Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 120 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THU HIỀN

HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI,
HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số : 60 31 03 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN THỊ SONG HÀ

HÀ NỘI, 2017
1


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THU HIỀN

HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI,
HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số : 60 31 03 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ DÂN TỘC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN THỊ SONG HÀ

HÀ NỘI, 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ............9
1. 1. Cơ sở lý luận ..........................................................................................................9
1.2. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ...........................................................................12
Chương 2. HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI TRƯỚC ĐỔI
MỚI (1986) ..................................................................................................................20
2.1. Quan niệm về hôn nhân ........................................................................................20
2.2. Nguyên tắc hôn nhân.............................................................................................20
2.3. Nguyên tắc và hình thức kết hôn ..........................................................................24
2.4. Nghi lễ trong hôn nhân .........................................................................................30
CHƯƠNG 3. BIẾN ĐỔI TRONG HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU TỪ NĂM
1986 ĐẾN NAY ...........................................................................................................57
3.1. Biến đổi trong đặc điểm và quan niệm hôn nhân của người Sán Dìu ..................57
3.2. Nguyên nhân của sự biến đổi ................................................................................66
3.3. Bảo tồn và phát huy các giá trị hôn nhân ..............................................................71
KẾT LUẬN ......................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU
GS


Giáo sư

H

Hà Nội

KHXH

Khoa học Xã hội

NXB

Nhà xuất bản

PGS

Phó Giáo sư

Ths

Thạc sĩ

TS

Tiến sĩ

VHDT

Văn hóa dân tộc


UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hóa Việt Nam đã hình
thành và phát triển, thông qua các hoạt động lao động sáng tạo, nhân dân ta đã xây
đắp, tạo dựng nên một nền văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc, minh chứng cho
sức sống mãnh liệt và trường tồn của dân tộc qua hàng nghìn năm. Do vậy, bảo tồn
phát huy những giá trị văn hóa luôn là một chiến lược quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội trong cả nước nói chung cũng như vùng đồng bào dân
tộc thiểu số nói riêng.
Người Sán Dìu là một trong 53 dân tộc thiểu số ở nước ta, cư trú lâu đời và sinh
sống chủ yếu ở vùng miền núi phía Bắc. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Sán Dìu ở Việt Nam có dân số 146.821 người. Địa bàn cư trú chủ yếu là tập
trung tại các tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải
Dương... Ở Tuyên Quang, người Sán Dìu sống tập trung đông nhất ở các xã Hợp Thành,
Sơn Nam, Ninh Lai của huyện Sơn Dương và Sán Dìu là một trong 22 dân tộc các dân
tộc thiểu số nói chung, người Sán Dìu ở tỉnh Tuyên Quang nói riêng sinh sống từ rất lâu
đời, và gắn bó với mảnh đất Tuyên Quang. Trong quá trình phát triển, đồng bào đã hình
thành các cách ứng xử hài hòa với con người, xã hội và thiên nhiên, thực hành nhiều sinh
hoạt văn hóa và phong tục tập, quán độc đáo, góp phần tạo nên nền văn hóa riêng của tộc
người và nền văn hóa chung của quốc gia đa dân tộc.
Khi nói đến hôn nhân là đề cập tới những lĩnh vực liên quan như: Đặc điểm lịch
sử, kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, nghi lễ của các dân
tộc. Tùy theo từng tộc người mà có những đặc trưng chung và riêng, phản ánh đậm nét
nhiều mặt trong đời sống vật chất và tinh thần của tộc người. Với người Sán Dìu ở xã

Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, từ lâu hôn nhân đã trở thành một nét
đẹp văn hóa, những nghi lễ trong hôn nhân cũng rất được coi trọng, bởi nó chứa đựng
các giá trị văn hóa cội nguồn của tộc người Sán Dìu. Với người Sán Dìu, hôn nhân
không chỉ gắn liền với đời sống tâm linh mà còn đánh dấu một sự kiện quan trọng trong
bước đường đời của mỗi dân tộc. Từ trước đến nay có rất nhiều học giả quan tâm nghiên
cứu về hôn nhân của người Sán Dìu, song do người Sán Dìu sống ở từng vùng miền khác
nhau trong cả nước nên văn hóa, nghi lễ trong hôn nhân cũng có những nét khác nhau.

1


Bên cạnh đó, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ đã tác
động đến mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của các tộc người trong đó có hôn
nhân của người Sán Dìu, họ phải tự mình thay đổi để bắt kịp với xu hướng của thời
đại mới. Nhưng sự biến đổi không đồng nghĩa với việc đánh mất hay bị lãng quên đi
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Do đó, nghiên cứu về hôn nhân
để có giải pháp bảo tồn, gìn giữ những tập quán mang giá trị nhân văn cao đẹp góp
phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là việc hết sức cần thiết
trong bối cảnh hiện nay.
Là người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Tuyên Quang, hiện đang công
tác tại Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang, tôi có nhiều cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu, tìm hiểu
phong tục tập quán của người Sán Dìu, song những hiểu biết về văn hóa truyền thống
của người Sán Dìu vẫn còn hạn chế, đặc biệt mình là cán bộ làm công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của 22 dân tộc sinh sống trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang nên tôi quyết định chọn đề tài luận văn: “Hôn nhân của
người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang” để làm đề tài
tốt nghiệp thạc sĩ, với mong muốn nghiên cứu và tìm hiểu về hôn nhân của tộc người
Sán Dìu, giúp tôi bổ sung thêm kiến thức về phong tục, tập quán, nghi thức, nghi lễ
cưới xin của dân tộc Sán Dìu một cách có hệ thống. Đồng thời, qua đó có những đề

xuất và giải pháp cụ thể trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của tộc
người, để hôn nhân của người Sán Dìu vừa mang màu sắc tiên tiến vừa đậm đà bản
sắc văn hóa dân tộc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dân tộc Sán Dìu là một trong những dân tộc thiểu số có nền văn hóa đặc sắc,
mang giá trị nhân văn cao đẹp, thể hiện trong nhiều lĩnh vực, nhất là qua các phong
tục, tập quán, nghi lễ của tộc người. Do vậy, đã có nhiều tác giả, nhà nghiên cứu dân
tộc học, nhà khoa học quan tâm và dày công nghiên cứu về tộc người này. Các công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học, kể cả sách báo cũng như các tạp chí đã nêu
bật được tổng tổng thể bức tranh văn hóa của người Sán Dìu trên các vùng miền của
cả nước, trong đó có hôn nhân của người Sán Dìu.
2.1. Tình hình nghiên cứu các tác giả nước ngoài
Vấn đề hôn nhân của con người từ lâu đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lê nin đề cập đến tong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và
2


của nhà nước” [2]. Trong tác phẩm này, F. Ăng ghen đã khái quát hôn nhân gắn với các
giai đoạn lịch sử của nhân loại, từ thời kỳ tiền sử đến thời kỳ bộ lạc, thời kỳ phát sinh nhà
nước đầu tiên cho đến khi hình thành nhà nước hoàn chỉnh. Qua sự phân tích và khái
quát của F. Ăng ghen về hôn nhân và gia đình gắn liền với sự biến đổi và phát triển của
các giai đoạn lịch sử cho thấy, có ba thời kỳ gắn với ba hình thức đó là: Thời kỳ mông
muội là chế độ quần hôn; thời đại dã man là chế độ hôn nhân đối ngẫu; và thời đại văn
minh là hôn nhân một vợ một chồng. Có thể nói, đây là một tác phẩm nghiên cứu về hôn
nhân tổng quan nhất, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về hôn nhân.
2.2. Tình hình nghiên cứu của các tác giả trong nước về văn hóa của người Sán Dìu
2.2.1. Các nghiên cứu về văn hóa, gia đình của người Sán Dìu
Một trong những công trình nghiên cứu sớm nhất có đề cập đến người Sán Dìu
là Kiến văn tiểu lục của nhà bác học Lê Quý Đôn (1723-1782). Trong công trình này
tác giả có nhắc đến các tộc người ở xứ Tuyên Quang. Trong 07 chủng tộc người Man,

