672.550 tỷ đồng (bằng 103,5% dự toán).
Nhiều Cục Thuế địa phương đã thực hiện báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
thu ngân sách trong năm 2016 như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà
Nẵng, Nghệ An, Quảng Nam, Đồng Nai... Hầu hết các địa phương đều hoàn thành
vượt mức nhiệm vụ được giao và cam kết bước sang năm 2017 sẽ tiếp tục phát huy
kết quả đạt được, hoàn thành và hoàn thành vượt chỉ tiêu mà Bộ Tài chính cũng
như Tổng cục Thuế đã giao.
Ông Cao Anh Tuấn cho biết, năm 2017, toàn ngành Thuế sẽ tập trung, phấn đấu
quyết liệt để hoàn thành vượt mức cao nhất nhiệm vụ thu ngân sách năm 2017 đã
được Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính giao là 968.580 tỷ đồng. Con số này
tăng 9,5% so với ước thực hiện năm 2016, trong đó dầu thô là 38.300 tỷ đồng và
thu nội địa là 930.280 tỷ đồng.
Bóc tách giá trị của ngành khai khoáng ra khỏi tổng sản phẩm trong nước (GDP )

và thấy rằng thực tế nền kinh tế tăng trưởng khả quan trong 6 tháng đầu năm với
mức tăng 7% so với cùng kỳ 2016, cao nhất trong nhiều năm.

9


Với tăng trưởng kinh tế vẫn tương đối khả quan và tỷ lệ thâm hụt ngân sách đã
giảm mạnh, báo cáo Vietnam Chartbook của SSI cho rằng không nhất thiết phải
thực thi các chính sách kích thích gấp gáp trong những tháng còn lại của năm
2017, cụ thể như gia tăng sản lượng khai thác dầu thô hoặc đẩy nhanh tín dụng để
đạt bằng được mục tiêu tăng trưởng 6,7%. Thay vào đó cần tập trung chú ý vào các
giải pháp kích cung và xuất khẩu để có tăng trưởng cao và bền vững cho các năm
tiếp theo.

Tăng trưởng GDP không tính khai khoáng - Nguồn: SSI
Nhờ kinh tế ở trạng thái tốt, các nguồn thu ngân sách đã có tăng trưởng khả quan.
Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2017, thu thuế giá trị gia tăng (VAT) đạt 141.000 tỷ
đồng, tăng 17,2% so với cùng kỳ 2016, mức tăng cao nhất 6 năm.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đạt 101.000 tỷ đồng, tăng 10,6% so với
cùng kỳ 2016.
Thuế VAT và TNDN chiếm tới 43% tổng thu ngân sách (riêng thu từ thuế VAT
chiếm 25%) nên tăng trưởng của 2 khoản thu thuế này có tác động tích cực đến thu
ngân sách nói chung.

10


Do đó, trong nửa đầu năm 2017 thu ngân sách tăng 14% so với cùng kỳ 2016, đạt
563.500 tỷ đồng. Trong đó thu nội địa 6 tháng là 451.000 tỷ đồng, tăng 12,4% so
với cùng kỳ 2016.

Thu từ dầu thô là 23.000 tỷ đồng, tăng 15,6%,và thu từ xuất nhập khẩu là 88.500
tỷ đồng, tăng 22,2%. Thu từ dầu thô khả quan nhờ giá dầu tăng. Giá dầu thô giả
định trong dự toán là 50 USD/thùng nhưng trung bình 6 tháng đạt 54,6
USD/thùng.

