Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TL triet hoc anh huong cua Triet hoc Phat Giao den doi song tinh than nguoi VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.29 KB, 28 trang )

1. NỘI DUNG
Chương I: NGUỒN GỐC RA ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO
1.1

Nguồn gốc lịch sử của Phật giáo.

1.2

Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo:

1.2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan.
1.2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan.
1.2.3. Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam.
Chương II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN
ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở VIỆT NAM
2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng.
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lí.
2.3 Ảnh hưởng của Phật giáo qua phong tục tập quán.

- Ảnh hưởng qua tục ăn chay, phóng sanh, bố thí.
- Ảnh hưởng qua tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
- Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi :
- Các phong tục tập quán khác:
+ Tập tục đốt vàng mã:
+ Tập tục coi ngày giờ:
+ Tập tục cúng sao giải hạn:
+ Tập tục xin xăm, bỏi quẻ:
2.4 Ảnh hưởng qua các loại hình văn hóa nghệ thuật.
- Ảnh hưởng qua ca dao, thơ:
- Thể hiện qua nghệ thuật sân khấu:


2.5 Ảnh hưởng của Phật giáo tới thế hệ trẻ.
KẾT LUẬN

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
2. Lý do chọn đề tài.
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người, của
từng cộng đồng xã hội. Trong đó Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo với cái
đích là cứu con người thoát khỏi nỗi khổ. Nó xuất hiện cuối thế kỉ 6 trước công nguyên
ở Ấn Độ. Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo là đề cập đến việc lý giải căn nguyên
của nổi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nổi khổ triền miên đó.
Phật giáo khởi thủy ở Ấn Độ truyền đi khắp các xứ lân cận. Trước hết sang các
nước Trung Á rồi sang Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền Nam Châu
Á. Việt Nam cũng thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy. Mỗi khi Phật giáo vào nước nào
tùy theo phong tục mỗi nước mà có sự khác nhau. Phật giáo ở mổi nước có một tinh
thần và tính cách khác nhau như lịch sử nước ấy.
Phật giáo đến với người Việt Nam từ rất lâu đời, vào khoảng nửa cuối thế kỉ thứ
I. Do bản chất từ bi hỉ xả, đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và bám rễ vững
chắc trên đất nước ta.
Từ khi vào Việt Nam, Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến dời sống tinh thần của
người Việt Nam. Vì các triết lý Phật giáo xuất phát từ tâm tư và nguyện vọng của
người lao động nên số người theo Phật tăng nhanh. Những ảnh hưởng của tư tưởng
Phật giáo ăn sâu vào đời sống của đại đa số người dân Việt Nam không chỉ từ trong
giai đoạn đầu của lịch sử dân tộc mà còn ngay cả cuộc sống ngày nay.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác - Lênin là
tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc
thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít
nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá

bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng
nó một cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau
này. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế
giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu,
đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ
tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho họ
một nhân cách chính, đúng đắn. Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình thành
nhân cách con người tốt hơn chứ không trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây
ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân..
2


Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tương đối được mở rộng, ngoài việc
nghiên cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử... của Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh vực
Triết học, Sử học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc học, Văn học, Nghệ
thuật ... Phật học đã trở thành một trong những khoa học tương đối quan trọng trong
khoa học xã hội, trước mắt có quan hệ mật thiết với xã hội học.
Hơn nữa quá trình, Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với quá
trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy khi nghiên cứu
lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo và những
mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và con người Việt
Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự
phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự ra đời và những tư tưởng cơ bản của Phật
giáo cùng với sự du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài có sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý các phương pháp chính là: Logic và lịch

sử, phân tích và tổng hợp, găn lý luận vơi thực tiễn để thực hiện nhiệm vụ đặt ra.

