Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Thực hiện Chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.91 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MẠNH DŨNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KINH TẾ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MẠNH DŨNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KINH TẾ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công
: 60 30 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN CHIẾN THẮNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ chính sách công với đề tài “Thực
hiện Chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của tôi.
Toàn bộ phần số liệu và kết quả được nêu trong Luận văn là trung thực
và có nguồn gốc rõ ràng./.
Tác giả Luận văn

Nguyễn Mạnh Dũng


LỜI CẢM ƠN
Quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn về kiến thức, sự quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ tận tình
của các thầy cô, các tổ chức, cá nhân, bạn bè, đồng nghiệp. Tôi xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc đến:
- Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam;
- Các Thầy, cô giáo Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam đã nhiệt tình giảng dạy, truyền thụ cho tôi những kiến
thức quý báu trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu;
- TS Nguyễn Chiến Thắng, người hướng dẫn, giúp đỡ về kiến thức và
kinh nghiệm trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.

- Huyện ủy, UBND huyện Ba Vì, phòng kinh tế và một số phòng ban
khác của huyện đã tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp tài liệu và hỗ trợ tôi trong
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lời cảm ơn tới các tổ chức, cá nhân, bạn bè,
đồng nghiệp và gia đình đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này./.
Tác giả Luận văn

Nguyễn Mạnh Dũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU: .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH KINH TẾ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ....................... 8

1.1.Những vấn đề lý luận về chính sách kinh tế trong xây dựng nông
thôn mới ............................................................................................... 8
1.2. Tổng quan về chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới. .... 15
1.3. Giải pháp và công cụ chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới . 25
1.4. Kinh nghiệm một số địa phương về thực hiện Chính sách Kinh tế
trong xây dựng Nông thôn mới ở Việt Nam ...................................... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 33

2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội, tự nhiên của huyện Ba Vì ......................... 33
2.2. Kết quả thực hiện chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới
huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội........................................................ 34
2.3.Đánh giá việc thực hiện chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn

mới huyện Ba Vì ................................................................................ 41
2.4. Bất cập trong việc thực hiện chính sách kinh tế trong xây dựng nông
thôn mới trên địa bàn huyện............................................................... 50
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH KINH TẾ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................... 55

3.1. Mục tiêu, định hướng đến năm 2020:................................................ 55
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện chính sách kinh
tế trong xây dựng nông thôn mới huyện Ba Vì.................................. 56
KẾT LUẬN...................................................................................................... 63


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NTM:

Nông thôn mới

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND:

Ủy Ban nhân dân

BCĐ:

Ban chỉ đạo


CNH:

Công ghiệp hóa

HĐH:

Hiện đại hóa

HTX:

Hợp tác xã

QSDĐ:

Quyền sử dụng đất

DĐĐT:

Dồn điền đổi thửa

GPMB:

Giải phóng mặt bằng

UB MTTQ:
VLXD:
KH:
XDCB:


Ủy ban Mặt trận tổ quốc
Vật liệu xây dựng
Kế hoạch
Xây dựng cơ bản


DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Bảng 1: Phụ lục các văn bản lãnh đạo chỉ đạo công tác xây dựng NTM
đến tháng 6 năm 2017
Bảng 2: Kết quả thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM đến hết Tháng
6 năm 2017
Bảng 3: Biểu kết quả chấm điểm các tiêu chí xây dựng NTM các xã
đến hết tháng 6 năm 2017
Bảng 4: Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp
với hơn 70% dân cư đang sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp nông thôn
đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định đối với
việc ổn định kinh tế xã hội đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới là: “Xây dựng
nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ câu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát
triển ngày càng hiện đại ”.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy
(khóa X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 đã nêu một cách toàn
diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới; Nghị quyết khẳng

định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn, có vị trí quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết số
24/2008/NQ-CP, ngày 28/10/2008 của Chính phủ thống nhất nhận thức, hành
động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nông thôn mới, bao gồm tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Chính vì vậy các vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ
của xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là “Tiếp tục triển khai chương
trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vũng theocác bước

