Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Vận dụng quan điểm về Dân sinh của Hồ Chí Minh vào việc đảm bảo các chính sách An sinh xã hội ở Đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.94 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LƯU VĂN PHONG

VẬN DỤNG QUAN NIỆM VỀ DÂN SINH
CỦA HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC ĐẢM BẢO
CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng - Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LƯU VĂN PHONG

VẬN DỤNG QUAN NIỆM VỀ DÂN SINH
CỦA HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC ĐẢM BẢO
CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN HỒNG LƯU

Đà Nẵng - Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Lưu Văn Phong


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.................................................. 3
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu............................................................... 3

CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM VỀ DÂN SINH CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀ VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY .............. 7
1.1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN SINH ...... 7
1.1.1. Cơ sở hình thành quan niệm dân sinh của Hồ Chí Minh................ 7
1.1.2. Nội dung quan niệm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân sinh......... 13


1.2. VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI .......................................................... 25
1.2.1. Khái niệm an sinh xã hội .............................................................. 25
1.2.2. Các bộ phận và vai trò của an sinh xã hội .................................... 31
1.2.3. Đặc trưng của chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam................... 35

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ......................................................................... 40
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VÀ TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY ............................................................... 41
2.1. CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ................................................. 41
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội truyền thống văn
hóa, con người thành phố Đà Nẵng ........................................................ 41


2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và chủ trương, chính sách của thành phố đối
với công tác an sinh xã hội...................................................................... 45

2.2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY.................................................. 47
2.2.1. Những thành tựu đạt được ............................................................ 47
2.2.2. Những hạn chế cần khắc phục ...................................................... 62

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ......................................................................... 64
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẢM BẢO
CÁC CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY65
3.1.1. Quan điểm, chính sách của Đảng và chính sách của Nhà nước về
an sinh xã hội .......................................................................................... 65
3.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng đến
2020......................................................................................................... 69


3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG TRONG THỜI GIAN TỚI......................................................... 71
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách......................................... 71
3.3.2. Nhóm giải pháp thực thi chính sách ............................................. 73
3.3.3. Nhóm giải pháp đối với đối tượng thụ hưởng .............................. 77

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT .................................................. 78
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ......................................................................... 80
KẾT LUẬN ............................................................................................ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH

- An sinh xã hội

BHXH

- Bảo hiểm xã hội

BHYT

- Bảo hiểm y tế


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu


Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Tạo việc làm, nâng cao thu nhập giai đoạn 1997-

49

2012
2.2

Hiện trạng bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm

50

nghèo giai đoạn 1997 - 2012
2.3

Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu về BHXH

51

giai đoạn 1997-2012
2.4

Trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt


53

khó khăn
2.5

Hiện trạng thực hiện Bảo đảm y tế tối thiểu giai

55

đoạn 1997 - 2012
2.6

Hiện trạng phát triển giáo dục tối thiểu giai đoạn

57

1997 – 2012
2.7

Hiện trạng nhà ở tối thiểu giai đoạn 1997 - 2012

59

2.8

Hiện trạng bảo đảm nước sạch giai đoạn 1997 -

60


2012
2.9

Hiện trạng thực hiện tiếp cận thông tin cho người
nghèo, vùng nghèo giai đoạn 1997 - 2012

61


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội gắn chặt với vấn đề
dân sinh, Người luôn coi trọng và thực hiện ngày càng tốt hơn vấn đề dân
sinh. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nêu rõ phương thức, biện pháp để giải
quyết một cách hiệu quả vấn đề dân sinh. Đó là thực hành tiết kiệm, phát triển
sản xuất, gắn phát triển kinh tế với chăm lo cải thiện và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân. Những luận điểm sâu sắc của Người về dân sinh
là sự thể hiện tập trung và thiết thực tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước.
Quán triệt tư tưởng dân sinh đó của Hồ Chí Minh trong hơn 25 năm đổi
mới vừa qua Đảng ta đã luôn chủ trương thực hiện chính sách dân sinh mà nổi
bật là chính sách An sinh xã hội (ASXH) đảm bảo nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân. Chính sách xã hội nói chung, chính sách ASXH
nói riêng từ chỗ chỉ xem là phần còn lại của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội đã được Đảng ta nâng tầm lên ngang bằng với các chính sách khác. Chính
nhờ đó đến nay chính sách ASXH đã đạt được một số thành tựu rất đáng trân
trọng, thể hiện được tính nhân văn của chính sách này.
Hòa chung với cả nước, hơn 15 năm qua kể từ khi trở thành thành phố

trực thuộc trung ương, thành phố Đà Nẵng đã luôn gắn kết chặt chẽ tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện nhiều
chính sách ASXH độc đáo, hiệu quả, nhất là chương trình “5 không”, chương
trình “3 có”. Trong những năm tiếp theo, thành phố Đà Nẵng cần tiếp tục phát
huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những vướng mắc đang tồn tại
trong quá trình thực hiện đảm bảo ASXH để xây dựng thành phố thực sự trở
thành “thành phố đáng sống”. Để thực hiện tốt điều đó, thành phố Đà Nẵng