3


NỘI DUNG
Chương I: NGUỒN GỐC RA ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO

1.3 Nguồn gốc lịch sử của Phật giáo.
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà (hay Buddha). Đạo Phật chính là giáo lý
mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6
trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực á Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền bá của minh,
đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành
rất nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và
văn hoá của rất nhiều quốc gia.
Vào thời cổ đại, Ấn Độ là nước đa thần giáo, chế độ mẫu hệ. Đến thời người
Aryan tràn vào xâm chiếm, xã hội Ấn Độ chia thành bốn giai cấp là Đạo sĩ (Bà La
Môn), Vua Quan(Sát Đế Lợi), Công Nông Thương (Phệ Xá) và Nô lệ (Thủ đà la). Gia
đình chuyển thành phụ hệ. Về tư tưởng tôn giáo dù nhiều đạo giáo vẫn tồn tại nhưng
giáo sĩ Bà la môn truyền bá tư tưởng nhất thần. Triết lý tôn giáo phủ nhận vai trò của
con người đối với cuộc đời và cả thế giới khách quan. Kết quả là sinh ra hai xu hướng
là trốn đời khổ hạnh hoặc xuôi theo dòng đời hưởng lạc thú vật chất. Từ hai mặt xã hội
và tôn giáo, người dân Ấn Độ mất niềm tin, mong ước có một vị cứu tinh ra đời để xóa
bỏ giai cấp bất công và ổn định tư tưởng tôn giáo, đem lại an lạc hạnh phúc cho mọi
người. Trong bối cảnh đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời.
Ngoài bất công xã hội, tôn giáo phức tạp, đất nước Ấn Độ chia thành nhiều nước
nhỏ thường tranh chấp nhau chẳng khác thời chiến quốc bên Trung Quốc, thời 12 sứ
quân ở Việt Nam. Trong các nước đó, quốc gia giàu mạnh nhất là Ca Tỳ La Vệ
(Kapilavastu), phía bắc Trung Ấn, nay là Pipsava, phía nam nước Nepal. Nhà vua trị vì

nước đó tên là Tịnh Phạn (Sudhodana). Vào năm 204 trước Công Nguyên, hoàng hậu
MaDa (Maya) hạ sinh một hoàng tử khôi ngô tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni
(Lumbini) dước gốc cây Ưu Bát La thường gọi là cây Vô Ưu (Asokaa) có hoa với màu
sắc rực rỡ. Thái tử có tên là Tất Đạt Đa lớn lên, Thái tử văn võ song toàn, có vợ là
công chúa Da Du Đà La (Yasodara), con vua Thiện Giác.
Trước bối cảnh xã hội giai cấp, tư tưởng tôn giáo siêu hình, cuộc sống con người
cậy mạnh hiếp yếu… Năm 29 tuổi, Thái Tử đã đến bên dòng A Nô Ma cắt tóc làm nhà
đạo sĩ. Sau thời gian học đạo 6 năm, Thái Tử thấy con người hưởng lạc sẽ bê tha thối
nát; còn tu khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân; chỉ có con đường trung đạo mới mong
4


thành chính quả. Bởi thế, Thái Tử đã bỏ năm anh em ông Kiều Trần Như, dùng bát sữa
của Tu Xá Đề (Sajata) xuống sông Ni Liên tắm rửa rồi lên thiền quán dưới gốc cây Tất
Bát La xứ Ba La Nại. Qua 49 ngày chiến đấu với nội ngoại ma, Thái Tử đã chứng tam
minh là Túc mạng minh, Thiên nhân minh, Lậu tân minh và thành Phật hiệu là Thích
Ca Mâu Ni năm 36 tuổi.
Thành Phật rồi, Đức Phật đến rừng nai xứ Ba La Nai giáo với năm người bạn
cùng tu khổ hạnh ngày trước, cùng nhóm Kiều Trần Như với phái Tứ đế Khắp vùng
Ngũ Hà suốt 45 năm, Đức Phật thuyết pháp trên 300 hội, vào tận hang cùng ngõ hẻm
một cách tận tụy và rộng rãi. Phật đã dừng chân bên vệ đường xâu kim cho một bà già
mù lòa; săn sóc, dọn dẹp ô uế cho người bệnh. Vì từ bi, bình đẳng, đức Phật đã nhận
cái tát của em bé cúng dường, nhận thức ăn dư thừa của một tiện nữ dâng cúng. Với
hiếu đạo, Phật đã đích thân khuân quan tài của vua Tịnh Phạn. Phật đã giáo hóa không
lúc nào ngừng nghỉ. Phật làm tất cả mọi việc dù là rất nhỏ…Tất cả việc làm của Phật
chỉ có mục đích duy nhất là bày trí kiến Phật cho chúng sinh. Phật đến rừng SaLa vào
Niết Bàn lúc nửa đêm dưới ánh trăng rằm tỏa rạng vào năm 80 tuổi. Trên đường Phật
đã chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập được sau khi ngài viên tịch.
Và, tại một nơi thuộc ngoại vi thành phố Cusinagara, Phật đã ra đi. Câu nói cuối cùng
của Phật là: “Hỡi các tì kheo tất cả những gì đang tồn tại rồi sẽ qua đi. Vậy các người

càng không nên ngừng gắng sức!”.