Biểu đồ: SSI
Bội chi ngân sách 6 tháng tăng lên 19.400 tỷ đồng

11


Chi ngân sách tháng 6/2017 là 98.300 tỷ đồng, đẩy chi 6 tháng đầu năm 2017 lên
582.900 tỷ đồng, tăng 8,3% so với cùng kỳ 2016.
Số liệu công bố từ Bộ Tài chính không chi tiết cho các khoản chi 6 tháng. Sử dụng
số liệu đến ngày 15/6/217 của Tổng cục Thống kê, chi đầu tư phát triển từ đầu năm
là 83.300 tỷ đồng, tăng gần 12% so với cùng kỳ 2016.
Mặc dù có tăng nhưng giải ngân vốn đầu tư phát triển vẫn rất thấp so với kế hoạch,
chỉ đạt 23,3% dự toán dù đã đi hết nửa năm.
Cũng theo số liệu Tổng cục Thống kê, chi thường xuyên tính đến 15/6/2017 là
398.900 tỷ đồng, tăng 9,8% so với cùng kỳ 2016 và chi trả nợ, viện trợ là 88.100
tỷ đồng, tăng gần 30% so với cùng kỳ 2016.
Bội chi ngân sách 6 tháng đầu năm tăng nhẹ, âm 19.400 tỷ đồng, gần bằng 1%
GDP (cùng kỳ là 2,96% GDP). Đây là tỷ lệ thâm hụt thấp nhất trong nhiều năm trở
lại đây.
Bội chi ngân sách ở mức thấp có được là nhờ thu ngân sách tăng tốt, cụ thể là các
nguồn thu chính là thuế VAT, thuế TNDN và thu từ xuất nhập khẩu.

12



Chi thường xuyên 6 tháng có tốc độ tăng cao hơn dự toán (9,8% so với 7%) nhưng
nhờ thu tốt nên thâm hụt không bị nới rộng.
Chi đầu tư phát triển được dự toán vào đầu năm tăng rất cao (33%) với mục tiêu sử
dụng công cụ tài khóa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên thực tế triển khai
lại không được như kế hoạch.

II. Những hạn chế và nguyên nhân quản lý thuế kém hiệu quả:
1. Một số hạn chế:
1.1. Về chính sách, pháp luật thuế:
Thủ tục hành chính còn rườm rà, gây khó khăn cho người nộp thuế; một số quy
định về thủ tục hồ sơ chưa đồng bộ với các văn bản pháp luật khác. Luật Quản lý
thuế hiện hành chủ yếu vẫn đảm nhiệm sứ mệnh giải quyết tình thế cho các luật về
chính sách thuế, nên không mang tính chất thực tiễn cao, chưa đáp ứng được
nguyện vọng của người nộp thuế, bởi vì nộp thuế không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là
13


quyền của người dân, doanh nghiệp đóng góp với Nhà nước, xã hội. Mối quan hệ
giữa người nộp thuế chưa trở thành mối quan hệ trung tâm của luật này nên các cơ
chế bảo đảm thực hiện vẫn dành quyền lợi hơn cho cơ quan thuế. Các quy định của
luật mang tính chất bắt buộc, cưỡng chế, chứ chưa khuyến khích thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế. Chính vì thế luật này chưa đạt được mục tiêu nâng cao nhận thức về
việc tuân thủ nghĩa vụ của hàng chục triệu người nộp thuế.
Hiện nay, việc người nộp Thuế thực hiện các giao dịch với cơ quan thuế thông
qua môi trường điện tử ngày càng phổ biến ( nộp hồ sơ khai thuế qua mạng )
nhưng luật quản lý thuế chưa quy định tính pháp lý đối với các giao dịch thông qua
môi trường này. Thời hạn nộp hồ sơ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp
trong luật quản lý thuế chưa phù hợp với người nộp thuế có thu nhập ở nước ngoài
thường dài hơn thời hạn khai thuế theo quy định tại văn bản pháp luật về thuế của
Việt Nam. Quy định về thời gian nộp hồ sơ khai lệ phí trước bạ trong luật quản lý

thuế và thời hạn đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản theo quy định của
pháp luật về đăng ký tài sản chưa thống nhất, dẫn đến cách hiểu khác nhau giữa
giữa người nộp thuế với cơ quan thuế và giữa các địa phương thực hiện. Luật quy
định "hồ sơ hoàn thuế được nộp tại cơ quan quản lý thuế trực tiếp hoặc tại cơ quan
hải quan có thẩm quyền hoàn thuế" nhưng lại chưa có quy định đối với trường hợp
nhà thầu nước ngoài không có cơ quan quản lý thuế trực tiếp.
Tại điều 32 Luật quản lý thuế quy định thời hạn nộp hồ sơ khai thuế chậm nhất
là ngày thứ 10 kể từ ngày phát sinh thuế đối với các loại thuế khai và nộp từng lần
phát sinh. Tuy nhiên ngày phát sinh nghĩa vụ thuế là thời điểm nào, cụ thể như thế
nào lại chưa có văn bản hướng dẫn chưa đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch.
Tại điểm 2, Điều 32, luật quản lý thuế quy định , thời hạn nộp thuế năm chậm
nhất là ngày thứ 90 ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính. Nhưng theo

