Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý một số BIỆN PHÁP cơ bản NHẰM CỦNG cố và NÂNG CAO UY tín của NGƯỜI LÃNH đạo, QUẢN lý bộ đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.87 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Hoạt động lãnh đạo - quản lý bộ đội là một hoạt động chứa đựng nhiều
yếu tố mang tính biến động phức tạp. Muốn lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành
các nhiệm vụ được giao, người chỉ huy đơn vị phải am hiểu đối tượng mà mình
có nhiệm vụ lãnh đạo - quản lý. Đối tượng của nhà lãnh đạo - quản lý là con
người và các nhóm người, tập thể người.
Hiệu quả của hoạt động lãnh đạo - quản lý phụ thuộc vào hiệu quả của các
quyết định đã được ban hành, phụ thuộc vào trình độ kiến thức mọi mặt cũng
như trình độ chuyên môn nghiệp vụ quân sự của người lãnh đạo, chỉ huy. Nhà
lãnh đạo - quản lý bộ đội phải rèn luyện nghệ thuật lãnh đạo - quản lý từ việc ra
quyết định đến việc tổ chức thực hiện quyết định, động viên cổ vũ cán bộ, chiến
sỹ dưới quyền, quan hệ với cấp dưới với tư cách là người thủ trưởng, điều khiển
cấp dưới, chiếm được niềm tin yêu của họ. Chính vì vây, những người làm công
tác lãnh đạo - quản lý cần phải có những phẩm chất nhân cách cần thiết của nhà
lãnh đạo - quản lý.
Hoạt động quản lý học viên trong các nhà trường quân sự là một quá trình
phức tạp, bởi đối tượng quản lý đó là những học viên, quân nhân được đào tạo
để trở thành những cán bộ tương lai của quân đội, với thành phần xuất thân khác
nhau, được tập hợp từ rất nhiều vùng miền của cả nước, với các đặc điểm tâm
lý, tính cách khác nhau. Do đó trong quá trình hoạt động chung tất yếu sẽ nảy
sinh các vấn đề phức tạp, đòi hỏi người cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý
học viên cần phải có những phẩm chất nhân cách chuyên biệt để có thể đáp ứng
được yêu cầu của hoạt động quản lý học viên trong quá trình họ được học tập và
rèn luyện trong các nhà trường quân sự.
Xuất phát từ những lý do trên, trong phạm vi một bài tiểu luận, tác giả lựa
chọn nghiên cứu vấn đề: “Những phẩm chất nhân cách chủ yếu của người
lãnh đạo - quản lý bộ đội và vấn đề rèn luyện nhân cách của người cán bộ
quản lý học viên trong các nhà trường quân sự ” làm nội dung nghiên cứu.

3



NỘI DUNG
1. Một số vấn đề về lãnh đạo - quản lý và những phẩm chất nhân cách
chủ yếu của người lãnh đạo - quản lý bộ đội
1.1. Khái niệm quản lý và lãnh đạo
Trong đời sống xã hội tồn tại đồng thời hai khái niệm quản lý và lãnh đạo,
cũng như các khái niệm người quản lý và người lãnh đạo. Có không ít người và
một số nhà nghiên cứu đã đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Vì họ cho rằng
nội hàm của hai khái niệm này giống nhau và khó phân biệt rạch ròi ranh giới
giữa chúng. Một số nhà nghiên cứu lại cho rằng không nên tách chúng thành hai
khái niệm riêng biệt, mà nên xếp chúng bên cạnh nhau, dường như thành một
khái niệm lãnh đạo, quản lý và từ đây có các khái niệm tâm lý học lãnh đạo,
quản lý; người lãnh đạo, quản lý.
1.1.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống
con người. Ở đâu có con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần có quản lý.
Khái niệm quản lý được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học và có
nhiều cách tiếp cận để có những quan niệm khác nhau về khái niệm này. Xét về
chức năng, quản lý là một hệ thống tổ chức, “quản lý không phải là lãnh đạo sự
việc mà là sự phát triển con người”. Quản lý là chấp nhận con người như họ vốn
đã như thế, với sự hiểu biết, sự đào tạo, kinh nghiệm của người lãnh đạo đưa
việc hoàn thiện họ bằng cách nâng cao trình độ, cải thiện năng lực và sửa chữa
khuyết điểm của họ. Thành công của mọi sự nỗ lực quản lý phụ thuộc vào chính
sự hoàn thiện này và chính nó cho phép đo được năng khiếu lãnh đạo… Theo
nghĩa chung nhất từ góc độ Tâm lý học, quản lý được hiểu: là sự tác động có
định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể đến
khách thể của nó.
Như vậy, quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
Tức là hoạt động quản lý chỉ cần thiết và tồn tại đối với một nhóm người. Còn
đối với một cá nhân, anh ta tự điều khiển hoạt động của mình.


4


Quản lý gồm công việc chỉ huy và tạo điều kiện cho những người khác
thực hiện công việc và đạt được mục đích của nhóm.
Hoạt động quản lý gồm hai bộ phận cấu thành: chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý.
Khi nói đến hoạt động quản lý, chúng ta chủ yếu nói đến hoạt động quản
lý con người.
Hệ thống quản lý được hiểu như là sự phối hợp có tổ chức và thống nhất.
Bản chất của quản lý là những tác động có phương hướng, có mục đích rõ
ràng của chủ thể quản lý. Quản lý là hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo cao.
Quản lý là một khoa học và là một nghệ thuật, quản lý đòi hỏi phải tuân theo
những nguyên tắc nhất định. Hiệu quả của hoạt động quản lý phụ thuộc vào cơ
cấu tổ chức - việc đổi mới cơ cấu tổ chức để phù hợp với hoàn cảnh và mục tiêu
quản lý. Quản lý thực chất là quản lý con người, vì con người là yếu tố quyết
định trong giải quyết các vấn đề. Mọi thành công hay thất bại của tổ chức đều
liên quan tới việc giải quyết các mối quan hệ giữa những con người với nhau.
1.1.2. Khái niệm lãnh đạo
Sự lãnh đạo là một trong những đề tài nghiên cứu rộng lớn nhất trong
Tâm lý học, các nhà tâm lý học Xô viết định nghĩa: Lãnh đạo là mối quan hệ về
chi phối và phục tùng, tác động và tuân theo trong quan hệ liên nhân cách của
nhóm. Trong nhóm, hành vi của cá nhân bị quy định và chịu ảnh hưởng của những
người khác. Sự ảnh hưởng này có thể nảy sinh thông qua những quan hệ liên nhân
cách hoặc có thể phụ thuộc vào cấu trúc quan hệ mà ở đó một số cá nhân sử dụng
quyền lực hoặc trách nhiệm để tác động đến người khác.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể quan niệm: Lãnh đạo là sự ảnh
hưởng xã hội, là hoạt động có mục đích trong một tổ chức, là sự tác động hợp
pháp đến những người khác nhằm thực hiện những mục đích đã xác định.