1.4 Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo:
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết thành
văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng kinh điển là:
Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan điểm về thế giới và
con người. Gồm:
- Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả năm
bộ phái Phật giáo như: “Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng kỷ luật của “Đại
chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” ... Sau này còn thêm các Bộ luật của Đại
Thừa như An lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều tập dưới
dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật giáo. Tạng
luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp của Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và nhân sinh
quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
5


1.2.4. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan.
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của 3
phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.
- Vô ngã (không có cái tôi chân thật).
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết học
tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng tạo
và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không
phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của 2 yếu tố là
“Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao
gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ

có tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để hành động)
và thức (sự nhận thức).
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao gồm
sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức), chúng
tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ
là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không
có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
- Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng, không
nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng
và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là biến
đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng
thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi
tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vât, hiện tượng cũng
như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng không phải là sự vật, hiện
tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự
chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ mà chết là điều kiện của một sinh
thành mới.
- Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả).
Bàlamôn Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất
đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều kiện
6


giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành
nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như vậy mà tạo
nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “Nhân-Quả”, nhân là

cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối
tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có quả, nếu không
có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật
giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra con
người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các yếu tố
vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên hệ, vận
động, biến đồi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động , biến đồi nằm trong các
sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mọc mạc chất phát nhưng rất
đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới. Đạo Phật cho
rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ
không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận
là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng. Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là biến
đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng
thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi
tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vât, hiện tượng cũng
như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng không phải là sự vật, hiện
tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự
chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ mà chết là điều kiện của một sinh
thành mới.
1.2.5. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan.
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết
“Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi
mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là:
- Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không
trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của cuộc đời là
vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ là: sinh khổ,

lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán tăng hội
7


(ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không đạt được) và ngũ thụ
uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vậy, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ đau
là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một chân lý khách quan hiện
thực. Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng lọat nhân duyên được tạo tác từ tâm
thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình thái khổ
đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người không
thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái
bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con
người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác. Ngay
cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự khổ của
con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
- Nhân đế (hay Tập đế):
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết tập
lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được
trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi. Đạo
Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị nhân
duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người. 12 nhân
duyên gồm:
+ Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng
suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường thoát
khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế
cũng được gọi là Vô minh.
+ Duyên hành: là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo

ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh và là
nhân cho Thức.
+ Duyên thức: Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả
cho hành và làm nhân cho Danh sắc.
+ Duyên danh sắc: Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của
ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, lấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục xứ.

8


+ Duyên lục xứ (hay lục nhập): Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai,
thân và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục
nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xúc.
+ Duyên xúc: Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên mở rộng
xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho Thụ.
+ Duyên thụ: Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình.
Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.
+ Duyên ái: Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái
làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.
+ Duyên thủ: Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ
làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.
+ Duyên hữu: Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp.
Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh.
+ Duyên sinh: Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm
súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử.
+ Duyên lão tử: Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết.
Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết
nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi vào vòng
luân hồi (khổ não).
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung đều

cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái kia,
cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải thích là 12
yếu tố tích lũy đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và thủ, nghĩa là
tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau
tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy
rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và
chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Chúng ta có
thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay nói cách khác,
tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị
sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm
thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
- Diệt đế:
9


Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt được để
đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ cũng
được tận diệt. muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt trừ vô minh.
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực tướng
của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động tạo nghiệp
nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vô minh, tham
dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy mới hết luân hồi
sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì
những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc
tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó là một
hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp
thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ hải mà tâm lý
của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn,

chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung
quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh
đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.
- Ðạo đế:
Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn
thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một
khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm dứt
luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường chân
chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính đạo bao gồm:
+ Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu
đế và giáo lí vô ngã.
+ Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của
bốn chân lí một cách không sai lầm.
+ Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
+ Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc xấu,
nên làm việc thiện.
+ Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan
đến sát sinh.
+ Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển
nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
10


+ Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh
giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
+ Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô
ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt tới
sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt
sinh tử luân hồi.