14


các chuyên gia , thời gian 90 ngày là quá ngắn để doanh nghiệp tập hợp chứng từ
phục vụ việc quyết toán, dẫn đến nhiều trường hợp doanh nghiệp đến hạn nộp hồ
sơ quyết toán nhưng sau khi có kết quả kiểm toán lại phải làm hồ sơ điều chỉnh
quyết toán thuế năm mất rất nhiều thời gian, công sức.
Tại điều 8 của Luật Quản Lý Thuế quy định cơ quan quản lý thuế có trách
nhiệm " Giải thích, cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế
cho người nộp thuế". Luật cũng quy định các tổ chức , cá nhân có trách nhiệm tự
kê khai, tính thuế , nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật để thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế. Nhưng luật lại không quy định trường hợp cơ quan quản lý thuế
giải thích, hướng dẫn sai, dẫn đến người nộp thuế kê khai, tính thuế sai thì trách
nhiệm của cơ quan thuế phải xác định và xử lý như thế nào. Thực tế đã cho thấy,
có một số trường hợp doanh nghiệp đã khởi kiện cơ quan thuế ra tòa vì hướng dẫn
sai, rồi sau đó lại xử phạt doanh nghiệp. Do đó, xây dựng các căn cứ pháp lý điều
chỉnh cho các trường hợp này cũng đang là đòi hỏi cấp thiết từ thực tế.

Như vậy, luật quản lý thuế có vai trò hết sức quan trọng trong việc điểu hành chính
sách thuế, hay nói cách khác, Luật quản lý thuế là luật tổ chức thực hiện các luật
thuế. Vì lẽ đó hiệu quả của các luật về chính sách thuế như Luật thuế thu nhập cá
nhân, Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế GTVT...phụ thuộc rất nhiều vào luật
quản lý thuế. Để luật quản lý thuế đi vào cuộc sống, được thực thi một cách có
hiệu quả trong thực tế thì ngày từ khi thiết kế, xây dựng, các nhà hoạch định phải
xác định đúng quan điểm, định hướng xây dựng luật là phục vụ người dân, theo đó
bộ máy quản lý vận hành chỉ là để thực thi thể chế và phục vụ nhân dân, chỉ khi
được tạo dựng trên nền tảng cơ bản đó, các quy định cụ thể của luật quản lý thuế
mới được soạn thảo đúng hướng, đúng mục tiêu để trở thành một đạo luật hoàn
chỉnh, vừa đáp ứng đầy đủ kịp thời yêu cầu của công tác quản lý, vừa phù hợp với
ý nguyện của người nộp thuế.Tính pháp lý của các quy định về quản lý thuế chưa
15


cao, dẫn đến hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật thuế; các quy định về quản lý
thuế còn phân tán tại nhiều văn bản pháp luật, có nội dung còn chưa thống nhất;
quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp luật của các chủ thế tham gia quản lý
thuế chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng, ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác
quản lý thuế, công tác phòng chống, xử lý các hành vi vi phạm phát luật thuế,
chống thất thu thuế còn hạn chế.
1.2. Thủ tục hành chính thuế:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Báo cáo giám sát của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành
chính. Trong một số lĩnh vực vẫn còn nhiều thủ tục hành chính rườm rà, chồng
chéo, chưa hợp lý, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp.
Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính tại các địa phương, đơn vị mặc dù
đã có chương trình, kế hoạch, nhưng chưa tạo được bước đột phá mạnh mẽ. Có
loại thủ tục hàn chính hợp pháp nhưng không hợp lý, chưa phù hợp với thực tế, kể
cả những “giấy phép con” do các cơ quan quản lý tự quy định; còn tình trạng ban

hành văn bản chứa quy phạm pháp luật, trong đó có những quy định không phù
hợp cả về thẩm quyền, hình thức và nội dung theo quy định của Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật.
Mô hình cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” ở
một số nơi còn lúng túng, chưa thực sự hợp lý trong một số lĩnh vực; sự phối hợp
giữa các cấp, các ngành còn chưa nhất quán, thiếu đồng bộ; thời gian giải quyết
vẫn còn dài ở một số thủ tục; trụ sở làm việc, cơ sở vật chất một số nơi chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
1.3. Lực lượng cán bộ quản lý thuế:

16


Tình trạng cán bộ, công chức giải quyết công việc chậm trễ, cửa quyền, hách
dịch, sách nhiễu, tiêu cực, tham nhũng còn khá phổ biến; tình trạng để doanh
nghiệp, công dân phải đi lại nhiều lần chưa được khắc phục. Đây là một trong
những nguyên nhân rất cơ bản làm cho mức độ hài lòng của người dân, doanh
nghiệp về công tác cải cách thủ tục hành chính chưa cao. Mức độ chuyên nghiệp,
tính chuyên sâu, kỹ năng hành chính và cả đạo đức, phẩm chất của một bộ phận
cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.
2. Nguyên nhân:
Thứ nhất, do hệ thống pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn còn chưa hoàn
thiện, có những nội dung còn chưa sát với thực tế quản lý thu thuế tại Việt Nam
nên còn gây ra những hạn chế trong việc tận thu vào ngân sách nhà nước.
Thứ hai, do trình độ của đội ngũ cán bộ thuế thấp sẽ dẫn đến sự yếu kém trong
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế đến mọi người dân. Nhà nước
buộc người dân phải thực hiện nghĩa vụ thuế nhưng chưa chỉ ra cho họ thấy quyền
lợi được hưởng. Trình độ đội ngũ cán bộ thuế thấp cũng dẫn đến những sai phạm
trong quá trình quản lý thu thuế: tính thuế, quyết toán thuế,... Đặc biệt trong công
tác thanh tra thuế điều này càng được thể hiện rõ ràng hơn. Thủ đoạn trốn thuế

hiện nay ngày càng tinh vi, phức tạp. Trình độ đội ngũ cán bộ thuế còn nhiều hạn
chế thì không thể phát hiện ra những sai phạm của đối tượng bị thanh tra. Trong
những năm gần đây, ngành thuế đã tập trung đào tạo kiến thức cơ bản cho cán bộ
của ngành nhưng mới chỉ dừng lại ở việc gửi cán bộ đi học tại các trường đại học
và trung học chứ chưa chuyên sâu về nghiệp vụ thuế và các kiến thức theo tiêu
chuẩn ngạch công chức nhà nước quy định. Ngành thuế đã tổ chức các lớp tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ nhưng mới chỉ tập trung vào một số cán bộ chủ chốt,
chưa làm được nhiều và thường xuyên đối với đội ngũ đông đảo cán bộ trực tiếp
quản lý ở các địa phương. Nhiều cán bộ thuế chưa nắm được kiến thức cơ bản về
17


luật thuế ngay trong lĩnh vực chuyên môn mình đảm nhận.
Thứ ba, điều kiện vật chất ngành thuế còn lạc hậu, cơ sở làm việc còn chật
chội, hệ thống thông tin phục vụ công tác quản lý chưa được nâng cấp. Việc trao
đổi thông tin giữa các ngành thuế với các ngành liên quan chưa chặt chẽ, không
đầy đủ làm giảm tính khả thi, chính xác và hiệu quả trong công tác quản lý thu
thuế.
Thứ tư, do ý thức của người dân về nghĩa vụ thuế còn thấp. Nhiều người dân
chưa hiểu biết đầy đủ về các loại thuế và sự tự giác còn chưa cao, chưa có sự hiểu
biết cặn kẽ về quyền lợi và nghĩa vụ của người nộp thuế nên có nhiều những biểu
hiện trốn tránh, thoái thác việc thực hiện pháp luật thuế. Bản thân những người
hiểu biết cũng cố tình làm sai và không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.