Với định nghĩa trên, chúng ta thấy có một số khía cạnh cần chú ý:
Thứ nhất, lãnh đạo là quá trình ảnh hưởng của những người lãnh đạo đến
những người dưới quyền.

5


Thứ hai, bản chất của sự lãnh đạo là sự ảnh hưởng và sự tác động có mục
đích để đạt được những mục tiêu của tổ chức đề ra, cũng như nhằm thỏa mãn
mọi sự mong muốn của những người dưới quyền.
1.1.3. Khái niệm lãnh đạo - quản lý
Trong Từ điển Tiếng Việt, hai khái niệm quản lý và lãnh đạo được dùng
với nghĩa khác nhau, nhưng trên thực tế không có một người nào ở vào công
việc chủ trì như chủ tịch huyện, chủ tịch tỉnh, sư đoàn trưởng, chính ủy sư
đoàn… trong phạm vi công việc của mình lại chỉ đơn thuần hoặc làm nhiệm vụ
quản lý, hoặc làm nhiệm vụ lãnh đạo. Một số nhà nghiên cứu khi bàn về sự lãnh
đạo và sự ảnh hưởng của quản lý đã đồng nhất hai khái niệm này, thậm chí đã
đổi chỗ của chúng cho nhau. Điểm chung lớn nhất của hai khái niệm này là ở
chỗ họ đều là những người tổ chức hoạt động của tập thể để thực hiện những
mục tiêu đã đề ra và có ảnh hưởng đến những người thừa hành của tổ chức. Do
vậy, người lãnh đạo và người quản lý có một số chức năng chung, chẳng hạn
như các chức năng: kiểm tra, giám sát, thông tin… Sự khác nhau giữa người
quản lý và lãnh đạo thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, về số lượng: Trong một tổ chức, số lượng người quản lý
thường nhiều hơn số lượng người lãnh đạo, trong khi đó, chỉ có một số người
quản lý là những người lãnh đạo - Những người có phạm vi ảnh hưởng nhiều
hơn đến những người khác. Như vậy, những người lãnh đạo đều là những người
quản lý, nhưng không phải tất cả những người quản lý đều là người lãnh đạo.
Thứ hai, về vị thế và vai trò: Những người lãnh đạo là những người có vai
trò quan trọng nhất, có vị thế cao và có phạm vi ảnh hưởng lớn trong tổ chức.

Chẳng hạn, trong một công ty, những người lãnh đạo là những người trong ban
giám đốc, trưởng các phòng, ban,…
Lãnh đạo và quản lý có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Người chỉ huy,
cán bộ chủ trì ở một cấp nào đó đều làm nhiệm vụ của người lãnh đạo, đồng thời
làm nhiệm vụ của người quản lý. Điều này thể hiện rõ trong quân đội, người chỉ
huy, cán bộ chủ trì ở một cấp nào đó đều vừa làm nhiệm của người lãnh đạo, lại

6


đồng thời làm nhiệm vụ của người quản lý theo sự phân cấp trách nhiệm được
ghi trong điều lệnh, điều lệ quân đội và tuân thủ các nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng đối với lực lượng vũ trang. Khái niệm lãnh đạo - quản lý có thể hiểu: Là
sự tác động có mục đích của người (tập thể) lãnh đạo - quản lý đối với con
người và tập thể nhằm làm cho hệ thống lãnh đạo - quản lý hoạt động bình
thường, có hiệu lực giải quyết các nhiệm vụ đề ra.
Nếu quan niệm lãnh đạo - quản lý là một quá trình thì chủ thể lãnh đạo quản lý (bao gồm người lãnh đạo - quản lý và tập thể lãnh đạo - quản lý) điều
khiển đối tượng lãnh đạo - quản lý (con người cụ thể và các tập thể người) thông
qua các quyết định và hành động trong lãnh đạo - quản lý. Hiệu quả của hoạt
động lãnh đạo - quản lý và thực hiện nhiệm vụ của đối tượng lãnh đạo - quản lý
là cái có thể kiểm tra được thông qua các công cụ lãnh đạo - quản lý.
1.2. Những phẩm chất nhân cách chủ yếu của người lãnh đạo - quản lý
bộ đội
1.2.1. Vị trí, vai trò của người lãnh đạo - quản lý
C.Mác viết: Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên một quy mô tương đối lớn cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều
hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ
sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác vơi sự vận động của những khí
quan độc lập của nó. Một người đọc tấu vĩ cầm thì tự mình điều khiển lấy mình.
Còn một dàn nhạc thì phải cần có nhạc trưởng. Trong đơn vị quân đội, người

lãnh đạo - quản lý, các sỹ quan quân đội nói chung được Đảng, nhân dân giao
phó những quyền hạn lớn cùng sự tín nhiệm, tin yêu đối với cán bộ, chiến sỹ
thuộc quyền. Đó là những “thủ trưởng”, “nhạc trưởng” có sứ mệnh lãnh đạo quản lý những tổ chức, con người đặc biệt với hàng nghìn người cùng chung
một ý chí.
Lãnh đạo, quản lý con người đã là một lĩnh vực phức tạp và khó khăn,
lãnh đạo - quản lý các nhóm người, tập thể người càng phức tạp và khó khăn
hơn. Bởi tập thể không phải là số cộng giản đơn của từng người riêng lẻ, sức

7


mạnh của nó là ở sự hợp tác và phối hợp. Trong các tập thể quân sự, người lãnh
đạo - quản lý không chỉ là người có quyền hành lớn, chịu trách nhiệm trước
Đảng và nhân dân về tinh thần và thường xuyên sẵn sàng chiến đấu của bộ đội,
về tổ chức và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của đơn vị mà còn là
“cái gốc” của mọi công việc, là “hạt nhân” và “trung tâm” của sự đoàn kết
thống nhất về ý chí và hành động, là tấm gương soi của mọi cán bộ, chiến sỹ về
phẩm chất, năng lực, về lối sống và tác phong sinh hoạt.
Trên một ý nghĩa nào đó, người lãnh đạo - quản lý quyết định mọi mặt
của tập thể quân sự và sự phát triển trưởng thành của đội ngũ cán bộ đảng viên,
của chiến sỹ thuộc quyền.
1.2.2. Phẩm chất nhân cách chủ yếu của người lãnh đạo - quản lý bộ đội
Nhân cách là tổng hòa các phẩm chất xã hội, được các cá nhân lĩnh hội
trong hoạt động và giao tiếp, phản ánh giá trị xã hội của các cá nhân trong cộng
đồng.
Nhân cách của người lãnh đạo – quản lý là nhân cách của một người chủ
trì, chỉ huy, người đứng đầu đơn vị nên có một ý nghĩa vô cùng to lớn. Do vậy,
người lãnh đạo - quản lý bộ đội phải có uy tín trước cấp dưới, đồng thời phải
đáp ứng mức độ phát triển nhân cách của người chủ trì, chỉ huy đơn vị về phẩm
chất và năng lực theo đòi hỏi của Đảng ta, về đức và tài theo lời dạy của Chủ

tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Đời sống tâm lý của người lãnh đạo - quản lý cũng có một cấu trúc nhất
định. Tạm thời không tính những đặc điểm riêng của mỗi người, ta có thể xác
lập được một cấu trúc điển hình của nhân cách người lãnh đạo - quản lý bộ đội.
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc của nhân cách như cấu trúc phẩm
chất và năng lực, cấu trúc tổng hợp của ba yếu tố nhận thức, tình cảm, ý chí; cấu
trúc theo bốn thuộc tính tâm lý: xu hướng, tính cách, năng lực và khí chất…
Nhiều công trình nghiên cứu Tâm lý học nói chung và tâm lý học quân sự nói
riêng đã làm rõ các nội dung về Đức (hay phẩm chất) và Tài (hay năng lực) của
người lãnh đạo - quản lý.

8


Về đức, bao gồm:
- Các phẩm chất chính trị - tư tưởng nổi lên hàng đầu là bản lĩnh chính trị,
lòng trung thành, sẵn sàng bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ nhân dân…
- Các phẩm chất đạo đức như: nếp sống, lối sống; quan hệ, giao tiếp, ứng
xử với cán bộ, chiến sỹ thuộc quyền.
- Các phẩm chất về phong cách, tác phong công tác của người lãnh đạo quản lý như: dân chủ, quyết đoán, kỷ luật; dám nghĩ, dám làm; đoàn kết, tác
phong quần chúng, khiêm tốn…
Về tài, đó là:
- Sự thành thạo về kỹ chiến thuật quân sự (nói chung).
- Sự thành thạo trong chuyên môn nghiệp vụ quân sự cụ thể. Người chỉ
huy thuộc lĩnh vực nào, cấp nào tất yếu phải thông thạo nghiệp vụ chuyên môn
quân sự ở lĩnh vực đó. Với cán bộ chính trị, đòi hỏi phải chủ trì tốt các hoạt
động công tác đảng, công tác chính trị. Với cán bộ ngành hậu cần, kỹ thuật phải
giỏi chuyên môn về hậu cần, kỹ thuật…
- Năng lực tổ chức điều hành thể hiện trong việc ra quyết định, tổ chức

thực hiện quyết định, khả năng điều khiển nhịp nhàng các hoạt động khác nhau
của con người cụ thể và các nhóm (tập thể) người…
* Một số phẩm chất nhân cách chủ yếu của người lãnh đạo - quản lý bộ đội
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng quân đội
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đòi hỏi người
lãnh đạo - quản lý phải có những phẩm chất nhân cách đa dạng, phù hợp, đáp
ứng cho hiệu quả quản lý, chỉ huy, lãnh đạo của mình, những phẩm chất cơ bản
đó, bao gồm:
- Có phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức cao đáp ứng cho sự nghiệp
đổi mới của Đảng trong phạm vi công việc và chức trách được giao phó
Đây là phẩm chất cần có trước tiên đối với người làm công tác lãnh đạo quản lý. Thể hiện ở tính Đảng cao, có lập trường tư tưởng vững vàng, luôn biểu

9


hiện sự nhất trí, tin tưởng và kiên định với mọi đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng trong sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Người cán bộ quân đội ở
cương vị này là người thể hiện trách nhiệm chính trị cao trước Đảng và nhân dân,
tính nguyên tắc cộng sản trong hành vi và hoạt động của bản thân, tấm gương đạo
đức mẫu mực và trong sáng để cán bộ, chiến sỹ dưới quyền noi theo.
- Người lãnh đạo - quản lý là người thông thạo chuyên môn nghiệp vụ
quân sự mà mình phụ trách. Có tính khoa học trong lãnh đạo, tác phong cụ thể,
tỉ mỉ, thận trọng khi ra quyết định.
Tính khoa học trong lãnh đạo - quản lý đòi hỏi phải có luận cứ khoa học
trong việc xác định mục tiêu, nội dung lãnh đạo - quản lý phù hợp với nhiệm vụ
trên giao và tình hình thực tiễn cụ thể của đơn vị; khoa học trong tổ chức thực
hiện nhiệm vụ, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên cũng như trong sử dụng các
hình thức, phương pháp, phương tiện lãnh đạo. Người có tính khoa học trong
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy hiện nay còn là người am hiểu rộng rãi về nhiều kiến

thức khoa học liên ngành; đồng thời, lại phải có hiểu biết sâu sắc về chuyên môn
mình phụ trách. Trong điều kiện nâng cao hiệu lực lãnh đạo, chỉ huy thì cán bộ
chủ trì các đơn vị cần nắm vững các kiến thức xã hội học, tâm lý học nói chung
cũng như tâm lý học lãnh đạo - quản lý nói riêng. Người lãnh đạo - quản lý phải
nắm được kiến thức tự nhiên, tin học.
Tác phong cụ thể, tỉ mỉ, thận trọng khi ra quyết định giúp cho người lãnh
đạo - quản lý khắc phục được bệnh quan liêu, giấy tờ, chủ nghĩa hình thức trong
hoạt động. Thận trọng cân nhắc, tính toán, suy xét kỹ các tình huống, điều kiện,
đặc điểm tâm lý và khả năng thực hiên mệnh lệnh của cấp dưới sẽ giúp cho nhà
lãnh đạo - quản lý đề ra các quyết định chính xác.
- Tính đòi hỏi cao, nhất quán, quyết đoán
Đây là phẩm chất quan trọng của cán bộ lãnh đạo - quản lý. Trong mọi
trường hợp, họ cần đòi hỏi cao ở cấp dưới để tăng tinh thần trách nhiệm trước
công việc, buộc cấp dưới phải cố gắng, nêu cao khả năng trong thực hiện nhiệm