Trong tám nẻo đường này thì chính kiến, chính tư duy thuộc về trí tuệ (panna);
chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh thuộc về Định(samadhi). Muốn thực hiện được
“Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm ngăn ngừa những điều
gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm điều thiện có lợi ích cho mình và
cho người. Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện “Ngũ giới” (năm điều răn)
và “Lục độ” (Sáu phép tu).

- “Ngũ giới” gồm:
+ Bất sát: Không sát sinh
+ Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm: Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác, không nói dối.
+ Bất ẩm tửu: Không uống rượu.

- “Lục độ” gồm:
+ Bố thí: Đem công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ
không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính không để cho cái xấu
che lấp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Trong những giai đoạn đầu với vũ trụ quan nhân duyên, đạo Phật đã có những
yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát. Về chính trị xã hội thì đạo Phật là tiếng
nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã ghội bất công, đòi tự do
tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu lên ước vọng giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch
của cuộc đời…Tuy nhiên, trong luận thuyết về nhân sinh và con đường giải thoát, tư
11



tưởng Phật giáo còn hạn chế, mang nặng tính bi quan, yếm thế về cuộc sống, chủ trương
“xuất thế”, “siêu thoát” có tính chất duy tâm, không tưởng về những vấn đề xã hội.
Sau khi Đức Phật tạ thế, các đệ tử của Người đã định kì họp lại. Và tại các cuộc
họp càng về sau, sự bất đồng ý kiến giữa các chư tăng trong việc hiểu và giải thích
kinh Phật ngày càng gay gắt. Hàng ngũ Phật giáo do vậy chia làm hai phái: Phái của
các vị trưởng lão gọi là Thượng Tọa (theravada) theo xu hướng bảo thủ, chủ trương
bám sát kinh điển, giữ nguyên giáo luật; Phật tử chỉ giác ngộ cho bản thân, chỉ thờ Đức
Phật Thích-Ca và chỉ cầu sớm chứng quả La Hán. Phần đông tăng chúng còn lại không
chịu nghe theo, họ khai hội nghị riêng, lập ra phái Đại Chúng (mahasanghika) chủ
trương không câu nệ cố chấp vào kinh điển, khoan dung đại lượng trong việc thực hiện
giáo luật, thu nạp rộng rãi tất cả những ai muốn quy y, giác ngộ, giải thoát cho nhiều
người, thờ Phật, và nhân vật tiêu biểu là Bồ-Tát.
Tại các lần kiến tập thứ 3 - 4, phái Đại Chúng soạn ra kinh sách riêng và tự xưng
là Đại Thừa (mahayana) nghĩa là “cỗ xe lớn” và gọi phái Thượng Tọa là Tiểu Thừa
(hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ”.
Phái Đại Thừa phát triển lên phía Bắc nên được gọi là Bắc Tông, được phổ biến
sang Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên…Còn phái Tiểu Thừa phát triển xuống phía
Nam nên được gọi là Nam Tông, từ trung tâm Srilanca (Tích Lan) phát triển sang các
nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Kinh sách Đại Thừa được viết bằng tiếng
Sanscrit, còn kinh sách Tiểu Thừa được viết bằng tiếng Bali.
1.2.6. Quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam.
Qua lịch sử, Phật giáo từ Ân Độ truyền vào Việt Nam cùng thời với con đường
truyền qua Trung Quốc Theo cuốn “Cổ sử các nước Ân Độ hóa ở vùng Viễn Đông” và
cuốn "Roman coins INDIA- 1964 P.559-683 cùa R. Sewedl". Trong những năm đầu
của công nguyên, các thương nhân hằng hải của Ân Độ qua miền Viễn Đông để buôn
bán, đạo Phật đã theo bằng đường thủy qua Srilanca, Java, Inddônêxia, Ân Độ và
Trung Quốc. Ở những nơi thương nhân ghé lại, nơi thừa tự được lập để nguyện cầu
bình an, may mắn. Từ dó, tư tưởng tôn giáo được thiết lập.
Theo cuốn “Ngô chí” của Trung Quốc vào đời Hán thì có nói: Sĩ Nhiếp trong