18


Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế ở
Việt Nam hiện nay


I. Định hướng hoàn thiện công tác quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay:
Để hoàn thành mục tiêu này, Tổng cục Thuế đã đề ra 4 nhóm giải pháp và 28
biện pháp cụ thể tập trung vào những vấn đề: Triển khai đồng bộ các giải pháp
nhằm hoàn thiện nhiệm vụ thu ngân sách năm 2017; Triển khai thực hiên kịp thời,
có hiệu quả các biện pháp chỉ đạo của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến
khích khởi nghiệp; Đẩy mạnh tiến trình cải cách hiện đại hóa hệ thống thuế, tiếp
tục rà soát, cải cách thủ tục hành chính thuế; Các giải pháp về thực hiện tốt chương
trình phòng và chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí và tăng
cường công tác quản lý nội ngành.
Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn nhận định, nhiệm vụ năm 2017 của ngành Thuế
hết sức khó khăn. Để hoàn thành tốt, trước hết Tổng cục Thuế phải quyết liệt thực
hiện các Nghị quyết 19/NQ-CP và Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ về các
giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phát triển nguồn lực tài chính quốc gia.
Công tác quản lý xử lý nợ đọng thế cũng cần được chú trọng để tăng thu, giảm nợ
đọng vào ngân sách nhà nước. Ngoài ra, công tác thanh tra cũng cần được đẩy
mạnh trên toàn ngành. Thứ trưởng đề nghị Tổng cục Thuế ngay từ những ngày đầu
năm, tháng đầu năm, quý đầu năm phải cụ thể hóa từng nhiệm vụ đến từng đơn vị,
từng bộ phận, nỗ lực hết mình để hoàn thành trọng trách của năm 2017.
II. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay:

19


1. Về chính sách thuế:
Thứ nhất, loại bỏ những chứng từ không cần thiết. Nghị quyết của Chính phủ
đã yêu cầu rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan thuế như:
giảm thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế từ 5 ngày làm việc
ngày xuống 3 ngày làm việc; rút ngắn thời hạn giải quyết đối với trường hợp "hoàn
thuế trước, kiểm tra sau" từ 15 ngày làm việc xuống còn 6 ngày làm việc; giảm

thời hạn giải quyết đối với trường hợp "kiểm tra trước, hoàn thuế sau" từ 60 ngày
xuống còn 40 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định. Do đó, Luật Quản lý
thuế cũng cần thiết phải rà soát, sửa đổi cho phù hợp với mục tiêu cải cách thủ tục
hành chính.
Về hồ sơ của người nộp thuế gửi cho cơ quan thuế, Luật Quản lý thuế quy định
một số chứng từ, tài liệu đối với một số hồ sơ khai thuế của người nộp thuế. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện luật cho thấy, một số tài liệu không cần thiết,
không phù hợp khi gửi hồ sơ cho cơ quan thuế như người nộp thuế phải nộp
"chứng từ nộp thuế" đối với hồ sơ hoàn thuế trong khi cơ quan thuế đã có dữ liệu
quản lý số thuế đã nộp của ngưòi nộp thuế hoặc người nộp thuế phải nộp "tờ khai
quyết toán thuế" trong hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt đối với trường hợp doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản trong khi quyết định tuyên bố phát sản là quyết định
cao nhất. Do đó cần phải nghiên cứu, loại bỏ bớt các chứng từ không cần thiết
trong hồ sơ của người nộp thuế gửi cho cơ quan thuế.
Thứ hai, điều chỉnh thời gian quyết toán thuế. Một "điểm nóng" trong quá trình
thực thi Luật Quản lý thuế được cộng đồng xã hội quan tâm, cần được điều chỉnh,
đó là thời hạn nộp hồ sơ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp.
Luật Quản lý thuế quy định thời hạn quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp

20


chậm nhất là ngày 31/3 của năm tiếp theo (90 ngày). Thời hạn 90 ngày là quy định
chung cho tất cả các doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các
doanh nghiệp lớn như các tập đoàn, tổng công ty. Trên thực tế, các doanh nghiệp
này phải tổng hợp dữ liệu từ các công ty con vào báo cáo tài chính hợp nhất.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, báo cáo tài chính nộp kèm
theo báo cáo quyết toán thuế còn phải được kiểm toán bởi doanh nghiệp kiểm toán
độc lập (theo quy định của pháp luật về kế toán). Do đó, các tập đoàn, tổng công ty
và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường phát sinh việc chậm nộp hồ