10


vụ. Tính nhất quán trong lãnh đạo làm cho toàn bộ hệ thống thuộc quyền lãnh
đạo, chỉ huy vận hành thống nhất. Nhất quán trong lãnh đạo, chỉ huy sẽ tạo nên
sức mạnh và lòng tin của cấp dưới và kích thích tính sáng tạo của họ.
Người lãnh đạo - quản lý rất cần có thái độ dám nghĩ, dám làm để vượt qua
khuôn khổ chật hẹp của một số quy định nhằm đem lại hiệu quả, chất lượng trong
công việc. Dám quyết đoán và dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp dưới
về các quyết định của mình trong điều hành các hoạt động lãnh đạo - quản lý.
Quyết đoán là phẩm chất không thể thiếu của người chỉ huy trong hoạt động quân
sự, đặc biệt là trong các tình huống khó khăn, mau lẹ, trong hoạt động chiến đấu.
- Tính tập thể, phong cách lãnh đạo dân chủ
Hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao trong công tác lãnh đạo - quản lý,
người lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị phải rèn luyện có được phong cách dân

chủ, luôn biết quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ
dưới quyền, biết tính đến nhu cầu, lợi ích chính đáng của họ; biết lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng, ý kiến khác nhau của cấp dưới để điều chỉnh các chủ trương,
chính sách, quyết định phù hợp nhằm làm cho hoạt động lãnh đạo - quản lý ngày
càng có hiệu quả. Tính tập thể và phong cách dân chủ trong lãnh đạo - quản lý
tránh được sai lầm khi ra quyết định và củng cố uy ín của chủ thể lãnh đạo quản lý. Vì vậy, cần chống dựa dẫm, ỷ nại dựa vào tập thể, trốn tránh trách
nhiệm cá nhân cũng như thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức.
- Có nghệ thuật lãnh đạo - quản lý giỏi
Lãnh đạo - quản lý là một nghệ thuật vì đối tượng lãnh đạo - quản lý là
con người có ý thức, có mục đích hoạt động cụ thể nên phải tác động vào họ
bằng các biện pháp, cách thức khác nhau để đạt hiệu quả hoạt động. Nghệ thuật
lãnh đạo - quản lý của người lãnh đạo - quản lý trong các tập thể quân sự thể
hiện trên những nội dung cơ bản:
Nghệ thuật thu hút người khác hăng hái tham gia vào guồng máy hoạt
động chung của đơn vị bằng chính uy tín và năng lực của người chỉ huy, quản lý,
lãnh đạo, cũng như bằng tính đòi hỏi cao với công việc làm cho cấp dưới tăng

11


trách nhiệm cá nhân, dồn hết sức lực, tâm trí để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ
được giao.
Nghệ thuật ra quyết định cũng là một đòi hỏi quan trọng đối với người
lãnh đạo - quản lý, tránh ra các quyết định có độ ổn định không cao, nội dung
vụn vặt, chồng chéo… làm ức chế tâm lý và giảm sút khả năng hành động sáng
tạo của cán bộ, chiến sỹ thuộc quyền.
Nghệ thuật giao nhiệm vụ đòi hỏi người lãnh đạo - chỉ huy phải cân nhắc
tùy theo yêu cầu nhiệm vụ, tính đến đặc điểm tâm lý của người thừa hành và
không được chủ quan, đơn giản. Giao nhiệm vụ cho cấp dưới phải làm cho họ
phấn khởi, sẵn sàng nhận và thực hiện sáng tạo các nhiệm vụ..

Nghệ thuật động viên cấp dưới là một đòi hỏi không thể thiếu đối với mỗi
người lãnh đạo - quản lý. Trước hết, hướng khích lệ các tấm gương sẵn sàng nhận
nhiệm vụ nơi khó khăn, các công việc phức tạp cũng như cán bộ, chiến sỹ dưới
quyền có sáng kiến, sáng tạo trong thừa hành nhiệm vụ, các tấm gương trong học
tập, huấn luyện, trong xây dựng đơn vị và công tác. Trong công việc này, người
lãnh đạo - quản lý phải biết linh hoạt sử dụng nhiều phương pháp khác nhau.
Nghệ thuật kiểm tra, phát hiện, uốn nắn và tiến hành điều chỉnh kịp thời
hành vi và hoạt động của cấp dưới. Đây là một chức năng, một khâu trong chu
trình lãnh đạo - quản lý, vì vậy, người lãnh đạo - chỉ huy phải biết sử dụng chức
năng này như một công cụ hiệu quả trong hoạt động của mình để kịp thời phát
hiện nhân rộng điển hình, cổ vũ cấp dưới và các đơn vị thuộc quyền cũng như
uốn nắn, điều chỉnh những hạn chế, bất cập nảy sinh để hoạt động lãnh đạo quản lý đạt mục đích đề ra.
- Tác phong và quan điểm quần chúng, đoàn kết mọi người vì tập thể và
sự nghiệp chung
Người lãnh đạo - quản lý phải là người khiêm tốn, giản dị, lịch thiệp, tế
nhị trong hành vi giao tiếp để tạo sự gần gũi với cán bộ, chiến sỹ, làm cho quần
chúng mến phục, tin tưởng. Biết tôn trọng và học hỏi cấp dưới và biết lắng
nghe ý kiến của họ. Tăng cường đối thoại với cấp dưới để hiểu biết đầy đủ hơn

12


về nhu cầu, nguyện vọng và thái độ của cấp dưới trong việc thực hiện các
quyết định để tác động điều chỉnh phù hợp nhất. Người lãnh đạo - quản lý còn
phải thể hiện là người luôn luôn sâu sát, có thái độ thực sự quan tâm bồi dưỡng
cấp dưới. Thái độ hết lòng đoàn kết mọi người vì tập thể có ý nghĩa rất quan
trọng như một sự định hướng điều hòa cách xử sự, các mối quan hệ hàng ngày
diễn ra trong tập thể. Thái độ biết chăm lo cho, đoàn kết mọi người trong tập
thể sẽ xua tan không khí nghi kỵ lẫn nhau, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện
nhiệm vụ chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Từ đại đoàn trưởng đến tiểu

đội trưởng phải đồng cam cộng khổ với chiến sỹ, chăm lo giúp đỡ nhau, coi
nhau như chân tay ruột thịt” 1. Người cũng đã nhiều lần nhắc nhở cán bộ:
“Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo, phải thực sự cầu
thị, không được chủ quan, phải luôn luôn chăm lo đến đời sống cho anh em” 2.
Những phẩm chất nhân cách chuyên biệt cơ bản trên đây của người lãnh
đạo - quản lý bộ đội được hình thành trong quá trình sống, hoạt động và đặc biệt
là hoạt động lãnh đạo - quản lý. Quá trình hình thành, hoàn thiện và phát triển
nhân cách của họ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như giáo dục, đào
tạo và bồi dưỡng, thực tiễn cách mạng, mở rộng quan hệ thông tin và giao lưu,
xây dựng tập thể quân nhân, cộng đồng, gia đình và sự tu dưỡng, rèn luyện và
phấn đấu của bản thân…
2. Vấn đề rèn luyện nhân cách của người cán bộ quản lý học viên
trong các nhà trường quân sự
2.1. Một số vấn đề về hoạt động quản lý học viên trong các nhà trường
quân sự
Bản chất của hoạt động quản lý học viên trong các nhà trường quân sự là
quá trình có mục đích, có tổ chức của người lãnh đạo - quản lý tác động đến học
viên trong quá trình học tập rèn luyện nhằm thực hiện mục tiêu yêu cầu đào tạo
của nhà trường.