buổi loạn lạc đã giữ yên quận Giao Châu, giúp dân an cư lạc nghiệp. Vì thế ông được
người dân bản xứ tôn kính. Đi đâu ông cũng có người Hồ đi theo hai bên đường. Mà
theo Sylvainlevi, Hồ là từ mà người Trung Quốc dùng để chỉ người Trung Á hay Ân
Độ. Như vậy, người Ân Độ, kể cả các nhà sư có nhiều ở Giao Châu lúc bấy giờ. Bản
12


thân Sĩ Nhiếp cũng đã theo đạo Phật, đi đâu cũng có các nhà sư đi theo…Như thế
chứng tỏ là đạo Phật đã do các nhà sư Ân Độ đem vào Việt vào hạ bán thế kỉ thứ 2.
Còn một số sách khác cho thấy rằng: Sinh hoạt Phật giáo đã bắt đầu ở Việt Nam
từ đầu thế kỷ do các nhà buôn đem vào. Rồi thực sự có các nhà sư theo thuyền buôn
đến truyền đạo vào cuối thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3 bằng hai con đường là đường
thủy và đường bộ. Vào các thế kỷ đầu ở Giao Châu, Phật Giáo đã có một trung tâm lớn
tại Luy Lâu - một trong ba trung tâm lớn của đế quốc nhà Hán, trụ sở của quận Giao
Chỉ là Luy Lâu đã sớm trở thành trung tâm quan trọng của Phật giáo. Tại đây với hoạt
động truyền giáo của Khâu-Đà-La (Kasudla) đã xuất hiên truyền thuyết đầu tiên về
Phật giáo Việt Nam với Thạch Quang Phật và Mang Nương Phật Mẫu. Từ đây những
nhà sư Ấn Độ như Ma-ha-kỳ-vực (Marajivaka), Khâu Đà La (Kasudara), Khương Tăng
Hội (K’ang-seng-houei), Chi Cương Lương Lâu (Kalaruci), Mâu Bác (meou-pô).
Do Phật giáo được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam nên ngay từ đầu
công nguyên từ Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng phạn đã được phiên âm sang tiếng Việt
là Bụt. Phật giáo Giao Châu lúc này mang màu sắc Tiểu Thừa Nam Tông, và trong mắt
người Việt nông nghiệp, hình tượng Bụt được hình dung như vị thần dân dã toàn năng
có mặt khắp nơi, luôn sẵn sàng xuất hiện để cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu. Sau
này, sang thế kỷ thứ 4-5 có thêm luồng ảnh hưởng của Phật Giáo Đại Thừa Bắc Tông
từ Trung Hoa tràn vào không bao lâu, nó đã lấn át và thay thế luồng Nam Tông có từ
trước đó. Khi ấy từ Buddha tiếng Phạn vào tiếng Hán được phiên âm thành Phật ngang
đà, Phật đồ, vào tiếng Việt rút gọn thành Phật. Và từ đây từ Phật dần dần thay thế từ Bụt.
Từ Trung Hoa, có ba tông phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam, đó là: Thiền
tông, Tịnh Độ tông và Mật tông. Việt Nam là xứ nông nghiệp, thiên nhiên ít được ưu

đãi, nhiều thiên tai bão lụt, con người tin nhiều vào thần thánh, phép lạ,…bởi thế Mật
giáo rất dễ du nhập. Các sư như Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La, Chi Cương Lương làm
nhiều phép thần thông lạ thường được dân Việt Nam ưa thích.
Mật tông là tông phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí như dùng linh
thù, mật chú, ấn quyết… để mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thoát. Ở Việt Nam Mật
tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa vào dòng tín
ngưỡng dân gian.
Tịnh Độ tông, với pháp môn niệm Phật cầu Vãng sinh, lớp bình dân dễ dàng tin
theo. Phép tu chỉ có chuyện niệm Phật A Di Đà. Dù chưa dứt hết nghiệp, sau khi chết,
người chuyên niệm Phật vẫn được Vãng sinh cực lạc.
13