sơ quyết toán thuế năm, dẫn đến phải nộp phạt chậm nộp hồ sơ khai quyết toán
thuế.
Thứ ba, xác định thời điểm gia hạn nộp thuế. Về gia hạn nộp thuế, Luật Quản
lý thuế quy định thời gian gia hạn nộp thuế không quá 2 năm kể từ ngày hết thời
hạn nộp thuế. Trên thực tế, việc giải quyết gia hạn nộp thuế đối với trường hợp
người nộp thuế gặp khó khăn đặc biệt, theo quy định của Chính phủ thường kéo
dài do phải xem xét tới nhiều yếu tố, cần có ý kiến của nhiều cơ quan. Vì vậy, khi
được chấp thuận gia hạn nộp thuế đã vượt quá thời gian bắt đầu tính gia hạn nộp
thuế nên khó xác định cho người nộp thuế được gia hạn tính từ thời điểm nào?
Thứ tư, xóa nợ thuế, phạt thuế. Về xoá nợ tiền thuế, tiền phạt, Luật Quản lý
thuế quy định các trường hợp được xoá nợ thuế là doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật phá sản mà
không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt và cá nhân được pháp luật coi là đã
chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế,
tiền phạt còn nợ. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cho thấy còn có một số trường hợp
khác phát sinh như có nhiều trường hợp nợ thuế, nợ phạt không phải do chủ quan
của doanh nghiệp mà do nguyên nhân khách quan (các thay đổi trong hệ thống

21


chính sách thuế, hải quan, cải cách doanh nghiệp từ 1990 đến nay, tác động của
khủng hoảng kinh tế vào các năm 1998- 1999 và năm 2008- 2009), gây khó khăn
cho việc xác định số tiền thuế phải nộp, tạo gánh nặng cho doanh nghiệp với các
khoản nợ phát sinh do lịch sử để lại chưa được xử lý.
Do vậy, trên thực tế hiện còn tồn tại những khoản nợ thuế đang thuộc diện
khoanh nợ cần được xem xét để xử lý xoá nợ nhưng chưa có quy định để xử lý.
2. Phân cấp chức năng, nhiệm vụ của từng cấp cơ quan quản lý thuế:
Thành lập mới và kiện toàn các bộ phận quản lý thuế theo chức năng gồm: bộ
phận truyền truyền, hỗ trợ; bộ phận xử lý kê khai và kế toán thuế; bộ phận quản lý

nợ và cưỡng chế thuế; bộ phận thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm về thuế để
thực hiện quản lý thuế theo chức năng trong toàn bộ hệ thống thuế.
Thành lập mới và kiện toàn hệ thống tư vấn pháp chế để giúp thủ trưởng cơ
quan thuế các cấp quyết định xử lý hành chính thuế đúng quy định pháp luật thuế,
xử lý các tranh chấp, tố tụng về thuế tại toà án.
Thành lập bộ phận kiểm tra giám sát nội bộ để giúp thủ trưởng cơ quan thuế
các cấp kiểm tra việc chấp hành công vụ của đội ngũ cán bộ thuế.
Sáp nhập các bộ phận có chức năng tương tự như nhau vào một bộ phận; lồng
ghép các nhiệm vụ quản lý thuế mà khối lượng công việc không nhiều vào một bộ
phận cơ cấu để giảm thiểu các các đầu mối quản lý thuế.
Giải thể các bộ phận không có chức năng quản lý thuế cụ thể là các bộ phận
quản lý thuế đối với: Doanh nghiệp, Nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài,
doanh nghiệp dân doanh.
Phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận cơ cấu, khắc phục
tình trạng cùng một loại việc nhưng có nhiều bộ phận cùng thực hiện.
3. Lực lượng cán bộ quản lý thuế:

22


Đánh giá, phân loại lại đội ngũ cán bộ theo cơ cấu tổ chức phải được thảo luận,
thống nhất trong tập thể lãnh đạo Cục, cấp uỷ và một số tổ chức quần chúng như
công đoàn, đoàn thanh niên, cựu chiến binh... bảo đảm công khai, dân chủ và thực
hiện đúng quy định về trình tự, thủ tục điều động luân phiên, luân chuyển cán bộ,
bổ nhiệm lại, bổ nhiệm mới, cho nghỉ trước tuổi... và chuẩn bị phương án xử lý
cán bộ dôi dư theo quy định về tinh giản biên chế của Chính phủ.
Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ công
chức để mọi người thông suốt về nhận thức về việc thực hiện cải cách, hiện đại
hoá ngành, đảm bảo đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, ngăn ngừa những xu hướng
cá nhân, cục bộ, đồng thời tránh tư tưởng trù dập, chủ quan của cán bộ lãnh đạo