1
2

Hổ Chí Minh, Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1995, t.6, tr.561.
Hồ Chí Minh, Về vấn đề cán bộ, Nxb.Sự thật, H.1974, tr.93.

13


Đội ngũ học viên trong nhà trường đại học quân sự rất phong phú, đa

dạng với nhiều độ tuổi, cấp học, trình độ phát triển trí tuệ, phẩm chất đạo đức
khác nhau. Họ có thể là học sinh phổ thông, hạ sỹ quan, chiến sỹ, quân nhân
chuyên nghiệp, sỹ quan… được tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng thành cán bộ các
cấp, các ngành trong quân đội.
Học viên trong các nhà trường quân sự có nhiệm vụ học tập, rèn luyện
phẩm chất đạo đức, lối sống, chuyên môn nghiệp vụ, tác phong để trở thành
người cán bộ trong và ngoài quân đội.
Quản lý học viên về thực chất là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ của
họ trong quá trình giáo dục và đào tạo ở nhà trường quân sự, gồm những dặc
điểm như sau:
- Mục đích hoạt động học tập của học viên trong các nhà trường quân sự
là hướng vào việc làm thay đổi chính chủ thể hoạt động. Đây là đặc điểm nổi bật
so với quản lý các nguồn lực khác. Đặc điểm này phản ánh tính năng động của
khách thể quản lý, đòi hỏi nhà quản lý phải phát huy cao độ tính tích cực chủ
động tự tổ chức, tự quản lý của học viên trong quá trình giáo dục và đào tạo.
- Đối tượng hoạt động của học viên trong các nhà trường quân sự là hệ
thống tri thức khoa học, hệ thống kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống các chuẩn mực,
giá trị xã hội và hoạt động quân sự.
- Phương tiện hoạt động quân sự của học viên các nhà trường quân sự là
tài liệu, sách giáo khoa, giáo trình, phòng thí nghiệm, thao trường, bãi tập… với
các trang thiết bị chuyên ngành thuộc lĩnh vực quân sự.
- Hoạt động học tập của học viên đại học quân sự gắn liền với các hoạt
động khác trong môi trường sự phạm quân sự, diễn ra với tính khoa học, tính kế
hoạch cao được tổ chức chặt chẽ. Tâm lý học viên trong quá trình giáo dục đào
tạo ở nhà trường quân sự diễn ra mạnh mẽ, căng thẳng, cường độ hoạt động trí
tuệ, thể lực cao. Hoạt động của học viên được tiến hành trong tập thể quân sự có
tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, dưới sự chỉ huy, lãnh đạo trực tiếp của

14



cán bộ các cấp, dưới sự tổ chức, điều khiển của giảng viên và sự phối hợp của
các lực lượng giáo dục khác trong nhà trường.
Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng
với yêu cầu của tình hình mới. Trong những vừa năm qua, hoạt động giáo dục đào tạo và công tác quản lý giáo dục, xây dựng nhà trường quân đội đã phát
triển đúng đường lối, chủ trương của Đảng. Hệ thống nhà trường từng bước
được kiện toàn, được nâng cấp đào tạo và thể chế hóa về mặt nhà nước tương
đối hoàn chỉnh, các bậc học được chuẩn hóa. Những điều kiện đảm bảo cho giáo
dục - đào tạo được quan tâm đầu tư. Việc xây dựng nhà trường chính quy, vững
mạnh toàn diện luôn gắn với xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý giáo dục nhìn chung đã phát huy được
vai trò, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ. Có bản lĩnh chính trị kiên định,
vững vàng, nắm được đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước. Luôn nêu cao nhận thức chính trị và ý thức chính trị trong giải
quyết các nhiệm vụ và quan hệ quản lý, có khả năng đánh giá con người mình
quản lý và bản thân theo tiêu chuẩn; có ý thức và chính trị xã hội. Có động cơ,
quan điểm, thái độ tình cảm đúng đắn đối với nhiệm vụ huấn luyện – giáo dục,
với việc xây dựng, rèn luyện, quản lý học viên; tạo được niềm tin chính trị đối
với cấp dưới, yên tâm với nhiệm vụ quản lý giáo dục được giao; có khát vọng,
chí hướng phấn đấu để tở thành nhà quản lý giỏi.
Cán bộ quản lý học viên trong các nhà trường quân sự thể hiện được đạo
đức nghề nghiệp quản lý qua thái độ công tác, hành vi đúng đắn đối với lợi ích
cá nhân và lợi ích tập thể; lối sống trong sạch lành mạnh; là tấm gương sáng về
đạo đức, lối sống cho cán bộ, nhân viên dưới quyền, học viên noi theo. Có kiến
thức chuyên môn và năng lực quan sát, định hướng và kỹ năng phân tích đánh
giá thực tiễn giáo dục và quản lý giáo dục. Có năng lực tổ chức quản lý, nhạy
cảm, quyết đoán trong xử lý các thông tin quản lý giáo dục; làm việc có tính
nguyên tắc và tính đảng cao. Huy động, sử dụng đúng năng lực của từng người

15



trong đơn vị; biết điều hành, phân công, phối hợp lao động của cả tập thể để tạo
ra sức mạnh lao động cộng đồng; biết xử lý tốt các mối quan hệ.
Có năng lực làm việc với con người thông qua phương pháp tiếp cận, làm
việc, thái độ quan tâm, chia sẻ; tôn trọng, bao dung với cán bộ, học viên, nhân
viên; có khả năng giao tiếp tế nhị, ứng xử linh hoạt.
Luôn chủ động trong giải quyết các công việc một cách khoa học, chính
xác. Có tác phong quần chúng, gần gũi với mọi người, nói đi đôi với làm. Tin yêu,
tôn trọng và thuyết phục được mọi người vì nhiệm vụ chung. Tác phong dân chủ,
tập thể, bàn bạc thống nhất trong công việc lãnh đạo, chỉ huy. Biết lắng nghe cấp
dưới, đồng nghiệp, học viên; biết tôn trọng, khuyến khích mọi sáng kiến hay, mọi
góp ý để điều chỉnh những mệnh lệnh quản lý cho phù hợp với thực tế.
Bên cạnh đó, công tác quản lý học viên có nơi còn chưa được coi trọng
đúng mức. Một bộ phận cán bộ quản lý học viên chưa thực sự nắm chắc được
vai trò, nhiệm vụ và yêu cầu trong quản lý; số ít thiếu niềm tin, vi phạm phẩm
chất đạo đức lối sống, vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội;
trình độ kiến thức chuyên môn thiếu và yếu; năng lực tổ chức quản lý chưa theo
kịp với tình hình phát triển của giáo dục - đào tạo; nghệ thuật trong giao tiếp,
ứng xử trong công việc, giải quyết các mối quan hệ trong lãnh đạo - quản lý
chưa phù hợp; phong cách quản lý thiếu kiên quyết và quyết đoán, còn đơn giản,
tùy tiện, một số còn thể hiện sự gia trưởng, thiếu dân chủ…
Nghị quyết 86/NQ - ĐUQSTƯ khẳng định: Nguyên nhân của những
khuyết điểm trong quản lý là do năng lực cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương
của Đảng, Nhà nước về giáo dục - đào tạo còn hạn chế. Năng lực của đội ngũ cán
bộ quản lý có bộ phận chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ. Mặt khác, còn chưa chú
trọng đến đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý. Sự
tác động của mặt trái cơ chế thị trường, trình độ văn hóa của đối tượng đào tạo
không đồng đều và đời sống vật chất của cán bộ, nhà giáo, học viên còn khó khăn
đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục - đào tạo, xây dựng nhà trường.