có chủng tộc Sơn Man1, được các nhà khoa học lý giải rằng: “Man tức là Dao, và như
vậy Sơn Man tức là Sơn Dao hay cũng chính là Sán Dìu2".
Cuốn sách Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc) được Viện
Dân tộc học xuất bản năm 1979 đã trình bày cơ bản một cách khái quát về bức tranh
tộc người Sán Dìu ở Việt Nam như: Lịch sử tộc người, văn hóa mưu sinh, văn hóa vật
chất qua nhà ở, trang phục, ẩm thực và văn hóa tinh thần: Cưới xin, ma chay...
Năm 2003, tác giả Ngô Văn Trụ và Nguyễn Xuân Cần đã (Chủ biên) cho xuất
bản cuốn sách Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang. Cuốn sách này bước đầu đã mô tả một
bức tranh toàn cảnh về người Sán Dìu ở Bắc Giang: Từ nguồn gốc, tên gọi, địa bàn cư
trú đến các hoạt động kinh tế truyền thống, ẩm thực, trang phục truyền thống, các
phong tục nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người.
Tác giả Diệp Trung Bình với Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người
Sán Dìu ở Việt Nam (2005) đã mô tả một cách toàn diện các nghi lễ trong chu kỳ đời
người người Sán Dìu nói chung từ khi sinh ra đến khi mất đi. Đồng thời tác giả cũng
đã có những ý kiến đánh giá về giá trị văn hóa và những biến đổi về văn hóa của tộc
người Sán Dìu được thể hiện qua nghi lễ vòng đời người.
Trên tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 89, năm 2006, hai tác giả Đàm Thị Uyên
và Nguyễn Thị Hải đã có bài viết Tín ngưỡng trong cư trú của người Sán Dìu ở Thái
1
2

Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn Tiểu lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.335.
Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.9.

3


Nguyên. Bài báo đề cập đến các vấn đề tổ chức xã hội và những quan niệm ý thức và
niềm tin, các nghi lễ thực hành tín ngưỡng của người Sán Dìu trong tập quán cư trú
gắn với môi trường, cảnh quan cư trú của họ.

Trong cuốn Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người Sán Dìu ở Việt Nam, tác
giả Diệp Trung Bình (2011) đã giới thiệu những đặc trưng văn hóa của tộc người Sán
Dìu ở Việt Nam qua hệ thống những tri thức dân gian của đồng bào liên quan đến
sinh đẻ, nuôi dạy con cái và sự trưởng thành, cưới xin, tang ma. Tác giả cũng đưa ra
những so sánh và những giá trị truyền thống và hiện đại, những biến đổi lớn trong bản
sắc văn hóa của người Sán Dìu ở nước ta hiện nay. Diệp Trung Bình cũng đã sưu tầm
và biên dịch những làn điệu dân ca của tộc người Sán Dìu trong đời sống sinh hoạt
hàng ngày và những lời hát đối đáp trong đám cưới.
Cuốn Người Sán Dìu ở Việt Nam của tác giả Ma Khánh Bằng, xuất bản năm
1983 là một bức tranh toàn cảnh về người Sán Dìu ở Việt Nam. Tác giả đã nghiên
cứu và trình bày một cách khái quát tổng thể về dân tộc Sán Dìu: Từ tên gọi, lịch sử
hình thành và phát triển đến cách tổ chức đời sống, văn hóa vật chất, văn hóa tinh
thần cùng các phong tục tập quán làm nên các giá trị văn hóa riêng của tộc người Sán
Dìu ở Việt Nam. Tác giả đã khẳng định tộc người Sán Dìu là “Một tộc người với dân
số ít, tiếp thu văn hóa của nhiều dân tộc khác, song vẫn luôn ý thức được mình là một
dân tộc”.
Trong cuốn “Văn hóa các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc” (2009) của tác giả Lâm
Quý, đã khảo cứu dân tộc học về lịch sử dân cư, tập quán sản xuất, sinh hoạt xã hội,
ngôn ngữ, chữ viết, kiến trúc, mỹ thuật, âm nhạc dân gian, phong tục, lễ hội... nhằm
giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về văn hóa các dân tộc ở Vĩnh Phúc với bản sắc
truyền thống riêng. Đồng thời, tác giả cũng cảnh báo những nguy cơ làm mai một bản
sắc các dân tộc thiểu số. Từ đó, đưa ra một vài khuyến nghị về vấn đề về giữ gìn, bảo
tồn, khai thác, phát huy các giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc: Sán Dìu, Cao Lan
và Dao ở Vĩnh Phúc.
Năm 2011, tác giả Chu Thái Sơn đã xuất bản cuốn sách Dân tộc Sán Dìu, giới
thiệu sơ lược lịch sử dân tộc, cuộc sống lao động, tập quán sinh hoạt, phong tục cổ
truyền, đời sống tâm linh và cuộc sống hiện nay của dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Thị Quế Loan cũng đã dày công nghiên cứu một khía cạnh
văn hóa của người Sán Dìu Thái Nguyên trong luận án tiến sĩ Tập quán ăn uống của
người Sán Dìu ở Thái Nguyên. Luận án đã trình bày về nguồn gốc lương thực và thực

4


phẩm truyền thống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, cách chế biến các món ăn, đồ
uống, đồ hút truyền thống, sự tiếp thu các món ăn, đồ uống, đồ hút của các dân tộc
khác, các yếu tố xã hội trong ăn uống, những biến đổi trong tập quán ăn uống của
người Sán Dìu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Cùng một vấn đề trên, tác giả Nguyễn
Thị Quế Loan còn có bài viết Biến đổi trong tập quán ăn uống của người Sán Dìu
tỉnh Thái Nguyên trên Tạp chí Dân tộc học, số 2, trang 13, năm 2008. Lê Minh Chính
cũng có công trình nghiên cứu về người Sán Dìu huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
dưới góc độ y học: Thực trạng thiếu máu ở phụ nữ Sán Dìu trong thời kỳ mang thai
tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên và hiệu quả của biện pháp can thiệp. Trên cơ
sơ đó, các bài viết của Nguyễn Thị Quế Loan và Lê Minh Chính đã cung cấp cho
người đọc những sắc thái văn hóa của tộc người.
2.2.2. Các nghiên cứu về gia đình và hôn nhân của người Sán Dìu ở Tuyên Quang
Năm 2007, Sở Văn hóa - Thông tin Tuyên Quang đã xuất bản cuốn sách Bước
đầu tìm hiểu dân ca dân tộc Tày, Sán Dìu và Cao Lan. Trong cuốn sách này đã đề cập
tới những làn điệu hát Soọng cô của tộc người Sán Dìu trong đời sống sinh hoạt, lao
động sản xuất và những lời hát đối đáp trong lễ cưới để từ đó đưa ra những khuyến
nghị về việc bảo tồn, phát huy các làn điệu dân ca của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Cuốn sách này cũng là một nguồn tư liệu quan trọng để tác giả tham khảo, hoàn thiện
bản luận văn này.
Năm 2016, tác giả Hoàng Phương Mai cũng đã dày công nghiên cứu một khía
cạnh gia đình của người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo, trong luận án tiến sĩ nhân
học Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo; các bài viết đăng trên tạp
chí Dân tộc học: Các chức năng cơ bản của gia đình người Sán Dìu ở huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang (2012), Tạp chí Dân tộc học, Số 5&6; Truyền thống và
những biến đổi trong nghi lễ cưới xin của người Sán Dìu ở tỉnh Tuyên Quang (2013),
Tạp chí Văn hóa học, số 2; Phân loại cấu trúc, quy mô của gia đình người Sán Dìu
(Nghiên cứu tại xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, 2015), Tạp chí

Dân tộc học, Số 1&2. Thông qua bài viết của mình, tác giả đã trình bày về gia đình
truyền thống và những biến đổi của người Sán Dìu ở vùng chân núi Tam Đảo, chỉ rõ
những biến đổi của gia đình người Sán Dìu, đồng thời phân tích những nguyên nhân
dẫn đến biến đổi; làm rõ vai trò của gia đình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
tộc người Sán Dìu.