1


đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy nét văn hóa
bản sắc của nông thôn Việt Nam”.
Thực hiện đường lối của Đảng, trong thời gian qua, phong trào xây
dựng nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phưomg trên cả nước,
thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của cả xã hội.
Quá trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được thành tựu khá toàn diện. Kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đảm bảo, tạo sự thuận lợi trong giao lưu
buôn bán và phát triển sản xuất; kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng
tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế có
hiệu quả gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập và đời sống vật
chất tinh thần cho người dân; Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và
tăng cường, dân chủ cơ sở được phát huy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội được giữ vững, vị thế của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Những thành tựu đó đã góp phần thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, tạo cơ

sở vững chắc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Huyện ủy - HĐND - UBND
huyện Ba Vì; Chương trình xây dựng NTM sau 6 năm triển khai đã đạt kết
quả tích cực, mang lại một diện mạo mới cho các xã trong huyện. Đó là, kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hợp lý, thúc đẩy xã hội phát triển ổn định, giàu bản
sắc dân tộc, đời sống vật, trình độ dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái
được bảo vệ, hệ thống chính trị dưới dự lãnh đạo của Đảng được tăng cường,
an ninh trật tự xã hội được giữ vững. Chương trình xây dựng NTM tại huyện
Ba Vì giai đoạn 2016 - 2020 đã vạch rõ lộ trình phù hợp với điều kiện thực tế
của từng xã. Mục tiêu cụ thể tiếp tục nỗ lực phấn đấu đến năm 2020 có trên
70% xã đạt tiêu chí NTM, các xã chưa đạt chuẩn phải tăng từ 1-2 tiêu
chí/năm. Toàn huyện tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản
xuất hàng hóa và cải thiện đời sông, nâng cao thu nhập lên 55 triệu đồng, khu

2


vực nông thôn đạt 38 triệu đồng trở lên, giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện còn
dưới 3%, tỷ lệ lao động qua đào tạo trên 50%, có trên 75% người dân tham
gia bảo hiểm y tế, môi trường nông thôn luôn xanh, sạch.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới còn bộc lộ nhiêu khó
khăn hạn chế, nhất là về công tác quy hoạch. Quy hoạch nông thôn mới là
một vấn đề mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực và phải mang tính chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về năng lực, nên
trong quá trình triển khai còn nhiều lúng túng. Bên cạnh đó chúng ta còn gặp
khó khăn vê huy động nguồn vốn cho xây dựng nông thôn mới. Đời sống của
người dân nông thôn còn nhiều khó khăn. Mặt khác, trong nhận thức nhiều
người còn cho rằng xây dựng nông thôn mới là dự án do nhà nước đầu tư xây
dựng nên còn có tâm lí trông chờ, ỷ lại; việc tìm hiểu thực trạng và đánh giá
đúng thực trạng để tìm ra nguyên nhân, đề ra nhiệm vụ và giải pháp cho việc

phát triển nông thôn mới trên địa bàn huyện Ba Vì là phù hợp với yêu cầu
thực tế khách quan.
Do vậy tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách kinh tế trong xây
dựng nông thôn mới từ thực tiễn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội” làm đề
tài luận văn Thạc sỹ - chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể thấy rằng xây dựng nông thôn mới đang nhận được sự quan tâm
của dư luận không chỉ trong nước mà cả các tổ chức quốc tế vì đó có thể được
coi là chính sách tổng hợp đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Có nhiều cuốn sách, bài viết, đề án về xây dựng nông thôn mới, về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, hoặc chính sách kinh tế trong xây dựng nông
thôn mới đã được công bố như:. Phạm Tất Thắng - Phó Tổng Biên tập Tập
chí Cộng sản “Việt Nam xây dựng nông thôn mới và một số vấn đề đặt ra”;
Tạp chí NTM mới phát hành 3 kỳ/tháng, “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam

3


thời kỳ đổi mới” của Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống kê (2003); Công trình:
“Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam” của Nguyễn Văn Bích và Chu Tiến Quang do NXB Chính trị
Quốc gia ấn hành năm 1996 đã luận giải nhiều nội dung liên quan đến chủ đề
nghiên cứu như khái niệm về chính sách các nội dung của chính sách kinh tế
và quá trình thay đổi chính sách nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm đổi mới
và những tác động của chính sách… Học viện Hành chính có “Giáo trình
quản lý nhà nước về nông nghiệp và nông thôn” do Phạm Kim Giao chủ biên.
Sách chuyên khảo “Một số vấn đề cơ bản về nông nghiệp, nông thôn và nông
dân” do Hoàng Sỹ Kim & Nguyễn Quốc Tuấn chủ biên - Sách chuyên khảo
“Xây dựng nông thôn mới. Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Vũ Văn
Phúc chủ biên. - Sách chuyên khảo “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong

quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta” của Hoàng
Ngọc Hòa. - Đề tài cấp nhà nước: “Vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân
Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước” năm 2010, Nguyễn Danh Sơn
làm chủ nhiệm. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện chương trình nông thôn
mới ở một số nơi vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế nhất định. Đến nay, trên
địa bàn huyện Ba Vì chưa có nghiên cứu cụ thể nào về chính sách kinh tế
trong xây dựng nông thôn mới đối với huyện Ba Vì; chính vì vậy luận văn là
một đề tài nghiên cứu mang tính cấp thiết góp phần vào việc nghiên cứu, hoàn
thiện chính sách nông thôn mới tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng kiến thức về Chính sách công nói chung và chính sách kinh tế
trong xây dựng nông thôn mới nói riêng để nghiên cứu thực tế thực hiện và
đánh giá thực hiện chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới ở huyện

4


Ba Vì, thành phố Hà Nội và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng
cường hiệu quả thực hiện chính sách này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, lý thuyết về chính sách kinh tế trong xây
dựng nông thôn mới của Việt Nam.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực hiện chính sách kinh tế trong xây
dựng nông thôn mới ở huyện Ba Vì
- Nghiên cứu đưa ra giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng thực
hiện chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ba
Vì trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Các chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới hiện nay.
- Thực tiễn triển khai, thực hiện các chính sách đó trên địa bàn huyện Ba Vì.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tại huyện Ba Vì, nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách
kinh tế trong xây dựng nông thôn mới từ năm 2011 đến nay và đề ra giải pháp
hoàn thiện và nâng cao chất lượng thực hiện chính sách kinh tế trong xây
dựng nông thôn mới trong thời gian tới. Thời gian nghiên cứu: Tháng 1/2011
đến tháng 5/2017
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội
và vận dụng các phương pháp trong nghiên cứu Chính sách công về chu trình
chính sách từ khâu hoạch định, xây dựng đến thực hiện và đánh giá chính
sách theo chương trình giảng dạy của học viện Khoa học xã hội.

5


5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích và tổng hợp, được sử dụng để
thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề
tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của
Đảng, Nhà nước, thành phố Hà Nội và huyện Ba Vì; các công trình nghiên
cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ
chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách kinh tế
trong xây dựng nông thôn mới của huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
Các phương pháp cụ thể khác: Phương pháp phân tích, tổng hợp;
phương pháp logic và lịch sử kết hợp với phương pháp xã hội học, thống kê,
so sánh, tổng kết thực tiễn trên cơ sở những tài liệu, tư liệu, báo cáo kết luận...
của địa phương và cả nước; kế thừa có chọn lọc kết quả các công trình nghiên

cứu có liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu việc triển khai, thực hiện chính sách về nông
nghiệp, nông thôn giúp cho định hướng tiếp theo xây dựng chính sách phát
triển nông thôn trong thời gian tới, làm sáng tỏ, minh chứng tác động hiệu quả
của những chính sách phát triển nông thôn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong thực thi
chính sách kinh tế trong xây dưng NTM, đề ra những giải pháp chính sách
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành dân chủ ở cơ sở trong những
năm tiếp theo.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban
ngành thành phố Hà Nội, huyện Ba Vì trong quá trình hoạch định và thực thi

6


chính sách một cách hiệu quả trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách kinh tế
trong xây dựng nông thôn mới.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách kinh tế trong xây dựng nông
thôn mới từ thực tiễn huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách kinh tế trong xây
dựng nông thôn mới từ thực tiễn huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.