2
nhất thiết phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân
sinh và hệ thống quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về ASXH.
Với tính cấp thiết đó, tác giả chọn đề tài “Vận dụng quan niệm về Dân
sinh của Hồ Chính Minh vào việc đảm bảo chính sách An sinh xã hội ở Đà
Nẵng” làm luận văn thạc sĩ triết học.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân sinh,
từ thực tiễn thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng, luận văn đề ra
các giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục thực hiện tốt các chính sách ASXH ở
thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ quan điểm Dân sinh của Hồ Chí Minh.
- Phân tích chính sách ASXH nước ta cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, qua
đó nêu lên hiện trạng thực hiện các chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng
những năm gần đây.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục thực hiện tốt các chính
sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lý luận và thực tiễn về vấn đề Dân sinh,
ASXHở nước ta nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng.

- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu việc vận dụng
quan điểm Dân sinh của Hồ Chí Minh trong thực hiện các chính sách ASXH
ở thành phố Đà Nẵng hiện nay. Do đó, các số liệu về thành phố Đà Nẵng
được đề tài sử dụng chủ yếu giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và các tư


3
tưởng chủ đạo của Đảng ta về vấn đề ASXH, luận văn sử dụng phương pháp
nghiên cứu chủ yếu: Trừu tượng hóa khoa học, phân tích, tổng hợp, thống kê,
thu thập số liệu, so sánh, đối chiếu để rút ra các kết luận, nhận định khoa học.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn
đề Dân sinh, làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách ASXH ở
Việt Nam, nhất là ở thành phố Đà Nẵng.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục thực hiện hiệu
quả chính sách ASXH ở Đà Nẵng trong những năm đến.
- Khi đã hoàn thành, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Hiện nay, Tư tưởng Hồ Chí Minh được rất nhiều nhà lý luận, nhà khoa
học, tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, liên
quan đến quan điểm của Hồ Chí Minh về dân sinh được rất nhiều công trình
nghiên cứu và công bố, tiêu biểu nhất là:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” của Vũ Văn
Hiền và Đinh Xuân Lý (đồng chủ biên) (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003);“Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người” của Đặng
Xuân Kỳ (chủ biên) (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005)’ “Tư tưởng của

Hồ Chí Minh về quyền con người” của Phạm Ngọc Anh (Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2005); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội” của Nguyễn Bá Linh (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005); “Hồ
Chí Minh – Đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng Việt Nam” của Nguyễn
Khắc Nho (Nxb Chính trị Quốc gia, 2008); “Hồ Chí Minh với vấn đề dân
sinh” của Nguyễn Đình Hòa (Tạp chí triết học, số 1 (212), 2009); “Giá trị
nhân văn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Mai


4
Hoa (Tạp chí Triết học, số 11 (222), 11, 2009); “Công việc đối với con người
trong Di chúc của Hồ Chí Minh” của Trần Thị Huyền (Tạp chí Triết học, số
12 (223), 12, 2009); Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội và sự vận
dụng sáng tạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới” của Nguyễn Thị Minh
Thùy (Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số tháng 6, 2012); “Quyền
sống của con người – từ quan niệm của Hồ Chí Minh đến quy định của Hiến
pháp” của Phạm Ngọc Anh (Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 – 2013); “Giá trị
Minh triết Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với hạnh phúc của nhân dân
và dân chủ xã hội” của Trần Ngọc Thiện (Thông tin những vấn đề lý luận, số
6, 2013)…
Trong những công trình trên, các tác giả đã đi sâu phân tích quan điểm
của Hồ Chí Minh về vấn đề quyền con người, về hạnh phúc của con người, về
dân chủ xã hội, về dân sinh, về chính sách xã hội…Trong đó, chỉ có một bài
báo khoa học trực tiếp đến vấn đề quan điểm dân sinh của Hồ Chí Minh.
Về vấn đề an sinh xã hội cũng được một số học giả quan tâm nghiên
cứu mà tiêu biểu là: Mạc Tiến Anh, Bản chất và tính tất yếu khách quan của
an sinh xã hội, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, số 2/2005; Ansel M. Sharp, Kinh tế
học trong các vấn đề xã hội (sách dịch), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội,
2005; Bộ Lao động thương binh & Xã hội, Đề tài “Luận cứ khoa học cho
việc đổi mới chính sách bảo đảm xã hội trong nền kinh tế thị hàng hoá nhiều

thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đề tài khoa học
cấp nhà nước, mã số KX04 – 05;“Phân phối trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của Nguyễn Công Nghiệp (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006); Bộ Lao động thương binh & Xã hội, Đề tài “Phát
triển hệ thống ASXH Việt Nam phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Đề tài khoa học cấp Bộ, 2006.


5
“Xây dựng và hoàn thiện hệ thống An sinh xã hội – một công cụ quan
trọng nhằm thực hiện công bằng xã hội ở nước ta” của Phạm Thị Ngọc Trầm
(Tạp chí Triết học, số 12 (223), 12, 2009); Mai Ngọc Anh, An sinh xã hội đối
với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam. Luận án tiến sỹ
kinh tế, (2009); Mai Ngọc Cường, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính
sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
“Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam” của
Hoàng Đức Thân – Đinh Quang Ty (đồng chủ biên) (Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2010); “Gắn tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt
Nam” của Trần Nguyễn Tuyên (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010);
“Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới” của
Nguyễn Thị Thanh (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011)…
Những kết quả nghiên cứu ở trên đã đề cập tương đối toàn diện đến các
vấn đề về chính sách xã hội nói chung, chính sách An sinh xã hội nói riêng ở
nước ta từ lý luận và thực tiễn.
Hiện nay, các chủ đề liên quan đến kinh tế - xã hội Đà Nẵng cũng được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Liên quan đến vấn đề thực hiện chính sách
an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng có một số công trình chủ yếu sau:
“Xây dựng lối sống đô thị trong quá trình đô thị ở thành phố Đà Nẵng,
thực trạng và giải pháp” của Phạm Hảo (Đề tài khoa học cấp thành phố, Đà
Nẵng, 2006); “Đô thị hóa và các hiệu ứng văn hóa cho sự phát triển kinh tế ở

thành phố Đà Nẵng hiện nay” của Lê Hữu Ái (Tạp chí Phát triển kinh tế - xã
hội Đà Nẵng, số 12, 2010); “Đánh giá sự hài lòng về dịch vụ công ở Đà
Nẵng” của Lê Dân (Tạp chí Con số và sự kiện, số 4, 2010); “Thực trạng thực
hiện chính sách bảo trợ xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm
2015, tầm nhìn đến năm 2020” của Trần Văn Liên (Tạp chí Phát triển kinh tế
- xã hội Đà Nẵng, số 16+17, 2011); “Đà Nẵng chú trọng xây dựng và phát


6
triển văn hóa” của Trần Đức Anh Sơn (Tạp chí Cộng sản (chuyên đề cơ sở),
số 49, 2011); “Mối quan hệ mức sống vật chất và phân hóa xã hội trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay” của Phan Thanh Giản (Tạp chí Sinh hoạt
lý luận, số 4(113), 2012);“Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng” của Dương Anh Hoàng (Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2012);...
Về tổng thể, những công trình nghiên cứu này đã đề cập đến một số khía
cạnh của kinh tế - xã hội, văn hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề nhân
lực ở thành phố Đà Nẵng. Liên quan đến đề tài luận văn chỉ có công trình
nghiên cứu về vấn đề bảo trợ xã hội ở Đà Nẵng của tác giả Trần Văn Liên.
Như vậy, chưa có công trình nào đề cập trực tiếp đến việc vận dụng quan
điểm của Hồ Chí Minh về dân sinh trong việc thực hiện các chính sách an xã
hội. Mặc dù vậy, những công trình nghiên cứu đã công bố là những cơ sở định
hướng, tư liệu tham khảo hết sức quan trọng để tác giả hoàn thành đề tài.