5


Có thể nói, tất cả các công trình đã đề cập nêu trên là nguồn tư liệu có giá trị
để luận văn này tham khảo, song vấn đề đặt ra là các công trình nêu trên chủ yếu chỉ
là những mô tả dân tộc học, đã có ít nhiều công trình chú ý phân tích để làm rõ đặc
trưng văn hóa của tộc người Sán Dìu, những vấn đề biến đổi đang đặt ra trong bối
cảnh hội nhập và toàn cầu hóa song nghiên cứu về hôn nhân của người Sán Dìu tại
một địa bàn cụ thể là xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang để thấy được
các giá trị văn hóa tộc người, truyền thống và biến đổi; và những vấn đề đặt ra của
hôn nhân đối với Luật Hôn nhân và gia đình; công cuộc xây dựng đời sống nông thôn
mới mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện thì chưa được quan tâm và nghiên cứu
một cách sâu sắc, triệt để.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Giới thiệu tương đối toàn diện, đầy đủ và có hệ thống những đặc điểm và
nghi lễ trong hôn nhân truyền thống và biến đổi của người Sán Dìu xã Ninh Lai,
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang trước và sau khi đất nước ta thực hiện công
cuộc đổi mới (1986), để từ đó thấy được đặc trưng văn hóa của tộc người.
- Nêu lên những biến đổi và một số yếu tố tác động đến sự biến đổi trong hôn
nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bước đầu, đề xuất một số kiến nghị nhằm bảo
tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp trong hôn nhân của người Sán Dìu xã Ninh Lai,
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang trong xây dựng nông thôn mới và xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là hôn nhân của người Sán Dìu ở xã
Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trong đó, các đối tượng cụ thể được
quan tâm hơn là những người trong độ tuổi hôn nhân, những người cao tuổi hiểu biết
rõ về các phong tục, tập quán, nghi lễ trong hôn nhân và các nhà tuyên truyền, thực
hiện và hoạch định chính sách.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu chính của luận văn là tập trung nghiên cứu các vấn đề về
đặc điểm, nghi thức, phong tục, tập quán kiêng kị, nghi lễ truyền thống và hiện nay,
xu hướng biến đổi liên quan đến hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện
Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
6


Về phạm vi thời gian, nghiên cứu tập trung miêu tả hôn nhân của người Sán
Dìu trước, trong và sau thời kỳ đổi mới (1986).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài căn cứ vào những quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng của
Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống các dân tộc. Bên cạnh đó để
phân tích và lí giải rõ hơn về hôn nhân của người Sán Dìu, đề tài hướng tới sử dụng 2
lý thuyết cơ bản là lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa, lý thuyết chức năng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
- Để thực hiện luận văn này, tác giả đã thực hiện 05 cuộc điền dã, tham dự 03
đám cưới tại xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang vào cuối năm 2016
và đầu năm 2017. Tại địa bàn nghiên cứu, tác giả đã cùng ăn, cùng ở và tham dự một số
lễ dạm ngõ, ăn hỏi đến kết thúc một đám cưới của người Sán Dìu. Trong thời gian đó, tác

giả luôn tận dụng thời gian có thể, áp dụng các công cụ như phỏng vấn sâu, thảo luận
nhóm đối với các đối tượng liên quan, trong đó chú trọng đến những người am hiểu về
phong tục tập quán trong hôn nhân, những người làm nghề thầy cúng, các ông mối, bà
mối, những người là cô dâu chú rể, bố mẹ cô dâu chú rể, trưởng các dòng họ, người trong
hai đoàn đưa đón dâu, những người tham dự đám cưới... đồng thời, chụp ảnh về các sự
kiện diễn ra xung quanh hôn lễ của người Sán Dìu.
- Tổng quan, kế thừa các tư liệu sẵn có như: Luận văn đã tham khảo, kế thừa
những công trình nghiên cứu trước, luận án, luận văn, tài liệu của tác giả trong và
ngoài nước, nhất là các cuốn sách, ấn phẩm về hôn nhân nói chung và hôn nhân của
người Sán Dìu nói riêng đã công bố thông qua nguồn tư liệu tham khảo này, tác giả
luận văn có thêm luận cứ để so sánh, đối chiếu nhằm thấy được sự tương đồng và
khác biệt với một số cộng đồng người Mường, Kinh, Thái sống cộng cư. Đồng thời,
tác giả sử dụng nguồn tài liệu của địa phương mà tác giả có thể tiếp cận được trong
quá trình điền dã tại địa bàn nghiên cứu, nhất là các báo cáo của địa phương về điều
kiện địa lý, đặc điểm dân cư, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của xã Ninh Lai, của
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Tác giả thực hiện các cuộc trao đổi trực tiếp
với cán bộ phụ trách về Tư pháp; Văn hóa, những người làm công tác Đảng và công
tác chính quyền, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ... (cấp xã, bản), các cụ già, trưởng họ,
7


những người trong độ tuổi kết hôn, những người am hiểu về phong tục, tập quán và
những kinh nghiệm của họ đối với vấn đề nghiên cứu; đồng nghiệp ở cơ quan.
- Sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu
các nguồn thông tin, số liệu thu thập được để hoàn thành luận văn theo mục tiêu và
nhiệm vụ nghiên cứu đề ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống, chuyên
sâu về các nghi thức, nghi lễ trong hôn nhân của người Sán Dìu xã Ninh Lai, huyện
Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Phản ánh chân thực đời sống văn hóa của dân tộc này

thông qua các nguyên tắc, đặc điểm, các nghi lễ biến đổi trong hôn nhân của người
Sán Dìu ở xã Ninh Lai được luận văn đặc biệt chú trọng và tập trung phân tích. Đồng
thời, trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đạt được luận văn khẳng định những giá trị
tốt đẹp, những mặt hạn chế, lạc hậu trong hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai,
huyện Sơn Dương hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Từ nghiên cứu về nghi thức hôn nhân của người Sán Dìu ở
xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Luận văn sẽ góp phần bổ sung
nhiều tư liệu mới và chỉ ra những yếu tố nội sinh cũng như quá trình giao thoa, tiếp
biến văn hóa trong lĩnh vực hôn nhân của người Sán Dìu.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp là cơ sở khoa học quan trọng giúp
chính quyền địa phương trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của tộc người
Sán Dìu trong bối cảnh CHH - HĐH và xây dựng đời sống nông thôn mới hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, mục lục, luận văn
được cơ cấu gồm 3 chương:
Chương 1 - Cơ sở lý luận và khái quát về địa bàn nghiên cứu.
Chương 2 - Hôn nhân của người Sán Dìu (trước thời kỳ đổi mới 1986).
Chương 3 - Hôn nhân của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai từ đổi mới đến nay Quá trình biến đổi, nguyên nhân và những vấn đề đang đặt ra.