7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Những vấn đề lý luận về chính sách kinh tế trong xây dựng
nông thôn mới
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm về chính sách công
Lịch sử chính sách công được xuất hiện cùng với sự ra đời của nền dân
chủ Hy Lạp, tuy nhiên khoa học chính sách công mới bắt đầu phát triển vào
những năm cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX (Howlett, 2008). Khi đó các nhà
khoa học chính trị bắt đầu chuyển trọng tâm nghiên cứu từ triết học chính trị
sang nghiên cứu thể chế, tổ chức Nhà nước, các hoạt động của Chính phủ, dân
chủ tư sản. Trong một nghiên cứu mang tên Public policy Theories Models
and Concepts: An Anthology (1995), Daniei McCooi cho rằng chính Charles
Merriam là cha đẻ ngành nghiên cứu chính sách công khi ông cố gắng kết hợp
giữa lý thuyết và thực tiễn của ngành chính trị học nhằm tìm hiểu về các hoạt
động thực sự của Chính phủ và ông gọi đó là Public policy (Chính sách công).
Thomas R.Dye đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công, ‘chính
sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm’. Ở Việt Nam
PGS.TS Lê Chi Mai (Học Viện Hành chính Quốc gia) đã tổng kết: Chủ thể
ban hành chính sách công là Nhà nước nên có thể coi đây là chính sách của
Nhà nước. Tại Việt Nam chính sách công là do Nhà nước CHXHCN Việt
Nam (chủ yếu là Chính phủ) đề ra. Các chính sách này là sự cụ thể hoá đường
lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam
nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân thể hiện ở những quyết định hành động, là
kết quả của các quyết định của Chính phủ, các quyết định này nhằm duy trì


8


tình trạng của xã hội hoặc giải quyết các vấn đề của xã hội’ trong đó “là các
vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội’ theo mục tiêu tổng thể của Đảng
đã vạch ra từ trước. Như vậy, chính sách công trong trường hợp của Việt Nam
có thể định nghĩa như sau: ‘Chính sách công là một tập hợp các quyết định có
liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp thực hiện giải
quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”.
1.1.1.2. Khái niệm về Chính sách kinh tế
Theo PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà (Viện Kinh tế Việt Nam) chính sách
kinh tế là tổng thể các quan điểm, giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng
để tác động lên chủ thể kinh tế, xã hội nhằm giải quyết một hay một chuỗi vấn
đề về kinh tế, xã hội thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng
mục tiêu tổng thể của đất nước.
1.1.1.3. Khái niệm về Nông thôn
Là danh từ chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó người dân
sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Nông thôn là địa bàn sinh sống chủ yếu
của hộ gia đình nông dân, có chức năng quan trọng trong sản xuất và cung
ứng nông sản cho xã hội. Phát triển nông thôn là một vấn đề phức tạp vì nó
liên quan đến nhiều ngành, nhiều chính sách, nhiều hoạt động có tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến khu vực nông thôn và đời sống của người dân
nông thôn. [7]. Trong văn bản quản lý hiện hành ở nước ta “Nông thôn là
phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn
được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã (theo Thông tư
của Bộ NN&PTNT số 54/2009/TT - BNNPTNT ngày 21/8/2009 hướng dẫn
thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, Điều 1).
1.1.1.4. Khái niệm về nông thôn mới:
Là mô hình nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với


9


phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị
theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân
tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống
vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao..theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Những đặc trưng xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 bao
gồm: Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn
được nâng cao; Nông thôn phát triển theo quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ; Dân trí được nâng cao, bản
sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; An ninh tốt, quản lý dân chủ;
Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao.
1.1.1.5. Khái niệm Chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới
Chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới là loại chính sách
kinh tế nhằm vào phát triển các nội dung kinh tế trong quá trình xây dựng
nông thôn mới. Các nội dung kinh tế này được xác định trong các chương
trinh, kế hoạch, đề án phát triển nông thôn mới với các tiêu chí, chỉ tiêu cho
mỗi giai đoạn. Hội nghị lần thứ bảy Đan Chấp hành Trung ương khóa X đã
ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05-8-2008 về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, trong đó xác định "Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị
theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân
trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở
nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường". Chính phủ đã ban
hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới gồm 19 tiêu chí, trong đó phát
triển kinh tế là một hợp phần quan trọng với 9/19 tiêu chí liên quan trực tiếp
tới phát triển kinh tế.