7
CHƯƠNG 1

QUAN NIỆM VỀ DÂN SINH CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀ VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN SINH
1.1.1. Cơ sở hình thành quan niệm dân sinh của Hồ Chí Minh
Xuất phát từ truyền thống gia đình, quê hương. Nghệ Tĩnh là vùng đất
giàu truyền thống cách mạng, là nơi đã sản sinh ra nhiều con người và lãnh tụ
kiệt xuất như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng,
Phan Bội Châu,… Người được sinh ra trong một gia đình nhà nho mẫu mực,
giàu truyền thống cách mạng. Từ cha, mẹ đến các anh, chị của Người đều có
chung một chí hướng cứu nước, thương dân. Đặc biệt, Người chịu ảnh hưởng
sâu sắc từ nhân cách và phẩm chất cao quý, nghị lực sống phi thường của
người cha - cụ Nguyễn Sinh Sắc. Tất cả những điều đó là là cơ sở, điều kiện
cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và quan niệm của
Người về dân sinh sau này. Với mong muốn tột bậc là "làm sao cho nước nhà
được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành" [40, tr. 161].
Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Với Hòa ước
Giáp Thân năm 1884, triều đình nhà Nguyễn đã chính thức dâng Việt Nam
cho thực dân Pháp xâm lược vô điều kiện. Triều đình đầu hàng, nhưng nhân
dân Việt Nam thì không đồng tình với quyết định đó. Phát huy truyền thống
yêu nước của dân tộc, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới ngọn cờ "Cần
Vương" do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo theo hệ tư tưởng phong kiến, các
phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng dân chủ tư sản liên tiếp nổ ra vào
những năm cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX đã gây ra nỗi khiếp sợ
cho quân xâm lược. Tuy nhiên, do đường lối cứu nước không đúng đắn, cuối


8
cùng tất cả các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và dân chủ
tư sản đều thất bại. Đó là nguyên nhân sâu xa làm cho Việt Nam khủng hoảng
về đường lối cứu nước.
Mặc dù, Hồ Chí Minh rất quý trọng chí hướng cứu nước của các bậc tiền

bối, nhưng người không tán thành con đường cứu nước giải phóng dân tộc
của họ. Phong trào cứu nước giải phóng dân tộc của nhân dân ta muốn giành
thắng lợi phải đi theo một con đường mới. Con đường đó nhất quyết không
phải là "Ỷ Pháp cầu tiến bộ" như của Phan Chu Trinh, không phải chủ trương
giành độc lập dân tộc bằng con đường sử dụng bạo lực mang tính manh động,
cầu ngoại viện chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau" của Phan
Bội Châu, cũng không phải bằng cách dựng lại ngọn cờ phong kiến khi nó đã
quá rách nát, lỗi thời, không hợp lòng dân.
Trong bối cảnh đó, Người đã tự định ra cho mình một hướng đi mới:
"Phải tìm hiểu rõ bản chất của những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước
cộng hòa Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, sẽ trở về
giúp đồng bào mình" [45, tr. 40-41].
Người chỉ rõ: "Trong khi con thuyền cách mạng Việt Nam còn lênh đênh
chưa rõ bến bờ phải đi tới, việc cứu nước như trong đêm tối "không có đường
ra" thì lịch sử thế giới có những chuyến biến to lớn" [2, tr. 28]. Chủ nghĩa tư
bản từ tự do cạnh tranh chuyển sang Đế quốc chủ nghĩa, nhu cầu xâm lược
thuộc địa trở thành vấn đề sống còn đối với chủ nghĩa tư bản, khi mà thị
trường trong nước không đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất tư bản. Điều
này làm cho mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với các nước thuộc địa Á, Phi,
Mỹ Latinh càng trở nên sâu sắc, chủ nghĩa đế quốc không những trở thành kẻ
thù chung của các dân tộc thuộc địa, mà còn là kẻ thù "không đội trời chung"
với giai cấp vô sản hiện đại - con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại.


9
Đỉnh cao sự ra đời, phát triển trưởng thành của phong trào công nhân thế
giới là thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 dưới sự lãnh đạo
của lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin. Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng
Tháng Mười Nga "Mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc,
thời đại giải phóng dân tộc" [43, tr. 562], làm "thức tỉnh các dân tộc châu Á",

mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của nhân loại.
Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ có thể thành công khi giai cấp vô sản
thông qua chính Đảng của mình, mà đứng đầu là V.I. Lênin đào tạo ra được
những lãnh tụ tài giỏi, trung thành với sự nghiệp cách mạng. Bởi vì "Trong
lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không
đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [27, tr. 473].
Xuất phát từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống tốt đẹp của dân tộc: Với lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời,
đã hình thành nên những giá trị truyền thống tốt đẹp, đặc sắc và cao quý của
dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề lý luận xuất phát hình thành quan niệm
Hồ Chí Minh về dân sinh. Trong các truyền thống đó phải kể đến:
Truyền thống yêu nước: Đây là truyền thống quý báu của dân tộc ta và là
một trong những chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc. Truyền thống đó
luôn cháy bỏng trong tâm hồn của bao thế hệ Việt Nam. Nhất là mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, truyền thống đó lại trỗi dậy mạnh mẽ với bao lớp người sẵn
sàng "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh", "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh".
Nói về truyền thống yêu nước, Hồ Chí Minh từng đúc kết: "Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước" [42, tr. 171].