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1. 1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Hôn nhân: Khi nghiên cứu về hôn nhân, Emily A.schultz và Robobert
H.Lavenda (2001) cho rằng: “Hôn nhân là một quá trình xã hội mà mô hình mẫu của
nó là sự kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà, là một sự kiện làm
biến đổi những thành viên của nó, làm thay đổi quan hệ giữa những người thân thuộc

của mỗi bên và những khuôn mẫu xã hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số
quyền lợi và nghĩa vụ đi kèm" [28, tr. 342]. Theo hai tác giả, hôn nhân cũng nên tính
hợp pháp của con cái do người vợ sinh ra và thiết lập các mối quan hệ giữa họ hàng
bên vợ và họ hàng bên chồng [28, tr. 343].
Trong Từ điển tiếng Việt, hôn nhân được định nghĩa là việc kết hôn giữa nam
và nữ [70, tr. 712]. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 của nước ta, tại Điều
8, khẳng định: "Hôn nhân là là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn" [46, tr.
12]. Còn theo Từ điển Nhân học, "Hôn nhân là mối quan hệ gắn bó được thừa nhận
về mặt xã hội giữa một người đàn ông và một người đàn bà nhằm mục đích duy trì
nòi giống một cách hợp pháp lập gia đình hạt nhân mới hoặc tạo ra hộ gia đình mới"
[69, tr. 519]. Do vậy, có thể nói hôn nhân là hiện tượng xã hội, là một trong những
đặc trưng cơ bản của văn hóa tộc người. Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử hôn
nhân đều trải qua những hình thức và tính chất khác nhau.
- Nội hôn tộc người: Tác giả Emily A.Schultz và Robobert H. Lavenda (2001)
cho rằng: "Nội hôn là khi người ta chỉ cho phép lấy người cùng một nhóm xã hội với
mình" [28, tr. 308]. Trong đó, nội hôn tộc người là quy tắc chỉ kết hôn với người
đồng tộc trong nhóm xã hội của mình.
- Ngoại hôn dòng họ: Tác giả Emily A. Schultz và Robobert H. Laenda (2001)
cho rằng: "Ngoại hôn là khi người ta kết hôn với người thuộc ngoài nhóm xã hội với
mình. Và hôn nhân hỗn hợp tộc người là khái niệm dùng để chỉ sự kết hôn giữa hai
người không cùng dân tộc" [28, tr. 308]. Trong đó, ngoại hôn dòng họ là quy tắc kết
hôn ngoài dòng họ được luật tục hay tập quán quy định, khi người ta kết hôn với
người ngoài nhóm xã hội với mình.
- Hôn nhân đa thê: Là khái niệm dùng để chỉ sự kết hôn của khi người đàn ông
cùng một lúc có hơn một vợ cùng một thời điểm, thì mối quan hệ này được gọi là đa thê.
9


- Hôn nhân phụ hệ: Là hình thức hôn nhân ra đời vào giai đoạn thị tộc phụ quyền
phát triển. Trong hôn nhân phụ hệ vai trò của người đàn ông, chủ của gia đình được đề cao.

- Hôn nhân đơn hôn: Là hình thái hôn nhân cá thể, hôn nhân 1 vợ 1 chồng.
Hôn nhân đơn hôn có ở chế độ mẫu hệ và phụ hệ. Trong hôn nhân đơn hôn tính lợi
ích giới được xem là một hình thái tiến bộ của nhân loại. Song, hiện nay trong hình
thái hôn nhân đơn hôn phải tính tới tính bền vững cũng như sự xuất hiện của các yếu
tố mới chẳng hạn như hôn nhân đồng tính [55, tr. 224].
- Hôn nhân 1 vợ 1 chồng: Là phong tục kết hôn chỉ với một người sống thủy
chung một lần, được xác lập khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật Hôn
nhân và Gia đình, theo đó, cá nhân đã kết hôn chỉ được có một vợ hoặc một chồng.
Đồng thời, trong thời kỳ hôn nhân, nam/nữ không được kết hôn hoặc chung sống như
vợ chồng với người khác.
- Nghi lễ hôn nhân: Nghi lễ hôn nhân được hiểu là các nghi lễ, nghi thức diễn ra
theo phong tục, tập quán hoặc quy định của cộng đồng trong mỗi cuộc hôn nhân. Nghi lễ
hôn nhân là một thủ tục để khẳng định cuộc hôn nhân đó là hợp pháp, được gia đình, họ
hàng, dòng tộc, cộng đồng công nhận, nó làm thay đổi địa vị xã hội của con người. Để
tiến tới hôn nhân cũng như khi đã đạt được cuộc hôn nhân thì mỗi người đều phải trải
qua những nghi lễ nhất định theo quy định mang tính tập tục, tập quán của tộc người hay
nhóm tộc người mà mình là thành viên. Nghi lễ hôn nhân nhằm mục đích đảm bảo cho
sự chứng kiến và sự công nhận từ phía cộng đồng, ngoài ra nó còn thực hiện các yếu tố
tâm linh nhằm bảo đảm cho cuộc hôn nhân thuận lợi và bền vững.
- Truyền thống: Thói quen hình thành đã lâu trong cuộc sống và nếp nghĩ,
được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác [70, tr. 1055].
- Biến đổi: Là sự thay đổi thành khác trước hoặc sự thay đổi, điều thay đổi
khác với trước [69, tr. 64]. Hôn nhân thuộc về những giá trị văn hóa phi vật thể, do đó
nó cũng không phải yếu tố bất biến mà luôn luôn vận động, biến đổi thích hợp với
điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn. Trong bối cảnh hội nhập, cư trú đan xen hiện nay, biến
đổi văn hóa của các tộc người, trong đó có hôn nhân là hoàn toàn tất yếu.
- Bản sắc văn hóa tộc người: Bản sắc văn hóa tộc người là tổng thể những yếu
tố văn hóa vật chất và tinh thần mang đặc tính chung và riêng của tộc người, giúp
phân biệt tộc người này với tộc người khác và giữa nhóm địa phương trong cùng tộc
người với nhau. Bản sắc văn hóa tộc người được hình thành lâu dài trong lịch sử gắn

liền với hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường tự nhiên trong đời sống của từng tộc
10


người và chúng có sức sống lâu bền, thậm chí ngay cả khi đời sống của tộc người có
những thay đổi mạnh mẽ. Bản sắc văn hóa của tộc người còn thể hiện bản lĩnh của tộc
người, yếu tố đặc trưng của tộc người. Trong quá trình phát triển, không ít hiện tượng
văn hóa lúc đầu chỉ vay mượn, nhưng dần dần qua thời gian được “dân tộc hoá” “địa
phương hóa”, được sử dụng và tái tạo theo cách riêng của tộc người để ít nhiều mang
bản sắc văn hóa của tộc người đó.
1.1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
- Lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa: Giao lưu, tiếp biến văn hóa là khái niệm
được trường phái nhân học Anglo Saxon đưa ra vào cuối thế kỷ XIX, nhằm chỉ sự tiếp
xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai nền văn hóa khác, hệ quả của sự tiếp xúc này là sự thay
đổi hay biến đổi của một số loại hình văn hóa ở cả hai nền văn hóa đó. Theo đó, giao lưu
tiếp biến văn hóa là quá trình một nền văn hóa thích nghi, chịu ảnh hưởng của nền văn
hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy. Vì thế, sự giao
lưu tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa, đó là sự trao đổi đặc
tính văn hóa nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục. Các thành tố của
nền văn hóa tuy có biến đổi, song mỗi nền văn hóa vẫn giữ tính riêng biệt của mình…
Qua quá trình tiếp xúc và giao lưu giữa hai nền văn hóa thì xã hội yếu hơn thường sẽ bị
xã hội mạnh hơn tác động làm thay đổi [28, tr. 107-108].
Tiếp biến văn hóa còn được hiểu là quá trình biến đổi văn hóa diễn ra do sự
tiếp xúc của hai hệ thống văn hóa riêng rẽ mà kết quả làm cho chúng ngày cành trở
nên giống nhau hơn. Quá trình này luôn có liên quan tới sự tương tác phức tạp với
quá trình biến đổi xã hội [69, tr.12].
Như vậy, lý thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa cho thấy biến đổi là quá trình tất
yếu của mọi sự vật và hiện tượng, trong đó bao gồm cả văn hóa tộc người. Ngày nay,
dưới sự tác động của quá trình phát triển hiện đại hóa, toàn cầu hóa và xu hướng hội
nhập đang diễn ra mạnh mẽ thì sự giao lưu, biến đổi của các tộc người, các nền văn hóa

là không tránh khỏi. Do đó, về mặt phương pháp luận, khi nghiên cứu về văn hóa tộc
người Sán Dìu, trong đó bao gồm các quan niệm, nguyên tắc, hình thức, tập quán và nghi
lễ hôn nhân thì chúng ta không chỉ xem xét như những đối tượng một cách biệt lập hay
trong trạng thái tính, mà phải đặt chúng trong trạng thái động, liên tục biến đổi gắn với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tộc người và của đất nước.
- Thuyết chức năng: Theo Malinowski, văn hóa là cái nhằm thỏa mãn nhu cầu
sinh vật của mình, hơn nữa nó cải tạo môi trường xung quanh và tạo ra môi trường sản
11