10


1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách kinh tế
1.1.2.1. Về lực lượng sản xuất
Phát triển kinh tế suy cho cùng là sự phát triển lực lượng sản xuất (bao
gồm tư liệu sản xuất và người lao động). Vì vậy, muốn phát triển kinh tế, phải
tập trung phát triển lực lượng sản xuất. Trong đó, cùng với việc bảo tồn và sử
dụng hợp lý điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, cần phải nhấn manh
vai trò của con người, khoa học và công nghệ. Khoa học và công nghệ là
thành tựu của văn minh nhân loại, nhưng hiệu quả sử dụng khoa học - công
nghệ lại tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước. Nếu biết lựa chọn những
công nghệ phù hợp với tiềm năng nguồn lực của đất nước, trình độ vận dụng
và quản lý... thì sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế nhanh và
bền vững. Muốn vậy, cần phải có chính sách khoa học - công nghệ đúng đắn;
tạo những điều kiện cần thiết khuyến khích sáng tạo và ứng dụng khoa học
công nghệ; tăng cường mở rộng hợp tác, liên kết chuyển giao khoa học, công
nghệ tiên tiến để hoà nhập với sự phát triển chung của thế giới.
1.1.2.2. Về quan hệ sản xuất
Vai trò của quan hệ sản xuất đối với phát triển kinh tế thể hiện khi quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó tạo
ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; ngược lại, khi nó không
phù hợp sẽ là nhân tố cản trở, kìm hãm sự phát triển đó. Sự phát triển của nền
sản xuất xã hội phụ thuộc vào nhiều động lực, nhưng động lực kinh tế giữ vai
trò quyết định, trong đó lợi ích kinh tế của người lao động là động lực trực
tiếp. Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế biểu hiện của quan hệ sản xuất
được phản ánh trong ý thức thành động cơ thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh
doanh nhằm thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu kinh tế của các chủ thể trong
nền kinh tế. Vì vậy, quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan

hệ phân phối) trực tiếp quy định hệ thống lợi ích kinh tế: tạo động lực cho sự
phát triển kinh tế.

11


1.1.2.3. Về cơ chế kinh tế
Là yếu tố tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế. Thực tiễn lịch sử
cho thấy kinh tế tự nhiên hay cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp đều cản trở
sự phát triển kinh tế. Cơ chế thị trường với tác động của quy luật giá trị, cạnh
tranh, cung - cầu kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, mang
lại hiệu quả sản xuất và tặng trưởng kinh tế nhanh. Nhưng cơ chế thị trường
cũng có khuyết tật, gây bất bình đăng xã hội, làm cạn kiệt tài nguyên môi
trường... nên đòi hỏi phải có sự quản lý cùa Nhà nước. Vì vậy, cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ
chế kinh tế thích hợp nhất đối với sự phát triển nền kinh tế quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
1.1.2.4. Yếu tố về kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng xã hội bao gồm những quan điểm chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã
hội tương ứng của chúng như: Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị và nhân
dân... có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế. Những bộ phận đó tác
động đến các quan hệ kinh tế và sự phát triển xã hội bằng nhiều hình thức
khác nhau và theo những cơ chế khác nhau. Tác dụng của kiến trúc thượng
tầng sẽ là tích cực khi nó tác động cùng chiều với sự vận động của quy luật
kinh tế khách quan. Trái lại, nếu tác động ngược chiều với những quy luật đó
thì nó sẽ là trở lực, gây tác hại cho sự phát triển sản xuất, cản trở sự phát triển
kinh tế - xã hội. Trong sự tác động đó, chính trị cỏ ảnh hưởng sâu sắc nhất và
ngày càng tăng đối với sự phát triển kinh tế. Bởi vì, chính trị là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế.