đối với cán bộ dưới quyền.
Kết hợp sắp xếp lại cơ cấu tổ chức với việc bố trí luân phiên, luân chuyển công
việc một cách hợp lý để bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ, nhất là năng lực
quản lý, chỉ đạo, điều hành của cán bộ lãnh đạo cơ quan thuế các cấp. Theo đó,
chú ý các cán bộ trong diện bồi dưỡng qui hoạch, cán bộ nữ, cán bộ dám nghĩ dám
làm, có tư duy sáng tạo, có trách nhiệm và hiệu quả cao trong công việc... để thử
thách, rèn luyện.
Ưu tiên bố trí đủ những cán bộ có năng lực, phẩm chất vào các khâu công việc
trực tiếp tiếp xúc với người nộp thuế như: bộ phận thanh tra thuế, kiểm tra thuế,
cung cấp dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế, quản lý thu nợ… và các công việc trọng
tâm trong quản lý thuế. Chú ý các địa bàn trọng điểm có số thu lớn, quản lý thuế
phức tạp. Những cán bộ có trình độ thấp, năng lực chuyên môn yếu hoặc hạn chế
về phẩm chất đạo đức, đã có dấu hiệu, hiện tượng tiêu cực hoặc vi phạm kỷ luật thì
không bố trí vào lĩnh vực các công việc tiếp xúc với người nộp thuế, hoặc những
công việc dễ phát sinh tiêu cực.

23


4. Tổ chức thực hiện chức năng quản lý thuế:
Tuyên truyền những nội dung mới được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện ở các sắc
thuế hiện hành như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài
nguyên, thuế thu từ đất, từ thăm dò, khai thác và sử dụng tài nguyên; chú trọng
tuyên truyền các loại thuế mới ban hành hoặc được triển khai thực hiện trong giai
đoạn tới như: Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế bảo vệ môi trường, Luật phí,
lệ phí thay cho Pháp lệnh phí, lệ phí hiện hành.
Tuyên truyền về nội dung cải cách công tác quản lý thuế, trong đó nhấn mạnh
chủ trương tiếp tục hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế cả về phương
pháp quản lý, thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất,

trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin và áp dụng thuế điện tử, giảm thời
gian thực hiện thủ tục hành chính thuế nhằm đạt được mục tiêu đưa Việt Nam
thuộc nhóm các nước hàng đầu vực Đông Nam Á trong xếp hạng mức độ thuận lợi
về thuế.
Tiếp tục tuyên truyền biểu dương những tổ chức, cá nhân thực hiện tốt nghĩa
vụ thuế, đồng thời phê phán, đấu tranh mạnh mẽ các hành vi gian lận, chây ỳ, trốn
lậu thuế, đặc biệt là trong các doanh nghiệp FDI và lĩnh vực bất động sản.

24


KẾT LUẬN

Công tác quản lý thuế là một trong những vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Nó có
ảnh hưởng và chịu sự chi phối của hàng loạt các quan điểm, chính sách kinh tế-xã
hội và sự phát triển của nền kinh tế-xã hội. Việc nêu những bất cập trong công tác
quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay nhằm khơi tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh.
Nghiên cứu vấn đề về quản lý thuế hiện nay nhằm khái quát những vấn đề cơ
bản về thuế và quản lý thuế. Qua đó phải nắm được yêu cầu của từng loại công
việc như: tuyên truyền và cung cấp dịch vụ hỗ trợ, thanh tra, kiểm tra thuế, ứng
dụng công nghệ tin học... để bố trí, sắp xếp công việc cho cán bộ đúng người, đúng
việc, phát huy đến mức cao nhất năng lực, sở trường, trình độ của từng cán bộ
công chức thuế để quốc gia Việt Nam phát triển sánh ngang với mọi cường quốc
năm châu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

25



×