10
Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thôi thúc Người ra đi tìm
đường cứu nước giải phóng dân tộc. Từ đó người đã đến với hệ thống tri thức
nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Truyền thống lấy dân làm gốc: Lịch sử hơn hai nghìn năm trăm năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã từng phải đối đầu với rất nhiều quân

thù hung tợn, tàn bạo nhưng nhân dân Việt Nam vẫn anh dũng vượt qua mọi
thử thách, chiến đấu và chiến thắng mọi kể thù xâm lược để giữ vững nền độc
lập dân tộc. Một trong những nguyên nhân quan trọng mang lại chiến thắng
lẫy lừng của dân tộc Việt Nam trước các thế lực ngoại xâm là tư tưởng "lấy
dân làm gốc" đã ngấm vào trong máu của cơ bản các triều đại phong kiến.
Mặc dù đội ngũ quan lại luôn mang tính giai cấp, họ được đào tạo ra để bảo
vệ sự tồn vong của nhà nước phong kiến, song thành phần vua tôi ở Việt Nam
chủ yếu xuất thân từ nhân dân, nên họ là những người gần dân, thân dân, gắn
bó với nhân dân, được nhân dân che chở, ủng hộ, đùm bọc. Lịch sử dân tộc
cũng đã chứng minh một chân lý: Chỉ những triều đại biết dựa vào dân, lấy
dân làm gốc, thấy được sức mạnh “vừa có khả năng đẩy thuyền vừa có khả
năng lật thuyền” của dân, thì triều đại đó chẳng những đứng vững mà còn
vượt qua được sóng gió, đất nước hưng thịnh, muôn dân thái bình.
Truyền thống đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái, truyền thống kiên
cường, bất khuất, thông minh sáng tạo, lòng nhân nghĩa, khiêm tốn, biết tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc... cũng là
những tiền đề tư tưởng lý luận cho sự ra đời quan điểm Hồ Chí Minh về dân
sinh. Trong các giá trị truyền thống dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là giá trị cơ
bản nhất.
Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại: Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn
văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Đông
và phương Tây.


11
Hồ Chí Minh đã tiếp thu trên cơ sở phê phán những quan điểm của nho
giáo làm tiền đề cho sự ra đời tư tưởng Người về nhân dân và dân sinh. Bằng
việc tiếp thu những giá trị nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng của người quân tử
trong Nho giáo, trên cơ sở phê phán những điều không đúng, như: Tư tưởng
trọng nam khinh nữ; xem nhẹ lao động chân tay….

Bên cạnh đó, những giá trị tích cực khác của Nho giáo như triết lý hành
động, tu thân, tề gia, nhân nghĩa, triết lý nhân sinh, đề cao văn hóa lễ giáo,
ước vọng về một xã hội bình trị, một thế giới đại đồng, tư tưởng tin dân, đề
cao sức mạnh của nhân dân, đặc biệt là việc đề cao tư tưởng "Đức trị" là một
trong những nguồn gốc lý luận quan trọng cho sự ra đời quan niệm của Hồ
Chí Minh về dân sinh. Nói về vai trò của "Đức trị" trong việc trị vì quốc gia,
Khổng Tử từng khẳng định: "Làm chính trị mà dùng đức thì như sao Bắc Đẩu
ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng cả về" [26, tr. 38]. Thấm nhuần giá trị
tiến bộ đó, Hồ Chí Minh đẩy nó cao hơn với chủ trương "Gốc có vững cây
mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"; Nhà nước mới "là người đầy tớ
trung thành của nhân dân" [38, tr. 663].
Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn;
giản dị; chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều thiện; thương người như thể
thương thân...
Bên cạnh Nho giáo và Phật giáo, trong kho tàng tư tưởng phương Đông,
quan niệm Hồ Chí Minh về dân sinh còn chịu ảnh hưởng và tiếp thu phần tích
cực, tiến bộ của nhiều học thuyết khác như Mặc gia, Đạo gia, Chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn.
Tư tưởng văn hóa phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác-Lênin là
một trong ba tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung và quan niệm dân sinh nói riêng. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp


12
thu trên tinh thần phê phán những tư tưởng văn hóa dân chủ và cách mạng của
cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ.
Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư
tưởng của các nhà khai sáng: Voltaire, Rousso, Moutesquieu. Đặc biệt, Người
chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng "Tự do, bình đẳng, bác ái" trong Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Đại cách mạng Pháp để làm

giàu vốn văn hóa của mình trong đó có tư tưởng về dân sinh.
Đối với cách mạng Mỹ, Hồ Chí Minh đã tiếp thu các giá trị về quyền
nhân dân kiểm soát chính phủ, "Quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc" trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ.
Bên cạnh việc tiếp thu các giá trị, Hồ Chí Minh đồng thời cũng chỉ ra
những hạn chế trong Cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp là “cách mệnh Tư
bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong
nước thì tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa" [ 39, tr. 274].
Ảnh hưởng từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng xã hội
chủ nghĩa coi mục tiêu cuối cùng là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và
đảm bảo dân sinh, dân chủ.
Trí tuệ thiên tài, nhân cách, phẩm chất Hồ Chí Minh và hoạt động thực
tiễn của người. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của cá nhân Hồ Chí Minh
sáng tạo ra trên cơ sở những nhân tố khách quan như đã trình bày, do đó, quan
niệm của Người về dân sinh còn là kết quả của những yếu tố chủ quan: Khả
năng tư duy, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn của
Người.
Hồ Chí Minh là một trí tuệ lớn của nhân loại, Người rất thông minh, có
bản lĩnh kiên định, ham học hỏi, rất nhạy bén, có lối tư duy độc lập, óc sáng
tạo, có phương pháp biện chứng, hiểu biết sâu rộng, khiêm tốn, bình dị. Là
người sống có lý tưởng và hoài bão lớn, có đầu óc tổ chức thực tiễn, luôn gắn


13
lý luận với thực tiễn, Người đặc biệt có sức cảm hóa mãnh liệt đối với mọi
người. Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản
nhiệt thành cách mạng, với một trái tim yêu nước thương dân. Người là đỉnh
cao của sự phát triển về khả năng tư duy, trí tuệ và phẩm chất đạo đức; là "Đại
nhân, đại trí, đại dũng" như cách nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Không
phải ngẫu nhiên khi Hồ Chí Minh mới trạc tuổi 33 mà nhà báo Liên Xô Ô.

Manđenxtam đã nhận xét về trí tuệ, nhân cách của người: "Từ Nguyễn Ái
Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một
nền văn hóa tương lai". Văn hóa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã và sẽ
mãi còn tỏa sáng cùng với sự trường tồn của dân tộc và nhân loại.
1.1.2. Nội dung quan niệm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân sinh
Hồ Chí Minh chưa một lần dành riêng một tác phẩm, một bài viết hay
một bài phát biểu để trình bày quan niệm dân sinh, triết lý nhân sinh của
Người. Quan niệm đó, triết lý đó ở Hồ Chí Minh được toát ra, được thể hiện
sinh động từ toàn bộ cuộc đời đấu tranh cách mạng không mệt mỏi và từ cuộc
sống hàng ngày rất đỗi đời thường của Người. Quan niệm đó, triết lý đó là sự
kết tinh cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân,
người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận ra được vai trò của vấn đề dân
sinh. Có thể nói rằng, Người phải bôn ba ở nước ngoài cũng là vì tìm ra quốc
kế dân sinh cho nhân dân An Nam lúc bấy giờ. Trong suốt cả cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc,
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Luận điểm này
đã phản ánh một cách cô đọng, súc tích quan điểm của Hồ Chí Minh về dân
sinh hạnh phúc. Người đã dành trọn cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
mình đấu tranh cho mục đích cách mạng đầy tính nhân văn - độc lập cho dân


14
tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Người đã kế thừa những giá trị tư tưởng, văn
hóa “vĩnh cửu” của nhân loại, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả và đáp
ứng những yêu cầu, nguyện vọng cháy bỏng và sâu xa của dân tộc và nhân
loại. Không chỉ thế, cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi của
Người còn là một tấm gương sáng ngời, một biểu hiện tiêu biểu cho chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản cao cả. Chính cuộc đời hoạt động vì nước, vì dân của