1.1.3. Vai trò kinh tế của Nhà nước trong phát triển nông thôn
Có rất nhiều quan điểm, lý luận về vai trò của Nhà nước trong phát triền
nông thôn ở Việt Nam như: thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước trong

12


phát triển nông thôn, vai trò đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội, xây dựng
chiến lược và kế hoạch cho phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, phát triển
giáo dục đào tạo, phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe, phát triển nguồn nhân
lực, cung cấp vốn tín dụng cho phát triên nông thôn, phát triển khoa học công
nghệ, hỗ trợ các đối tượng thiệt thòi và phát huy vai trò của Nhà nước trong
quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường
trong quá trình phát triển. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng nông thôn mới
thì vai trò kinh tế của Nhà nước trong phát triển nông thôn là một trong những
yêu tố quyết định. Nhà nước đã can thiệp mạnh mẽ, tích cực vào quá trình này
theo những chiến lược riêng tuỳ thuộc điều kiện về kinh tế, văn hoá, nguồn
lực cụ thể của từng địa phương, giúp nông thôn chuyến từ truyền thống, lạc
hậu sang hiện đại, cạnh tranh, thực hiện các chức năng đặc thù của nó. Nhờ
các chính sách kinh tế của Nhà nước đúng đắn nông thôn đã trở lên mạnh mẽ,
năng động, linh hoạt, có sức sản xuất cao, tính cạnh tranh, sản xuất hàng hoá
đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu.
Nhìn một cách tổng quát Chính phủ hành động nhằm tối đa hoá phúc lợi
xã hội, hướng đến việc kích thích tăng trưởng kinh tế nhanh song song với
việc xoá đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn. Nhà nước phải kích thích quá
trình phát triển ngay từ điểm khởi đầu và sau đó tạo điều kiện cho tư nhân và
thị trường tham gia. Quá trình chuyển đổi nông thôn về mặt phát triển kinh tế,
xoá đói giảm nghèo cần nhiều chính sách như: chính sách giá, tạo công ăn
việc làm, chính sách phát triển nông thôn, trợ giúp lương thực, cung cấp dịch
vụ hàng hoá công, hỗ trợ thị trường.. .Vai trò và sự can thiệp của Nhà nước

vào lĩnh vực kinh tế nông thôn thể hiện ở: nghiên cứu nông nghiệp, khuyến
nông, xây dựng cơ sở hạ tầng đặc biệt là chính sách đất đai.
Như vậy, vai trò kinh tế của Nhà nước trong phát triển nông thôn là hết
sức quan trọng tuỳ thuộc vào điều kiện, nguồn lực của mỗi quốc gia để có thể

13


chuyển đổi nên sản xuất xã hội, kiểm soát và thúc đẩy nông thôn phát triển.
Đối với Việt Nam trong công cuộc xây dựng nông thôn mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đắt nước cần phải nghiên cứu sâu mang tính thực nghiệm và cẩn
thận theo từng khía cạnh cụ thể.
Một số chính sách kinh tế điển hình tác động đến nông thôn nước ta:Năm
1981, Ban Bí thư có Chỉ thị 100 và đặc biệt Đại hội VI của Đảng (12.1986) đã
thông qua đường lối đổi mới toàn diện và triệt để nên rất chú trọng nghiên
cứu chính sách quản lý nông nghiệp. Vì vậy, tư duy mới về quản lý nông
nghiệp đã có không gian để phát triển. Năm 1988, Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết 10 cùng các chính sách pháp lý về việc giao đất, đầu tư đã đưa
nông nghiệp nước ta có những bước đột phá trong tư duy quản lý kinh tế khi
lần đầu tiên thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ khi người nông dân
được trao quyền sử dụng đất và mức khoán lâu dài. Sự ‘cởi trói’ chính thức có
ý nghĩa giải phóng sức sản xuất nông nghiệp, đem lại sinh khí mới cho nền
nông nghiệp nước nhà. Trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016), nông nghiệp
Việt Nam đạt được mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong một thời gian
dài, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực. Tốc độ tăng trưởng
bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 3,13%, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XI đề ra (2,6 - 3%). Chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải
thiện, tỷ trọng giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất ngành đã tăng từ 57%
(2010) lên 64,7% (2013); 67,8% (2014) và khoảng 68% (2015); năng suất lao
động xã hội ngành nông, lâm, thủy sản tăng gần gấp đôi từ 16,3 triệu đồng