xuất. Văn hóa là tổng thể những đáp ứng đối với nhu cầu cơ bản và nhu cầu sản xuất.
Chính vì vậy, bất kì văn hóa nào trong tiến trình phát triển đều tạo ra một hệ thống cân
bằng, ổn định, trong đó mỗi bộ phận của chỉnh thể đều được thực hiện chức năng của nó.
Như vậy, thuyết này nhìn nhận chức năng cơ bản của văn hóa là để thỏa mãn những nhu
cầu của cá nhân về cả vật chất (kế sinh nhai, nhà ở, quần áo...) lẫn tâm lý (nghi lễ, tôn
giáo, truyền thuyết...). Chính vì thế, nếu triệt tiêu một yếu tố nào đó trong văn hóa thì
toàn bộ hệ thống văn hóa tộc người sẽ bị suy thoái và hủy hoại; truyền thống theo cách
nhìn sinh học là hình thức thích nghi của tập thể cộng đồng đối với môi trường của nó;
tiêu diệt truyền thống kéo theo tổ chức xã hội mất đi sẽ dẫn đến cái chết là không tránh
khỏi. Song điểm hạn chế trong thuyết chức năng là không nghiên cứu nguồn gốc, không
giải thích được sự biến đổi văn hóa và lịch sử cụ thể của từng tộc người, chỉ xem tập tục
đó còn giữ lại và thể hiện thế nào, chức năng, tác dụng của nó ra sao mà không cần biết
trước đây nó đã hình thành như thế nào [65, tr.14].
Những yếu tố hợp lý của thuyết chức năng được chúng tôi sử dụng như một công
cụ để xem xét văn hóa tộc người thông qua các lễ nghi hôn nhân của người Sán Dìu. Sử
dụng lý thuyết chức năng khi nghiên cứu về hôn nhân không chỉ đơn giản là chỉ để miêu
tả quá trình thực hành các nghi lễ mà thông qua đó, con người thỏa mãn nhu cầu cá nhân,
cộng đồng, đặc biệt về nhu cầu tâm lý, tình cảm, gắn kết con người với con người.
1.2. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
1.2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên huyện Sơn Dương.

Sơn Dương là một huyện miền núi nằm ở phía Nam của tỉnh Tuyên Quang, có vị
trí địa lý từ 21030' đến 21050' vĩ bắc, từ 105015' đến 105035' kinh đông, từ thành phố
Tuyên Quang đi dọc theo quốc lộ 37 khoảng 30km sẽ đến huyện Sơn Dương. Trước năm
1976 Sơn Dương thuộc tỉnh Tuyên Quang, sau năm 1976, Hà Giang và Tuyên Quang
sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên. Đến năm 1991, tỉnh Hà Tuyên lại tách ra thành 2 tỉnh:
Tuyên Quang và Hà Giang, lúc này Sơn Dương trở thành huyện của tỉnh Tuyên Quang.
Phía bắc giáp huyện Yên Sơn; phía nam và phía tây nam giáp các huyện Đoan Hùng,
Phù Ninh (Phú Thọ), Lập Thạch, Sông Lô (Vĩnh Phúc); phía đông giáp với 2 huyện Đại
Từ và Định Hóa (Thái Nguyên). Huyện lỵ là thị trấn Sơn Dương cách trung tâm thành
phố Tuyên Quang 30km. Tổng diện tích tự nhiên của huyện Sơn Dương là 78.863 ha,
trong đó đất nông nghiệp 19.577 ha chiếm 24,80%, đất lâm nghiệp 39.681ha 50,27%,
còn lại là các loại đất khác 19.605 ha chiếm 24,93% [18, tr.1418].

12


Dân số toàn huyện Sơn Dương là 43.588 hộ, 171.694 nhân khẩu (theo tổng điều
tra dân số và nhà ở năm 2009), người Sán Dìu là 12.367 chiếm 7,2% dân số toàn huyện
(có những xã người Sán Dìu chiếm 60- 80% dân số như xã Ninh Lai, Thiện Kế, ...). Tính
đến năm 2010, huyện Sơn Dương có 01 thị trấn và 32 xã, là nơi sinh sống của các dân
tộc: Kinh, Tày, Sán Dìu, Sán Chay, Nùng, Dao, Hoa, Mông, Mường...
Địa hình huyện Sơn Dương khá phức tạp. Rừng núi chiếm ¾ diện tích toàn
huyện và chi phối điều kiện tự nhiên bởi bốn dãy núi lớn: Hai dãy núi Hồng và Tam
Đảo (phía đông bắc) theo hướng bắc - nam tạo thành ranh giới giữa Sơn Dương và
Thái Nguyên. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,80C, lượng mưa trung bình hàng
năm là 1.627mm.
Sự đa dạng về địa hình đã đem lại cho Sơn Dương sự phong phú về về các loại
động, thực vật. Trước đây trên địa bàn có nhiều loại gỗ quý như đinh, lim, sến, táu;
các loại cây có giá trị như ba kích, thiện niên kiện, sa nhân, trầm hương...; các loại
muông thú quý như hươu, tắc kè, gấu, lợn rừng...; khoáng sản như thiếc, chì, đồng,

quặng, cao lanh... đã được phát hiện và khai thác. Thổ nhưỡng khá màu mỡ, thích hợp
với việc phát triển các loại cây lương thực như lúa, khoai, ngô, sắn...; các loại cây ăn
quả như vải, nhãn... và một số cây lâm nghiệp, công nghiệp có giá trị kinh tế cao như
chè, mía, lạc, đỗ tương, cây nguyên liệu giấy...
Trên địa bàn huyện có 28 dân tộc cư trú, sinh sống xen kẽ tại 33 xã, thị trấn ở
242 thôn bản, mỗi dân tộc lại mang một nét văn hóa đặc sắc riêng, thể hiện ở phong
tục, tập quán, thói quen canh tác như người Sán Dìu, Tày, Dao... ngoài ra mỗi tộc
người còn có kho tàng văn học nghệ thuật dân gian như hát đồng giao, hát giao
duyên, kể chuyện, tục ngữ, thành ngữ, câu đố... phong phú về nội dung và thể loại,
mang sắc thái riêng độc đáo và giàu tính nhân văn, tính giáo dục sâu sắc. Dân tộc Sán
Dìu có điệu hát Soọng cô, dân tộc Sán Chay ngành Cao Lan có làn điệu hát Sình ca...
Bên cạnh kho tàng về văn hóa, nghệ thuật dân gian, mỗi tộc người còn có những món
ăn truyền thống mang tính văn hóa ẩm thực đặc sắc: Cá thính (người Sán Dìu), mắm
cá ruộng, thịt ướp chua, bánh trứng kiến (người Tày)...
Huyện Sơn Dương còn có tiềm năng về du lịch, địa điểm du lịch lịch sử cách
mạng hấp dẫn du khách trong và ngoài tỉnh. Tân Trào vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ chọn là "Thủ đô Khu giải phóng" và "Thủ đô
kháng chiến" [54, tr. 22].