Người là bằng chứng sống cho quan niệm dân sinh đó.
Chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là sự thể hiện tập
trung ở quan niệm dân sinh, triết lý nhân sinh của Người - suốt đời cống hiến
hết mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng giai cấp
và giải phóng nhân loại; đấu tranh không mệt mỏi để xóa bỏ mọi áp bức, bóc
lột, mọi bất công, phi lý; giành độc lập, tự do vì quyền được phát triển bình
đẳng cho dân tộc, cho nhân loại; đem lại cho mỗi con người, cho dân tộc và
cho cả cộng đồng nhân loại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước là: Phải hết
sức quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục
nhân dân tăng gia sản xuất, tiết kiệm. Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách
của Đảng và Chính phủ đưa xuống sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói rét, dốt,
bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được. Từ
những quan điểm trên, chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh đã xem dân sinh là
vấn đề quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia, là vấn đề cốt lõi trong đường
lối của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Quan điểm dân sinh đó, triết lý nhân sinh đó lấy thực tiễn cuộc sống làm
điểm xuất phát, lấy giải phóng và phát triển con người làm mục tiêu. Đó là
quan điểm vì cuộc sống con người mà hành động, là triết lý cuộc sống, là đạo
lý làm người, đạo lý làm việc. Ở Hồ Chí Minh, quan điểm dân sinh đó, triết lý
nhân sinh đó đã trở thành phương châm hành động và, như Người đã xác định


15
rõ, “đầu tiên là công việc đối với con người” [45, tr.503]. mọi công việc đều
liên quan tới con người, hướng vào phục vụ con người, làm cho con người
được phát triển toàn diện với mọi năng lực vốn có của nó, để con người được
làm chủ, có tự do, có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Hơn nữa, Người còn coi
đó là công việc nhất thiết phải làm, dẫu khó khăn, phức tạp đến mấy cũng
phải ra sức làm.

Quan niệm dân sinh của Hồ Chí Minh thể hiện ở việc phấn đấu mang lại
quyền độc lập, quyền tự do, quyền làm chủ của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề cập tới quyền sống của con người rất sớm, Người đã đặt nền
móng lý luận và thực tiễn bằng việc khẳng định quyền sống của con người
gắn với quyền dân tộc, với độc lập chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Đối
với Hồ Chí Minh, quyền sống không chỉ là quyền được tồn tại, mà còn là
quyền làm người.
Quan niệm dân sinh của Hồ Chí Minh thể hiện thông qua việc thường
xuyên thực hiện các chính sách xã hội để nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho toàn thể nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện có hiệu quả
chính sách xã hội cần phải thực hiện tốt các nội dung sau: Phải lấy dân làm
gốc và là mục tiêu hướng tới của mọi chính sách xã hội; chính sách xã hội
phải phù hợp và gắn với chính sách kinh tế; chính sách xã hội phải bắt nguồn
từ cơ cấu xã hội – giai cấp.
Hồ Chí Minh cũng đề cập đến vấn đề dân sinh với tư cách là mục đích,
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Khi trả lời câu hỏi “chủ nghĩa xã hội là gì?”,
Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm sâu sắc và khoa học nhưng lại rất giản dị
và gần gũi như những lẽ phải thông thường mà ai cũng có thể hiểu và cảm
nhận được. Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội là “... mọi người được ăn no,
mặc ấm, sung sướng, tự do”. Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một xã hội luôn quan tâm và thực hiện ngày


16
càng tốt hơn vấn đề dân sinh. Các chính sách, đường lối của Đảng phải vì an
sinh của dân: Nếu dân đói, dân rét… Đảng có lỗi.
Về kế sách lâu dài để thực hiện dân sinh, theo Hồ Chí Minh là phải thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, tích cực tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế.
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn,
muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, việc tập trung mọi nguồn lực

cho phát triển kinh tế, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm... là vô
cùng cần thiết. Các tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, như ruộng đất, hầm mỏ,
nhà máy,… phải thuộc quyền sở hữu của toàn dân. Nền kinh tế phải phát triển
theo hướng công nghiệp hóa, đi lên sản xuất lớn có khả năng tạo ra năng suất
cao nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Do sớm nhận thức được vai trò của vấn đề dân sinh trong đấu tranh
giành độc lập cũng như trong xây dựng đất nước nên Hồ Chí Minh đã hết sức
chú trọng thực hiện nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến vấn dân sinh,
nhất là hệ thống chính sách xã hội nhân đạo mang bản chất nhân văn của chủ
nghĩa xã hội.
Được sinh ra và nuôi dưỡng bởi một đất nước, một dân tộc có truyền
thống hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, có nền văn hóa nhân bản, mang
giá trị truyền thống và đượm bản sắc dân tộc, có khát vọng cháy bỏng về một
cuộc sống tốt đẹp, Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc từ nỗi
đau đời, thương người, không cam chịu áp bức, bất công, từ những suy nghĩ
mang tính nhân đạo, nhân văn coi con người sinh ra ai cũng có quyền sống,
quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Mục tiêu không
bao giờ thay đổi ở Người là giải phóng dân tộc, giải phóng con người, đem lại
cho dân tộc quyền tự do, bình đẳng trong phát triển, làm cho đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống trong niềm vui hạnh