năm 2010 lên khoảng 31 triệu đồng năm 2015. Giá trị sản phẩm thu được trên
1ha đất trồng trọt đã tăng từ 54,6 triệu đồng/ha năm 2010 lên 79,3 triệu
đồng/ha năm 2014 và khoảng 82 - 83 triệu đồng/ha năm 2015; cứ mỗi ha mặt
nước nuôi trồng thủy sản tăng từ 103,8 triệu đồng/ha (2013) lên 177,4 triệu
đồng/ha (2014) và khoảng 183 triệu đồng/ha (2015). Thu nhập của người dân

14


nông thôn năm 2015 tăng khoảng 2 lần so với năm 2010 (đạt mục tiêu của
Nghị quyết Đại hội Đảng XI đề ra). Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu nông,
lâm, thủy sản đạt tới 30,8 tỷ USD, mức kỷ lục cao nhất từ trước đến nay [24].
1.2. Tổng quan về chính sách kinh tế trong xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Xác định vấn đề chính sách
Trải qua gần 7 năm thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới Nghị
quyết số 26-NQ/TW, ngày 05-8-2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
của Ban Chấp hành Trung ương đến nay Việt Nam đã thu được nhiều thành
tựu to lớn, hết sức quan trọng như: Kinh tế phát triển, thu nhập tăng lên đời
sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao; Nông thôn
phát triển theo quy hoạch nông thôn mới, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại giao thông thuỷ lợi, trường học, trạm y tế, điện được xây dựng đồng bộ và
kiên cố, môi trường sinh thái được bảo vệ; Dân trí được nâng cao, bản sắc văn
hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; An ninh tốt, quản lý dân chủ; Chất
lượng hệ thống chính trị được nâng cao. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể xã hội, tính tự chủ trong nhân dân đã có chuyển biến tích cực, nhân
dân ở một số địa phương đã nhận thấy được xây dựng nông thôn mới là việc
của nhân dân và Nhà nước hướng dẫn và đầu tư hợp lý, nhân dân đã tự
nguyện hiến đất và đã góp công xây dựng làm các công trình, trách nhiệm
trong việc bảo quản và sử dụng các công trình sau đầu tư được nâng lên. Bộ
mặt nông thôn ngày được thay đổi. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện chính

sách xây dựng nông thôn mới vẫn còn tồn tại một số hạn chế bất cập như:
- Nhận thức của cấp uỷ đảng, chính quyền ở một số địa phương và một
bộ phận nhân dân cũng như cán bộ, công chức, đơn vị về xây dựng nông thôn
mới chưa đầy đủ, công tác chỉ đạo ở một số ngành, cấp lúc đầu còn lúng túng
chất lượng quy hoạch, xây dựng đề án còn hạn chế. Trong công tác tuyên
truyền vận một số cơ quan, địa phương thực hiện chưa thường xuyên chưa kịp

15


thời hình thức tuyên truyền chưa phong phú, chưa gắn công tác tuyên truyền với
việc tổ chức thực hiện. Nguồn lực thực hiện chương trình còn ít trong khi nhu cầu
để thực hiện một số tiêu chí (giao thông, thủy lợi, trường học) rất lớn, một số nơi
chưa thực sự coi trọng việc phát triển sản xuất, chưa có nhiều mô hình sản xuất
để học tập, khi có mô hình rồi công tấc nhận rộng còn chậm. Chưa thu hút được
nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.
- Xây dựng nông thôn mới dựa trên nền tảng phát triển sản xuât nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, trong khi sản xuất nông nghiệp nước ta có xuất
phát thấp, phát triển chưa bền vững, tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, nhất là lĩnh
vực nuôi trồng thủy sản; các loại cây công nghiệp như cao su, cây keo cây cà
phê… việc chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng ngành nông, lâm nghiệp và
thủy sản còn chậm; chưa phát huy tốt các nguồn lực cho đầu tư phát triển sản
xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân; dịch vụ, ngành nghê nông
thôn phát triển chưa đa dạng, quy mô nhỏ, ngành hàng phân tán, sử dụng
nhiều công lao động, hiệu quả đầu tư thấp; việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động nông thôn và quá trình đô thị hóa nông thôn còn chậm.
- Việc thực hiện lồng ghép từ các Chương trình mục tiêu khác hiệu quả
chưa cao, do đầu tư dàn trải, mang tính chắp vá đối với kết cấu hạ tầng ở khu
vực nông thôn, nhất là các công trình giao thông nông thôn, doanh nghiệp lớn
không nhiều, vốn ngân sách hạn hẹp nên việc huy động các nguồn lực gặp