16


Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Công tác giáo dục - đào tạo và xây dựng
nhà trường quân sự cần được đổi mới toàn diện theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại
hóa”, tạo sự chuyển biến cơ bản vững chắc về chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học. Theo đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý giáo
dục nói chung, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý học viên nói riêng cũng phải
đổi mới phong cách quản lý, nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực công tác, rèn
luyện những phẩm chất đạo đức, lối sống, phẩm chất chuyên biệt của người lãnh
đạo - quản lý trong quân đội; xây dựng uy tín và sự tin tưởng, yêu mến của cán
bộ, học viên…
2.2. Vấn đề rèn luyện nhân cách của người cán bộ quản lý học viên
trong các nhà trường quân sự
Trên cơ sở đổi mới công tác giáo dục - đào tạo ở nhà trường quân sự trong
tình hình mới, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý học viên (cán bộ quản lý giáo
dục) theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, chú trọng nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp, trình độ chuyên
môn. Có kiến thức tổng hợp, nắm chắc kiến thức Tâm lý học nói chung, Tâm lý
học quản lý - lãnh đạo nói riêng. Tích cực rèn luyện, củng cố các phẩm chất
nhân cách của người cán bộ lãnh đạo - quản lý trong toàn bộ chu trình quản lý
giáo dục; xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, bầu không khí tích cực, lành mạnh
trong tập thể quân nhân; nắm chắc các vấn đề tâm lý trong giao tiếp và thường
xuyên rèn luyện phong cách lãnh đạo - quản lý, củng cố và nâng cao uy tín,
niềm tin đối với mọi cán bộ, học viên dưới quyền.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Quân đội giao phó,
đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong các nhà trường
quân sự, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nói chung, đặc biệt là những người
làm công tác quản lý học viên nói riêng cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản

sau đây:

17


2.2.1. Thường xuyên rèn luyện phẩm chất, năng lực trong quá trình
quản lý học viên
Quản lý học viên thực chất là sự điều khiển, chỉ huy, tổ chức, hướng dẫn
quá trình hoạt động của học viên hay tập thể học viên nhằm thực hiện mục đích,
nhiệm vụ đề ra thông qua các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định.
Chất lượng quản lý phụ thuộc vào người cán bộ lãnh đạo - quản lý học viên vận
dụng được kiến thức, phát huy vai trò, phẩm chất và năng lực trong toàn bộ chu
trình và quá trình quản lý học viên.
Nếu tiếp cận quản lý học viên như một quá trình, ta có thể thấy người
quản lý điều khiển học viên thông qua các quyết định và hành động trong lãnh
đạo - quản lý. Đây là quá trình mà người quản lý thể hiện những phẩm chất nhân
cách, những công cụ, phương pháp, phương tiện quản lý; rèn luyện, điều chỉnh,
bổ sung những phẩm chất nhân cách cần thiết để công tác quản lý đạt hiệu quả,
chất lượng. Vì vậy, người cán bộ quản lý học viên cần:
Thứ nhất, huy động sự thông minh, linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo; tính độc
lập, tự chủ, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Cân nhắc kỹ
lưỡng các điều kiện, tình huống, hoàn cảnh, đặc điểm và khả năng thực hiện
nhiệm vụ; đặc điểm tâm lý của đối tượng quản lý để xác định và đề ra các chủ
trương lãnh đạo, kế hoạch quản lý phù hợp, có tính hiệu quả giáo dục cao. Đồng
thời, nắm chắc được các yếu tố ảnh hưởng đến tính chất của các chủ trương,
quyết định để điều chỉnh hoạt động và vận dụng những tri thức của khoa học
quản lý, những phẩm chất cần có của người lãnh đạo - quản lý cho phù hợp với
tình hình nhiệm vụ.
Thứ hai, việc đề ra các chủ trương, quyết định lãnh đạo - quản lý là bước
đầu, việc tổ chức thực hiện là quan trọng, diễn ra rất đa dạng và phức tạp theo

tính chất của hoàn cảnh và tình huống lãnh đạo. Do vậy, cần tích cực động viên,
cổ vũ cán bộ, học viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Áp dụng hệ thống
các biện pháp giáo dục và tổ chức nhằm xây dựng bầu không khí tâm lý tích cực
trong tập thể. Tác động vào hệ thống động cơ, nhu cầu, tình cảm của mỗi quân

18


nhân và tập thể quân nhân. Kết hợp chặt chẽ với kiểm tra bảo đảm cho việc thực
hiện các nhiệm vụ. Năng lực đề ra các quyết định cũng như khả năng chỉ đạo
việc thực hiện quyết định được hình thành, phát triển trong quá trình hoạt độnggiao tiếp của nhà lãnh đạo - quản lý. Vì vậy, rèn luyện thường xuyên các phẩm
chất nhân cách của người lãnh đạo là một điều kiện, phương tiện tâm lý quan
trọng quy định một cách trực tiếp chất lượng lãnh đạo - quản lý.
Thứ ba, thực hiện tốt chức năng kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện các
nhiệm vụ trong quá trình lãnh đạo - quản lý. Người cán bộ quản lý giáo dục phải
biết tập trung ý thức vào việc phân tích thông tin ngược, những ý kiến, dư luận,
tâm trạng của tập thể để bổ sung, điều chỉnh và xa hơn là triển khai thực hiện
các quyết định sau này. Người lãnh đạo - quản lý phải có sự phát triển cao về tư
duy lãnh đạo - quản lý nhằm đảm bảo được tính trí tuệ trong quá trình chỉ đạo.
Có ý thức, trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp trong sáng; hết sức thận trọng,
huy động các phẩm chất tâm lý của cá nhân để suy nghĩ, cân nhắc đảm bảo tính
chính xác của những thay đổi cần bổ sung điều chỉnh.
2.2.2. Hiểu biết đầy đủ, sâu sắc đối tượng quản lý và lựa chọn nội
dung, phương pháp tác động phù hợp trong quá trình quản lý học viên
Hoạt động quản lý học viên dù đa dạng, phức tạp đến đâu suy cho cùng
vẫn là việc giải quyết các mối quan hệ giữa chủ thể lãnh đạo - quản lý với khách
thể chịu sự lãnh đạo - quản lý. Muốn lãnh đạo toàn diện và sâu sắc cán bộ, học
viên đòi hỏi người lãnh đạo - quản lý phải có hiểu biết đầy đủ về họ, nắm chắc
các đặc điểm tâm - sinh lý, nhu cầu, động cơ, kỹ năng nghiệp vụ quân sự…, trên
cơ sở đó lựa chọn nội dung, phương pháp tác động một cách khoa học nhằm