13


Trên địa bàn huyện có 2 tuyến đường quan trọng là quốc lộ 37 từ Thái Nguyên đi
qua Sơn Dương và quốc lộ 2 từ thị xã Vĩnh Yên đi lên Sơn Dương, có thể nói giao thông
đã từng bước phát triển, đường liên thôn, liên xã, đường dân sinh đã đi đến 33/33 xã của
huyện, tạo đà cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và du lịch phát triển.
1.2.2. Khái quát về lịch sử tộc người.
Người Sán Dìu ở Việt Nam vẫn tự gọi dân tộc mình là San Dáo Nhín (Sơn
Dao Nhân) tức là người Sán Dìu. Các dân tộc lân cận dựa vào đặc điểm cư trú,
phương thức canh tác, y phục truyền thồng của tộc người Sán Dìu mà gọi họ bằng

những tên gọi khác nhau như: Trại Đất (người Trại ở nhà đất), Trại Ruộng (người
Trại làm ruộng), Trại Cộc, Mán Quần Cộc (người Mán mặc quần cộc), Mán Váy Xẻ
(người phụ nữ Mán mặc váy xẻ), Slán Dảo, Sán Nhiêu... Tháng 3 năm 1960, Tổng
cục Thống kê Việt Nam ghi nhận tên gọi chính thức của dân tộc trong các văn bản
của Nhà nước là Sán Dìu. Căn cứ vào ngôn ngữ và một số phong tục tập quán, người
Sán Dìu được xếp vào hệ ngôn ngữ Hán - Tạng [68, tr.18].
Đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu người Pháp là Bonifacy cho rằng: Người Sán
Dìu, dưới sự đàn áp của triều đại Mãn Thanh, đã từ tỉnh Quảng Đông di cư vào Việt
Nam theo đường biển và dừng chân tại Hải Dương, sau đó họ tiếp tục chuyển cư đến một
số tỉnh thuộc miền núi phía bắc như Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang [4, tr.19].
Người Sán Dìu ở Tuyên Quang, khi nói về nguồn gốc của dân tộc mình, đồng
bào cho rằng: “Người Sán Dìu vốn là một bộ tộc cư trú bên Quảng Đông (Trung
Quốc) nhưng do bên đó xảy ra các cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc sinh ra cảnh loạn
lạc, nên phải di cư sang Việt Nam từ thế kỷ trước. Trước khi đến Tuyên Quang,
người Sán Dìu đã định cư ở Móng Cái, Bắc Giang, Thái Nguyên và đến Tuyên Quang
được 5, 6 đời” 3. Như vậy, có thể người Sán Dìu đã định cư ở Tuyên Quang khoảng
200 - 300 năm, đồng bào cư trú tập trung ở các xã Ninh Lai, Thiện Kế, Sơn Nam của
huyện Sơn Dương. Nhưng từ khi di cư sang Việt Nam, sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nam qua nhiều thế hệ, người dân Sán Dìu đã ý thức được mình là một trong các dân
tộc thiểu số của Việt Nam. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, tộc người Sán Dìu đã
cùng với các dân tộc anh em khác tạo dựng nhiều truyền thống tốt đẹp nhưng vẫn bảo
lưu được những nét đặc sắc của văn hóa tộc người mình ở Tuyên Quang nói riêng và
cả nước nói chung.
3

Ban Dân tộc Tuyên Quang. Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang. Tuyên Quang, năm 1972.

14



1.2.3. Khái quát về đặc điểm tự nhiên của xã Ninh Lai.
1.2.3.1. Điều kiện tự nhiên.
Xã Ninh Lai nằm ở phía Nam của huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, cách
trung tâm huyện khoảng 35km, cách thành phố Tuyên Quang khoảng 65km. Phía bắc
giáp xã Thiện Kế, phía nam giáp xã Đạo Trù (huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc), phía
đông là dãy núi Tam Đảo giáp với tỉnh Thái Nguyên, phía Tây giáp xã Sơn Nam
(huyện Sơn Dương). Hiện nay, xã Ninh Lai gồm có 20 thôn: Hợp Thịnh, Ninh Lai,
Ninh Phú, Cây Đa 1, Cây Đa 2, Nhật Tân, Hội Tiến, Hội Kế, Hội Tân, Hợp Hòa,
Hoàng Tân 1, Hoàng Tân 2, Ninh Quý, Ấp Mới, Ninh Bình, Ninh Thuận, Ninh Hòa 1,
Ninh Hòa 2, Hoàng La 1, Hoàng La 2.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 2.468 ha, với tổng chiều dài của xã hơn 4km,
chiều rộng hơn 6km. Dân số là 2.061 hộ với 8.493 nhân khẩu, gồm 03 dân tộc anh em
cùng chung sống: Sán Dìu, Kinh, Dao. Trong đó, người Sán Dìu đông nhất chiếm
75% dân số toàn xã [53, tr 5,7,123].
Hệ thống sông, suối của xã khá phong phú. Lớn nhất là sông Phó Đáy từ Sơn
Dương chảy qua ranh giới giữa xã Ninh Lai và xã Sơn Nam. Trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp, sông Phó Đáy là con đường quan trọng nối liền giữa đồng bằng,
trung du với Liên khu X, Liên khu Việt Bắc và tới Trung ương. Ngoài ra, còn có suối
Thai Hang, Lống Chấy và một số con suối nhỏ khác. Đó là những nguồn nước quan
trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc canh tác nông, lâm nghiệp và dân sinh.
1.2.3.2. Một số đặc điểm kinh tế.
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, bằng sức lao động cần cù, nhân dân
các dân tộc trong tỉnh Tuyên Quang nói chung, dân tộc Sán Dìu tại xã Ninh Lai nói
riêng không ngừng cải tạo tự nhiên, biến những đồi cằn, núi hoang, gò bãi, đầm lầy…
thành các tràn ruộng, cánh đồng, ao cá, vườn cây phục vụ đời sống con người. Người
Sán Dìu ở đây sống chủ yếu bằng phương thức trồng trọt, chăn nuôi. Đồng bào khai
phá nương rẫy từ rừng tự nhiên đất màu mỡ, thích hợp với từng loại cây trồng như
lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, vừng, hoa màu các loại và rau xanh... Hệ thống đồi núi thấp
và dải đất bằng là thế mạnh của xã Ninh Lai, thuận lợi cho việc trồng một số loại cây
công nghiệp như mía, cây lấy gỗ và trồng một số giống lúa đặc sản, thơm ngon, đảm

bảo cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp bền vững. Ngoài trồng trọt, đồng bào còn biết
khai thác các nguồn lợi từ thiên nhiên: Trên rừng, dưới sông, suối, trong lòng đất, đó
cũng là những nguồn thu nhập quan trọng. Không chỉ giỏi về chăn nuôi, trồng trọt,
15


người Sán Dìu ở Ninh Lai còn làm nhiều nghề thủ công như khai thác, chế biến nông
lâm sản và dược liệu…
Địa hình đa dạng đã đem đến cho xã Ninh Lai sự phong phú về động, thực vật.
Về động vật có một số muông thú quý như: Hươu, nai, lợn rừng, tắc kè... Về thực vật
có các loại gỗ quý như: Lim, sến, táu... cùng các cây dược liệu qúy như: Ba kích,
thiên niên kiện, trầm hương, sa nhân... và một số cây nguyên liệu như: Nứa, giang,
sặt... Thổ nhưỡng ở Ninh Lai khá màu mỡ. Diện tích đất dùng cho canh tác trồng lúa
nước có 321,6 ha, chiếm 13% diện tích đất tự nhiên, có hệ thống kênh mương tưới
tiêu chủ động từ nguồn dự trữ nước của hồ Hoàng Tân. Ngoài diện tích đất trồng lúa
nước, còn có đất đồi rừng, soi bãi thích hợp sử dụng thích hợp cho việc phát triển cây
lương thực như ngô, khoai, sắn, lạc, đậu đỗ tương và các loại cây công nghiệp, cây
lâm nghiệp và các loại cây ăn quả khác.Các điều kiện tự nhiên của xã đã tạo tiền đề
thuận lợi để cho xã Ninh Lai xây dựng cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp toàn diện.
1.2.3.3. Đời sống xã hội
Hiện nay, tỉnh Tuyên Quang có 22 dân tộc anh em cùng cư trú, trong đó, tại xã
Ninh Lai có 03 dân tộc (Sán Dìu, Kinh, Dao) cùng sinh sống quần tụ chan hoà trong
khối đoàn kết gắn bó keo sơn. Tại xã Ninh Lai qua việc tìm hiểu gia phả và theo
người gia kể lại, Sán Dìu là tộc người cư trú lâu đời nhất ở đây, sống tập trung thành
từng làng, quanh làng trồng tre, chuối, cau và các cây ăn quả khác. Tổ chức làng bản,
dòng họ và gia đình là ba hình thức cơ bản để cố kết cộng đồng. Mỗi hình thức tổ
chức đều có những tập tục riêng để liên kết các thành viên với nhau, đó là cơ sở để
duy trì đặc trưng văn hóa dân tộc Sán Dìu.
Đơn vị cư trú của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai tương đương với một làng của
người Kinh gọi là bản. Bản người Sán Dìu ở xã Ninh Lai thường được phân bố ở