17
phúc. Người nhiều lần khẳng định, ở Người chỉ có một mục đích duy nhất –
đó là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.
Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo yêu nước, bản thân Hồ Chí
Minh cũng đã từng theo học đạo Nho từ nhỏ, tư tưởng nhân nghĩa của đạo
Nho đã in đậm dấu ấn trong tâm khảm của Người, trở thành một bộ phận cấu
thành quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh, chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng
nhân văn ở Người. Song, khác với nhiều nhà Nho đương thời, với thực tiễn

cuộc sống đầy biến động mà Người từng trải qua trong những năm tháng tìm
kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, bằng thực tiễn hoạt động cách
mạng, với một trí tuệ anh minh và tầm nhìn xa, trông rộng, Người đã sớm
khắc phục, chế ngự tính hẹp hòi, thiển cận của cái nhìn dân tộc để đi đến một
quan niệm mới về tình hữu ái giai cấp, hướng tới những giá trị nhân văn phổ
quát.
Thấu hiểu hơn ai hết những giáo lý của đạo Phật, những chủ trương “từ
bi, hỉ xả, cứu khổ, cứu nạn”, “cứu nhân độ thế”, song với Hồ Chí Minh,
những giáo lý đó, những chủ trương ấy chỉ được coi là hữu ích khi chúng
được sử dụng vào mục đích dân sinh, an sinh xã hội, “cứu chúng sinh ra khỏi
khổ nạn” và nhất là vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ
quốc, “đưa giống nòi ra khỏi khổ ải nô lệ”.
Hồ Chí Minh cũng biết đến những ước mơ, khát vọng vươn tới một xã hội
cao đẹp mà ở đó, con người được phát triển toàn diện và ngày một trở nên hoàn
thiện với cuộc sống ấm no, hạnh phúc ở đạo Thiên Chúa, biết đến chủ trương
cứu vớt chúng sinh của Chúa Giêsu. Song, với Người, khát vọng đó, chủ
trương ấy trước hết phải vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén,
vì hòa bình và công lý, phải nhằm mục đích cứu loài người khỏi ách nô lệ, đưa
loài người đến hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, tự do và nhất là đem lại an ninh
cho cuộc sống của mỗi con người, an sinh cho đời sống cả cộng đồng xã hội.


18
Hồ Chí Minh còn biết đến Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn) và tỏ lòng
ngưỡng mộ nhà dân chủ cách mạng Trung Quốc nổi tiếng này bởi ý tưởng
độc lập, tự do, hạnh phúc của ông, bởi chủ nghĩa “tam dân” - dân tộc, dân
quyền và dân sinh - mà ông đã đưa ra với tư cách cương lĩnh chính trị nhằm
mục tiêu độc lập dân tộc, thành lập nền cộng hòa và thủ tiêu tình trạng bất
bình đẳng xã hội. Người đã tìm thấy nhiều điểm tương đồng về tư tưởng, tìm
ra “những điều thích hợp với nước ta” trong chủ nghĩa “tam dân” của Tôn Dật

Tiên để thực hiện quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh của Người trong
những điều kiện lịch sử - cụ thể ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng đã biết đến những giá trị đích thực trong tư tưởng
nhân văn phương Tây - đó là tự do, dân chủ, tiến bộ. Lấy những nội dung cốt
lõi trong tư tưởng nhân văn phương Tây, chắt lọc những giá trị đích thực của
nó, khi trịnh trọng tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Người đã đưa vào các nội dung tinh túy trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776
của nước Mỹ, trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng
Dân chủ Tư sản Pháp 1789 - 1794 để khẳng định: “tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”; rằng “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được” [40, tr. 1]. Cũng ở đây, cùng với khẳng định này,
Người còn nhấn mạnh “quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc” với tư cách “những quyền không ai có thể xâm phạm được”
của mỗi người và của mọi người. Điều khẳng định này, sự nhấn mạnh này, có
thể nói, đã thể hiện rõ quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh.
Nhận thức rõ những giá trị đích thực trong tư tưởng nhân văn phương
Tây, Hồ Chí Minh cũng sớm nhận ra những hạn chế ở nền tự do, dân chủ của
nó, thấy rõ mặt trái của quyền con người trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Với


×