khó khăn là do thực tế nông thôn có kết cấu hạ tầng yếu kém, trình độ của lực
lượng lao động thấp, đời sống người dân còn rất nhiều khó khăn, nên chưa
khuyến khích và thu hút các nhà đầu tư
- Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực còn hạn chế, chưa có đội
ngũ xây dựng nông thôn mới chuyên nghiệp, trình độ năng lực cán bộ cấp cơ
sở chưa đáp ứng yêu cầu, còn nhiều lúng túng khi triển khai thực hiện.

16


-

Một số chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước

được ban hành khá đồng bộ, kịp thời, hợp lòng dân nhưng lại chậm được triển
khai thực hiện ở từng cơ quan, đơn vị. Trong quá trình thực hiện thiêu kiêm tra,
giám sát dẫn đến việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn hiệu quả chưa cao.
-

Trong thực hiện các nội dung xây dựng NTM, mới tập trung cao cho

xây dựng cơ sở hạ tầng, các nội dung về phát triển sản xuất nâng cao thu
nhập, phát triển văn hóa, cải thiện môi trường chưa được quan tậm chỉ đạo và
đầu tư đúng mức nên chậm có chuyển biến rõ nét. Chưa có chính sách hỗ trợ
phù hợp đối với các địa phương có điểm xuất phát thấp và điều kiện kinh tế
xã hội khó khăn (vùng núi cao, bãi ngang).
- Chủ yếu mới tập trung cao thực hiện các nhiệm vụ thuộc trách nhiệm
của cấp xã, lập quy hoạch, đề án, xây dựng công trình hạ tầng công cộng.
Thiếu sự quan tâm, chỉ đạo và cơ chế thực hiện các nhiệm vụ của cấp cộng

đồng. Thực tế cho thấy, từ sau khi có chính sách xây dựng nông thôn mới đời
sống nhân dần thay đổi và bộ mặt nông thôn nâng lên rõ rệt; thu nhập tăng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nâng lên rõ rệt, đời sống văn hoá tinh thần được
quan tâm tạo điều kiện cho cư dân nông thôn phát triển toàn diện mọi mặt.
1.2.2. Mục tiêu chính sách
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM có mục tiêu chung là
“Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, từng bước hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo
quy hoạch; xã hội dân chủ, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh
thái được bảo vệ, an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh
thần của người dân ngày được nâng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Mục tiêu cụ thể của chương trình là: đến năm 2015 có 20% số xã đạt chuẩn

17


NTM và đến năm 2020 có 50% số xã đạt chuẩn NTM. Xây dựng nền nông
nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá
lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm
vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông
thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,
dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính
trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Thực hiện Nghị quyết trên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương khóa X
đã ban hành các Kết luận về một số nội dung trong Nghị quyết, bao gồm Đề
án An ninh lương thực quốc gia, Đề án Chương trình Xây dựng thí điểm mô
hình nông thôn mới cấp xã, Đề án về Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội

Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và
xây dựng giai cấp nông dân. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
24/2008/NQ-CP, ngày 28-10-2008, xác định "Chương trình mục tiêu Quốc
gia xây dựng nông thôn mới". Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
800/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 gồm 11 nội dung, với 19 tiêu chí.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nông thôn
mới: "Quy hoạch phát triển nông thôn gắn với đô thị và bố trí các điểm dân
cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi
trường. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc
điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể vững chắc trong từng giai đoạn; giữ
gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Đẩy
mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai
thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động…".

18


×