điều khiển họ thực hiện các nhiệm vụ theo đúng mục tiêu, yêu cầu giáo dục đào
tạo của nhà trường và quân đội.
Chính vì vậy, hoạt động lãnh đạo - quản lý phải cụ thể, toàn diện, sâu sắc
và có kế hoạch đối với từng con người trong đơn vị. Phải nắm chắc tình hình
chính trị, tư tưởng, trình độ, năng lực hành động, lý lịch, quá trình công tác,
trình độ chính trị, quân sự, chuyên môn nghiệp vụ, văn hóa, chỗ mạnh chỗ yếu

19


của từng học viên. Đưa ra được các đánh giá tổng quát mức độ phát triển phát
triển nhân cách học viên, giao nhiệm vụ đúng người, đúng việc nhằm phát huy
tối đa khả năng của từng học viên trong thực hiện nhiệm vụ chung và nhiệm vụ
riêng. Phát hiện đúng, kịp thời tài năng quân sự. Có chính sách bồi dưỡng về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, bồi dưỡng toàn diện và chuyên sâu trên cơ sở bồi
dưỡng vốn tri thức cơ bản làm nền tảng. Có cách dạy cá biệt hóa, bồi dưỡng
phải đi đôi với quản lý, sử dụng phù hợp.
Biết tiến hành tốt các hoạt động cổ vũ, động viên cán bộ, học viên thuộc
quyền. Thực hiện tốt phương châm lấy khích lệ, biểu dương những mặt tốt, ưu
điểm là chính, trên cơ sở đó khắc phục, đẩy lùi những yếu kém, hạn chế. Kết
hợp hài hòa giữa khen thưởng với phê bình, nhắc nhở và xử phạt để điều chỉnh
thái độ, hành vi của học viên. Mức độ và liều lượng khen, chê phải hợp lý, đúng
mức mới có tác động giáo dục tích cực. Cán bộ lãnh đạo - quản lý cần coi trọng
và tiến hành nề nếp các hoạt động thi đua, văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao,
… có nề nếp nhằm xây dựng cho học viên có cuộc sống lạc quan, sôi nổi, giải
tỏa những bức xúc về tâm lý, thúc đẩy họ tích cực thực hiện nhiệm vụ học tâp,
rèn luyện.
2.2.3. Quan tâm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp và bầu không khí tích
cực, lành mạnh trong tập thể đơn vị
Lãnh đạo - quản lý thuộc lĩnh vực của khoa học quản lý nhưng lại liên

quan chặt chẽ với những vấn đề tâm lý, đặc biệt là các vấn đề tâm lý trong tập
thể quân sự. Người lãnh đạo - quản lý không chỉ là người được giao quyền chỉ
huy, quản lý, mà còn phải chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân về việc tổ
chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của đơn vị. Đồng thời, người cán bộ còn
là “cái gốc” của mọi công việc, là “hạt nhân” và trung tâm của sự đoàn kết về ý
chí và hành động, là tấm gương soi của mọi thành viên trong tập thể về phẩm
chất, năng lực, về lối sống và tác phong sinh hoạt.
Chính vì vậy, trong quá trình quản lý, người cán bộ quản lý học viên phải
quan tâm xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với tổ chức đảng cấp mình, với tập

20


thể lãnh đạo cấp dưới, với tổ chức quần chúng trong đơn vị… Người cán bộ
quản lý học viên phải xác định rõ ranh giới trách nhiệm và tính chất quan hệ với
từng thành viên và các tổ chức trong đơn vị; tăng cường khả năng và hiệu quả
điều khiển đối với họ. Tránh thái độ định kiến ở cả hình thức định kiến tốt và
định kiến xấu. Mối quan hệ của người cán bộ quản lý với học viên bị quy định
bởi uy tín của họ. Ý nghĩa tâm lý của uy tín là ở chỗ, mọi mệnh lệnh, chỉ thị của
người cán bộ quản lý có uy tín đều được tập thể thực hiện với một niềm tin tích
cực, với sự tin tưởng vào tính chất hợp lý, tất yếu của những mệnh lệnh, chỉ thị
đó. Người cán bộ quản lý học viên được giao chức trách và quyền hạn đã tạo ra
những điều kiện khách quan cho uy tín của họ. Song, chúng ta còn thấy mặt chủ
quan của uy tín, đó là những phẩm chất nhân cách, sự hiểu biết công việc và sự
gần gũi với cấp dưới.
Xây dựng bầu không khí tâm lý tích cực, lành mạnh trong tập thể vừa là
trách nhiệm, vừa là nội dung, biện pháp trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện, có tác dụng giáo dục uốn nắn học viên, xây dựng tinh thần đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau trong tập thể. Chính vì vậy, người cán bộ quản lý học viên phải tổ
chức tốt các hoạt động quân sự và các hoạt động khác ở đơn vị. Chăm lo xây

dựng bộ phận tích cực trong tập thể, trước hết là đội ngũ cán bộ dưới quyền,
đảng viên, đoàn viên tích cực trong tập thể, điều chỉnh và định hướng các hiện
tượng tâm lý - xã hội. Làm cơ sở để xây dựng mối quan hệ qua lại tốt đẹp, bầu
không khí tích cự, lành mạnh trong tập thể, góp phần nâng cao chất lượng học
tập rèn luyện của học viên
2.2.4. Thường xuyên rèn luyện phong cách lãnh đạo – quản lý, củng cố
và nâng cao uy tín trong quản lý học viên
Lãnh đạo - quản lý vừa là một khoa học nhưng đồng thời cũng là một
nghệ thuật. Người lãnh đạo - quản lý trên cơ sở các nguyên tắc, quy định,
phương pháp, phương tiện, công cụ thực hiện quản lý theo chức năng, nhiệm vụ
nghĩa là phải có một phong cách lãnh đạo phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ, tạo nên nét khác biệt ở từng người cán bộ quản lý học viên. Phong cách lãnh