cạnh các sườn núi, các ngọn đồi thấp dọc theo sông, suối. Trước đây, mỗi bản người
Sán Dìu ở xã Ninh Lai có từ 10 đến 15 nóc nhà. Hiện nay các bản lớn hơn và mật độ
cư trú đông hơn có khoảng 30- 40 nóc nhà. Quan hệ xã hội giữa những người cùng
sống trong bản làng người Sán Dìu luôn thân tình, cởi mở, đoàn kết, tương thân tương
ái. Họ sẵn sàng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau mỗi khi gia đình nào có việc lớn như:
Đám cưới, đám tang, dựng nhà... Mối quan hệ tốt đẹp này góp phần nâng cao năng
suất lao động, đồng thời thắt chặt tình thân giữa hàng xóm láng giềng. Điều này được
thể hiện ngay từ cách xưng hô như: Ông bà, cô dì, chú bác, anh chị em, con cháu... và
tự mình xưng hô cũng vậy.
16


Gia đình người Sán Dìu ở Ninh Lai là gia đình nhỏ phụ hệ, địa vị xã hội của
người đàn bà trong gia đình ít được coi trọng như nam giới. Vai trò của người đàn
ông trong gia đình bao giờ cũng là trụ cột quyết định những vấn đề lớn như thờ cúng
tổ tiên, khai phá ruộng nương, làm nhà, tổ chức việc cưới, việc tang; cùng với con trai
lớn thực hiện những công việc nặng nhọc như cày bừa, phát nương rẫy, chế tạo công
cụ, bảo vệ mùa màng, đánh bắt cá... người vợ cùng các con gái đảm nhận các công
việc nội trợ, dệt vải, chăn nuôi gia súc, gia cầm, cấy lúa, tra ngôi, bón phân, làm cỏ,
trồng trọt các loại cây rau và hoa màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm và buôn bán nhỏ...
1.2.3.4. Đời sống văn hóa
- Văn hóa vật chất:
Về nhà ở, tên gọi nhà ở theo tiếng Sán Dìu là "Ốc". Trong truyền thống, người
Sán Dìu thường ở nhà đất, khác với các dân tộc khác như người Tày, Thái, Mường…
ở nhà sàn. Nhà ở của dân tộc Sán Dìu không có những đặc trưng riêng, quy mô nhỏ,
bộ sườn kết cấu đơn giản. Cấu trúc ngôi nhà của người Sán Dìu thường được dựng 3
gian, 2 bên nhô ra phía trước khoảng 80cm, tạo nên một cái hiên nhỏ ở phía trước
gian chính giữa. Mái nhà lợp bằng tranh, rơm rạ… xung quanh còn nhà được che
bằng vách đất4.
Về đình làng, đình làng của người Sán Dìu có hình dáng giống như ngôi nhà

đất của người Sán Dìu. Đình làng được xây dựng lên để phục vụ đời sống tín ngưỡng
của đồng bào, nhưng ngày nay người dân thường tổ chức các buổi sinh hoạt cộng
đồng, sinh hoạt văn hóa tại các nhà văn hóa của thôn, xã.
Về ăn uống, người Sán Dìu thường ăn ba bữa một ngày, lương thực chính của
người Sán Dìu là gạo, gồm có gạo nếp và gạo tẻ, ngoài ra còn có ngô, khoai, sắn.
Thực phẩm dùng trong các bữa ăn gồm các loại rau tự trồng hay do khai thác từ
nguồn lợi tự nhiên. Các món ăn được chế biến đơn giản như: Xào, nấu canh, luộc,
nướng, vùi, hấp, bung, hầm... Đồng bào thường có tập quán dự trữ và để dành thực
phẩm và có nhiều cách bảo quản thực phẩm để dùng trong cả tháng hoặc cả năm như
làm thính, sấy khô, ướp muối. Đồ uống, đồng bào thường uống nước trà, lá vối, các
loại rễ cây rừng phơi khô…
Về trang phục, y phục của người Sán Dìu trước đây được may từ vải sợi bông
hoặc tơ tằm do đồng bào tự dệt. Đồng bào thường nhuộm vải màu chàm để may quần
áo và hầu như không có hoa văn trang trí.
4

Ma Văn Bằng - Người Sán Dìu ở Việt Nam - Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983.

17


- Văn hóa tinh thần:
Người Sán Dìu ở xã Ninh Lai thường hướng tới thế giới tâm linh, họ coi vạn
vật đều có linh hồn. Vì thế, người Sán Dìu ở đây ngoài thờ cúng tiên, ông bà còn thờ
cả các vị thánh, vị thần, Thành Hoàng làng. Điều đó dễ nhận thấy ở ngôi đình làng là
thường có cây đa, có lẽ cũng là phần nào đó giống với khung cảnh của đình làng
người Việt. Các đặc trưng văn hóa của tộc người được thể hiện rõ qua các nghi lễ sinh
đẻ, phong tục cưới hỏi, tang ma và các phong tục tập quán khác của người Sán Dìu.
Từ cuộc sống lao động vất vả, vẻ đẹp đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân đã
hình thành, phát triển phong phú thể hiện qua các làn điệu hát Soọng cô và thực hiện

các nghi lễ đặc sắc, các trò chơi dân gian phong phú như: Kéo co, đi cà kheo, đấu
vật… được diễn ra trong các lễ hội truyền thống và lưu truyền qua nhiều thế hệ.
1.2.3.5. Công tác giáo dục
Năm học 2015 - 2016, trường Tiểu học xã Ninh Lai có 28 lớp học với 769 học
sinh; Trường Trung học cơ sở có 18 lớp với 448 học sinh. Cả 2 trường đều nằm tại
trung tâm xã; năm 2016 đạt chuẩn quốc gia. Tổng cộng toàn xã có 01 trường mầm
non cũng nằm ở trung tâm xã gồm có 20 lớp học, tổng cộng 508 cháu. Nhà trường
thực hiện tốt các cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh", "Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo" và tổ
chức phát động phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực"... Do đó, trong năm học 2015 - 2016, số trẻ được huy động đến trường đã đạt kế
hoạch đề ra; duy trì phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập bậc tiểu học
đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở, thực hiện việc xét hoàn thành chương trình
tiểu học, xét tốt nghiệp trung học cơ sở... (Theo báo cáo tổng kết năm 2015 - 2016 của
UBND xã Ninh Lai).
1.2.3.6. Công tác y tế
Công tác chăm sóc sức khỏe người dân được quan tâm đều đặn, thường xuyên.
Toàn xã Ninh Lai có 01 trạm y tế, các chương trình y tế quốc gia, chương trình tiêm
chủng mở rộng, chương trình uốn ván sơ sinh và thực hiện tốt công tác phòng chống
dịch bệnh, phòng chống sốt rét… được triển khai hàng năm và đều đạt các chỉ tiêu kế
hoạch. Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn
thực phẩm, đảm bảo kịp thời khám và điều trị bệnh cho nhân dân.