Thiền tông là pháp môn thấy dễ mà khó, thiền không khéo sẽ bị tẩu hỏa nhập ma,
điên loạn, mất bình thường. Tuy thế, người Việt Nam vẫn tiếp nhận và cũng khá phổ
biến trong các nhà sư và trí thức.
Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống
của dân tộc ta, do đó, đã tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ pháp”
kết hợp việc thờ Phật với thờ các vị thần tự nhiên như Mây - Mưa - Sấm - Chớp và thờ
đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là “tiền Phật hậu Thần” với việc đua vào
chùa các thần, thánh, các thành hoàng thổ địa và các anh hùng dân tộc. Có chùa thờ cả
Bác Hồ ở Hậu tổ và hầu như không một chùa nào là không để bia hậu, bát nhang cho
các linh hồn, vong hồn đã mất. Vào Việt Nam, đức Phật được đồng nhất với những vị
thần tín ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi tai họa. Hơn
nữa vì muốn giữ cho Phật giáo ở mãi bên mình, người Việt Nam nhiều khi phá cả giới
luật. Người Việt Nam giao tiếp theo nguyên tắc” xưng khiêm hô nhường” nên các vị
Bồ tát, hòa thượng mà người Việt Nam yêu quý đều được tôn làm Phật hết: Phật bà
Quan Âm (vốn là Bồ tát), Phật Di-Lặc (vốn là hòa thượng). Còn tượng Phật Việt Nam
vốn mang dáng dấp hiền hòa của người Việt Nam.
Bên cạnh đó, Phật giáo Việt Nam lại tổng hợp các tông phái với nhau nên không

có tông phái Phật giáo nào ở Việt Nam là thuần khiết. Tuy Thiền tông chủ trương bất
lập ngôn, song ở Việt Nam, chính các thiền sư đã để lại khá nhiều trước tác giá trị.
Phật giáo Việt Nam cũng dung hợp chặc chẽ con đường giải thoát bằng tha lực,
phối hợp Thiền tông với tịnh độ tông (niệm Phật A di đà và cầu Bồ tát) Chùa miền Bắc
là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng chục pho tượng Phật, Bồ-tát, La-hán
của các tông phái khác nhau. Còn ở phía Nam, Đại Thừa và Tiểu Thừa kết hợp mật
thiết với nhau trong đó: nhiều chùa mang hình thức Tiểu Thừa (thờ Phật Thích-ca. Việc
mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại Thừa; bên cạnh tượng Phật Thích-ca lớn vẫn
có nhiều tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng vẫn sử dụng đồ nâu và đồ lam.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn kết hợp chặt chẽ giữa việc đạo với việc đời.
Tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng ở Việt Nam, Phật giáo lại rất nhập thế: các cao
tăng được nhà Nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng. Sự gắn bó
giữa đạo với đời mật thiết tới mức không chỉ có các nhà sư tham gia vào chính sự, mà
các thời Lý- Trần còn khá nhiều vua quan quý tộc đi tu( thiền phái Thảo Đường và
Trúc Lâm Yên Tử). Với truyền thống gắn bó giữa đạo với đời, đầu thế kỉ 20, Phật tử
Việt Nam hăng hái tham gia vào các hoặc động của xã hội như cuộc vận động đơi ân
xá cho cụ Phan Bội Châu và đám tan cụ Phan Châu Trinh. Thời Ngô Đình Diệm và
14


Nguyễn Văn Thiệu, Phật tử miền Nam đã tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh
đòi hòa bình và độc lập, nổi bật là sự kiện Phật tử xuống đường đấu tranh chống lại
nền độc tài chuyên chế của gia đình họ Ngô năm 1963. Đặc biệt là sự kiện hòa thượng
Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chế độ độc tài đó. Trong các cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một bộ phận không nhỏ các tăng ni Phật tử đã
tạm lột bỏ lớp áo cà sa để cùng nhân dân cả nước cầm súng đánh giặc cứu nước.