21


đạo của cán bộ quản lý học viên chịu sự tác động của kết quả đào tạo chuyên
môn nghề nghiệp, đặc điểm tâm lý cá nhân, đặc điểm của tập thể và phong cách
lãnh đạo - quản lý của hệ thống tổ chức trong từng nhà trường quân sự. Việc rèn
luyện một phong cách lãnh đạo phù hợp có vị trí quan trọng đối với cán bộ quản
lý học viên, góp phần nâng cao uy tín của họ, làm cho hoạt động lãnh đạo - quản
lý hiệu quả hơn. Chính vì vậy, người cán bộ quản lý học viên cần phải:
Không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, quản lý
nhằm đổi mới tư duy lãnh đạo, cách thức lãnh đạo. Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Làm việc luôn đảm bảo nguyên tắc tập
trung dân chủ; làm việc tập thể, dám quyết, dám làm.
Thường xuyên nắm vững tình hình thực tiễn. Mềm dẻo, sáng tạo hoạt đổi
mới trong công tác. Khi xem xét, suy nghĩ phải có lý, song khi hành động phải
có tình cảm.
Tăng cường công tác tự phê bình và phê bình, làm việc cởi mở, tránh yêu

nên tốt, ghét nên xấu, chống chủ nghĩa cá nhân. Giữ gìn và nâng cao phẩm chất
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Rèn luyện, tự rèn luyện phong cách lãnh
đạo - quản lý của cán bộ quản lý học viên ở nhà trường quân sự cần được tiến
hành kiên trì, nhẫn nại.
Trong điều kiện hiện nay, một phong cách lãnh đạo - quản lý có sức mạnh
động viên, huy động tối đa trí tuệ của cán bộ học viên dưới quyền là phong cách
dân chủ quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, có khả năng đoàn kết mọi người trong
tập thể hướng vào hoàn thành các nhiệm vụ được giao phó.
Đê lãnh đạo - quản lý được học viên đòi hỏi người cán bộ phải có uy tín. Uy
tín đó được hình thành trên cơ sở những phẩm chất, năng lực và các giá trị xã hội của
người cán bộ, có sức cảm hóa lớn, thu hút, lôi cuốn cán bộ, học viên thuộc quyền;
được mọi người trong đơn vị tin tưởng, tuân theo. Uy tín của cán bộ quản lý học viên
là yếu tố quan trọng trong việc lãnh đạo tập thể có hiệu quả. Do đó, trong mọi mặt
hoạt động của mình, người lãnh đạo - quản lý học viên phải biết chăm lo xây dựng
uy tín chân chính thực sự của bản thân, dựa trên khả năng, trình độ chuyên môn

22


vững chắc của mình, mức độ trưởng thành về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tác
phong, phong cách lãnh đạo có hiệu quả.
Rèn luyện, củng cố, nâng cao uy tín là con đường gian nan, đầy khó khăn
và thách thức. Đó là con đường tự rèn luyện, bồi dưỡng, tích lũy những phẩm
chất, năng lực và kinh nghiệm cần thiết để thừa nhận là người lãnh đạo - quản lý
và trở thành người lãnh đạo, quản lý, để được trao nhiệm vụ lãnh đạo - quản lý
và trở thành người lãnh đạo - quản lý. Đó là sự nghiêm khắc với bản thân, độ
lượng với người khác, phấn đấu rèn luyện thường xuyên. Giữ mối quan hệ giữa
uy tín cá nhân người lãnh đạo - quản lý với uy tín của tổ chức và tập thể đơn vị.
Nêu cao tính tự chủ, tự kiềm chế, tự kiểm tra, tự điều chỉnh và tự phê bình.
Khi có hiện tượng giảm sút hoặc mất uy tín cần tự phê bình nghiêm túc, tìm ra

nguyên nhân, có những yêu cầu sửa chữa cụ thể, được mọi người thừa nhận.
Thực hiện triệt để quy chế dân chủ ở cơ sở, có ý kiến độc lập trong quyết
định của cá nhân và dám chịu trách nhiệm, không né tránh hoặc đổ trách nhiệm
cho người khác khi vi phạm sai lầm, thất bại. Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, cố gắng rèn luyện điều chỉnh những phẩm chất thuộc tâm lý cá
nhân để trở thành người cán bộ quan lý có uy tín thực chất.

23


KẾT LUẬN
Nhân cách của người cán bộ quản lý học viên trong các nhà trường quân sự hình
thành và phát triển trong quá trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài
quân đội, trong hoạt động thực tiễn. Quá trình hoàn thiện nhân cách của họ chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó mỗi yếu tố có vai trò nhất định.
Người cán bộ quản lý học viên ngoài những phẩm chất cần có của người cán bộ
trong quân đội còn có những phẩm chất chuyên biệt cần có để đáp ứng yêu cầu
trong công tác quản lý học viên.
Quản lý học viên vừa là khoa học nhưng đồng thời cũng là một nghệ
thuật, người cán bộ quản lý không những phải sử dụng một cách tối ưu các nội
dung, phương pháp, phương tiện và công cụ quản lý đặc thù mà điều quan trọng
là cần rèn luyện cho bản thân những phẩm chất nhân cách tiêu biểu. Một phong
cách lãnh đạo tốt, một nhân cách tốt sẽ tạo uy tín tốt cho người cán bộ lãnh đạo quản lý.
Để có những phẩm chất nhân cách đó, người cán bộ quản lý học viên cần
tích cực tự giáo dục, bồi dưỡng toàn diện bản thân, phải có kiến thức lãnh đạo quản lý, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ văn hóa.... Tăng cường thực tiễn lãnh
đạo - quản lý để rút ra những bài học kinh nghiệm quản lý có chất lượng. Đồng
thời, mở rộng quan hệ thông tin và giao lưu; xây dựng tập thể quân nhân vững
mạnh. Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ Quân đội, đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới./.


24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Chỉnh - Phạm Ngọc Uyển (1998), Tâm lý học quản lý,
Nxb Giáo dục, Hà Nội
2. Vũ Dũng (2009), Tâm lý học quản lý, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3. Đảng ủy quân sự trung ương (2007), Nghị quyết số 86/NQ ĐUQSTƯ, Nghị quyết về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới ,
Nxb QĐND, Hà Nội.
4. Học viện Chính trị quốc gia (2004), Tâm lý học lãnh đạo - quản lý, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
5. Mai Hữu Khuê (1985), Những khía cạnh tâm lý của quản lý, Nxb Lao
động, Hà Nội.
6. Tổng cục Chính trị (2005), Tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội.
7. Tổng cục Chính trị (2002), Tâm lý học lãnh đạo - quản lý bộ đội, Nxb
QĐND, Hà Nội.
8. V.G. Afanaxev (1979), Thông tin xã hội và quản lý xã hội, Nxb KHXH,
Hà Nội.
9. V.I. Mikheev (1979), Những vấn đề xã hội - tâm lý trong quản lý, Nxb
Lao động, Hà Nội.

25



×