18


Tiểu kết chương 1
Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về người Sán Dìu ở Việt
Nam nói chung và người Sán Dìu ở Tuyên Quang nói riêng. Trong đó, đa phần các
nghiên cứu dưới góc độ tổng thể văn hóa của một tộc người, rất ít có chuyên khảo về

một mảng hay một lĩnh vực riêng biệt. Hôn nhân và các nghi lễ trong hôn nhân của
người Sán Dìu cũng đã được một số nhà nghiên cứu đền cập đến nhưng nhìn chung tư
liệu về vấn đề này không nhiều.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng một số khái niệm cơ
bản như: Hôn nhân, nghi lễ, văn hóa tộc người, truyền thống, biến đổi..., một số lý
thuyết nghiên cứu được sử dụng trong luận văn như: Lý thuyết chức năng, lý thuyết
giao lưu tiếp biến văn hóa để phân tích và đánh giá các nội dung của luận văn.
Địa bàn nghiên cứu chính của đề tài luận văn là xã Ninh Lai, với tỷ lệ chiếm
75% dân số của toàn xã, cùng với điều kiện địa lý tự nhiên, khí hậu, đất đai, nơi cư
trú và lịch sử tụ cư của người Sán Dìu đã tạo nên một nền văn hóa đa dạng, phong
phú, mang sắc thái đặc trưng riêng của người Sán Dìu ở xã Ninh Lai, huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, cộng đồng cư
dân xã Ninh Lai đã luôn luôn đoàn kết bên nhau, chống lại sự khắc nghiệt của thiên
nhiên, một lòng kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương đất
nước, chăm lo xây dựng cuộc sống. Do vậy, dù mỗi dân tộc có phong tục, tập quán và
bản sắc văn hóa riêng, nhưng các tộc người ở Ninh Lai đã hình thành cộng đồng đoàn
kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.

19


CHƯƠNG 2
HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở XÃ NINH LAI TRƯỚC ĐỔI MỚI (1986)
2.1. Quan niệm về hôn nhân
Trong quan niệm của người Sán Dìu, hôn nhân còn có vai trò thực hiện chức
năng để duy trì và phát triển giống nòi, thể hiện tình cảm đôi lứa mà còn phản ánh
những giá trị đạo đức tộc người, đồng thời là quyền và nghĩa vụ của từng cá nhân đối
với gia đình cũng như dòng tộc. Do vậy, hôn nhân không chỉ là chuyện cá nhân hay
riêng lẻ trong từng gia đình mà còn là chuyện vui của dòng họ và rộng hơn là cả cộng
đồng. Người Sán Dìu luôn quan niệm rằng: Con người ta sống ở đời có ba việc lớn và

quan trọng nhất: Làm nhà, cưới vợ và báo hiếu với tứ thân phụ mẫu. Vì vậy, việc tiến
hành các lễ cưới hỏi trong hôn nhân cho con cái được đồng bào Sán Dìu rất quan tâm
và tổ chức chu đáo, coi đó là cơ sở đầu tiên tạo nên gia đình bền vững. Tổ chức lễ
cưới không chỉ ngoài mục đích chính thức hóa mối quan hệ giữa hai con người, mà
còn là dịp để họ hàng, anh em bạn bè thân thích, làng xóm láng giềng gần xa đến
chứng kiến, chúc mừng lễ thành hôn, công nhận đôi vợ chồng trẻ và chung vui với gia
chủ. Với người Sán Dìu hôn nhân nếu không được gia đình, anh em họ hàng chấp
thuận, cộng đồng chấp nhận thì cuộc sống lứa đôi sẽ không hạnh phúc may mắn.
Vì vậy, chuyện lấy vợ, gả chồng được người Sán Dìu coi đó là một mốc quan
trọng chứng tỏ chàng trai hay cô gái đã trưởng thành, có quyền tham gia vào các cuộc
hội họp của làng xóm, dòng họ, có quyền đưa ra ý kiến của mình. Và một cuộc hôn
nhân tốt đẹp, một đôi vợ chồng hạnh phúc, theo quan niệm của người Sán Dìu là phải
môn đăng, hộ đối về gia đình, dòng họ, về bản thân đôi nam nữ đó phải khỏe mạnh,
tuổi đời cũng như sự hiểu biết, trình độ phải tương xứng, trong cuộc sống vợ chồng
hàng ngày làm gì cũng phải được bàn bạc, thống nhất và đoàn kết với nhau trong mọi
công việc dù lớn hay nhỏ.
2.2. Nguyên tắc hôn nhân
2.2.1. Cách thức tìm hiểu bạn đời
Người Sán Dìu nói chung và người Sán Dìu ở xã Ninh Lai nói riêng trong xã
hội truyền thống, nam nữ thanh niên được quyền tự do tìm hiểu bạn đời trước khi kết
hôn, thể hiện vai trò tự do lựa họn bạn đời của họ trong hôn nhân.
Theo lời kể của bà Trần Thị Hụt, sinh năm 1945, dân tộc Sán Dìu, ở thôn Ninh
Lai, xã Ninh Lai: Vào những buổi đêm trăng thanh gió mát, các chàng trai, cô gái,
hẹn hò, gặp gỡ nhau trong hội xuân, bên giếng làng, trên thác nước, bên bờ suối, trên
20


nương chè, bên đường làng… hát đối đáp với nhau, qua đó thể hiện tình cảm của
mình qua những lời hát Soọng cô, hát giao duyên… nếu đôi trai gái có tình cảm với
nhau, họ có thể hát với nhau hàng giờ để thể hiện tình cảm của mình.

Với những câu hát ví von đầy hình ảnh, chân tình, mộc mạc, mượn cảnh để
diễn ý, các cô gái, chàng trai Sán Dìu đã nói lên tâm tư, tình cảm quyến luyến của
mình. Khi chính thức yêu nhau, chàng trai thường tặng cho người mình yêu khăn tay,
bộ dây xà tích để làm kỷ niệm mối tình của họ. Chàng trai và cô gái hẹn sẽ đến thăm
làng của nhau và hát đối đáp ban đêm vào một ngày gần nhất. Khi chàng trai và cô
gái thật sự ưng nhau, họ về thưa với bố mẹ để xin ý kiến và tiến hành các thủ tục kết
hôn. Có thể nói, người Sán Dìu là một trong những cộng đồng tộc người thiểu số ở
nước ta có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú và nó được thể hiện rất rõ qua
các câu ca, điệu hát trong các buổi lễ hội, trong hôn nhân.
2.2.2. Quyền quyết định hôn nhân
Trong văn hóa của tộc người Sán Dìu, các bậc làm cha, làm mẹ khá tôn trọng việc
lựa chọn người bạn đời của con cái mình, bởi họ cũng có suy nghĩ rằng: Trai gái người
Sán Dìu chúng tôi yêu nhau, lấy nhau thường rất hạnh phúc vì trải qua quá trình tìm hiểu,
bố mẹ cũng thường tôn trọng sự lựa chọn của con cái. Tuy nhiên, trước thời kì đổi mới
đất nước, cũng có một số trường hợp quyền quyết định hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ
lại do cha mẹ quyết định. Chỉ khi nào được sự đồng ý của cha mẹ và họ hàng hai bên
thì họ mới có thể tiến tới các thủ tục theo quy định để trở thành vợ chồng. Nếu như
không được sự đồng ý của cha mẹ, sự chấp thuận của họ hàng hai bên thì đôi trai gái
đó có yêu nhau đến mấy cũng không được kết hôn. Đó là một số trường hợp ở các gia
đình quyền quý xưa mới thường hay gả ép để môn đăng hộ đối [PVS bà Trần Thị Hụt,
sinh năm 1945, thôn Ninh Phú, xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang].
Vào các ngày lễ hội, hội hè, đình đám, trong các phiên chợ hay trong những
dịp lao động tập thể cũng như trong đám cưới, đám hỏi của người thân, bạn bè, họ
hàng, họ có hẹn hò, gặp gỡ, trao đổi tình cảm. Nhưng đôi trẻ có được cùng nhau kết
tóc xe duyên, nên vợ nên chồng, thành đôi thành lứa hay không chủ yếu lại phụ thuộc
ý muốn và quyền quyết định của bố mẹ. Trước đây, giống như nhiều dân tộc khác
người Sán Dìu cũng phổ biến tình trạng "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", hôn nhân
của con cái vẫn do bố mẹ sắp đặt, quyết định thông qua sự giúp đỡ của các "mòi
công" (ông mối) và "mòi chía" (bà mối) với tư cách là "người thông ngôn", đóng vai
trò trung gian là cầu nối giữa hai bên gia đình nhà trai và nhà gái, "khi sống phải tết,

21


×