15



Chương II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở VIỆT NAM
Như đã trình bày ở các phần trước, Phật giáo là một học thuyết về sự giải thoát,
toàn bộ học thuyết hướng về con người tư tưởng giải thoát. Đồng thời, nó cũng là học
thuyết về đạo đức, đề cập đến vấn đề bình đẳng, bác ái. Vì vậy, ngay sau khi được các
nhà sư Ấn Độ đưa vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng được nhân dân ta tiếp nhận
một cách tự nhiên và phát triển. Do thâm nhập một cách hòa bình, ngay từ thời Bắc
thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng khắp.
Cho đến nay Phật giáo vẫn là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất ở Việt Nam.
Đạo Phật thân thiết với người Việt Nam đến nỗi dường như một người Việt Nam nếu
không theo một tôn giáo nào khác, ắt là theo Phật hoặc chí ít là có cảm tình với đạo
Phật. Điều đó cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của nhân
dân ta là rất mạnh mẽ.
Với truyền thống gắn bó đạo với đời, ngay từ thời Đinh - Tiền Lê, Lý, Trần… các
sư đều tham gia chính sự. Ngoài ra, vào các thời Lý- Trần, còn khá nhiều vua quan quý
tộc đi tu như vua Trần Nhân Tông…
2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng.
Tư tưởng hay đạo lí của Phật giáo là đạo lí Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát
chánh Đạo. Ba đạo lí này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo nguyên thủy
cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng người dân Việt. Về giáo lí nghiệp báo hay
nghiệp nhân quả báo của đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lí này đã
trở thành nếp sống tín ngưỡng đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người
ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà còn
ảnh hưởng đến giới trí thức. Vì thế, giáo lí nghiệp báo luân hồi đã in dấu ấn đậm nét
trong văn chương bình dân, văn chương chữ Hán, chữ Nôm từ xưa cho đến nay để dẫn
dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lí nhân quả nghiệp báo mà
hành động sao cho tốt đẹp, đem lại hòa bình an vui cho mọi người. Mỗi người dân Việt
Nam đều biết câu "ác giả ác báo". Mặt khác, họ hiểu rằng nghiệp nhân quả không phải
là định nghiệp mà có thể làm thay đởi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác thành
thiện. Từ những hành động thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo

cho ta một cuộc sống yên vui.
2.2 Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lí.
Đạo lí ảnh hưởng nhất là giáo lí từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo
đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn người Việt Nam. Tinh thần thương
16


người như thể thương thân này đã biến thành ca dao, tục ngữ rất phổ biến trong quần
chúng Việt Nam như: “lá lành đùm lá rách”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người
trong một nước phải thương nhau cùng”. Đó là những câu ca dao tục ngữ mà bất cứ
người Việt Nam nào cũng thấm nhuần và thuộc lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của
người Việt Nam.
Ngoài đạọ lí Từ Bi, người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của Đạo lí Tứ Ân, gồm:
ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Trong đó ân cha mẹ là nổi bật
và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lí người Việt bởi vì đạo Phật đặc biệt
chú trọng đến chữ hiếu, như thế là, phù hợp với đạo lí truyền thống của dân tộc Việt.
Đạo lí Tứ Ân còn có chung động cơ thúc đẩy từ bi hỉ xa khiến con người ta sống hài
hòa với xã hội, thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc dích thực và bền vững
2.3 Ảnh hưởng của Phật giáo qua phong tục tập quán.

- Ảnh hưởng qua tục ăn chay, phóng sanh, bố thí.
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam rất chăm lo
đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày sóc,
cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền
định, giữ giới, làm việc thiện. Mặt khác nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của
họ như cầu siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui
định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của nếp sống văn
hóa này. Nó xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Đạo Phật không muốn sát sinh
mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Số ngày ăn chay tuy có khác nhau trong từng

tháng, nhưng cùng giống nhau ở quan điểm từ bi hỷ xả của Phật giáo. Do hiệu quả của
việc ăn chay trong việc tăng cường sức khỏe, chống bệnh tật, nên người Việt Nam dù
là Phật tử hay không đều thích ăn chay. Ăn chay và thờ Phật là hai việc đi đôi với nhau
của người Việt Nam. Dù không phải là Phật Tử cũng dùng tượng Phật hay tranh ảnh về
Phật giáo để trang trí cho đẹp và nghiêm trang.
Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ lâu đời.
Tục này xuất phát từ lòng kính yêu đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên và được xem là một
dạng tín ngưỡng quan trọng của người Việt Nam. Vào những ngày rằm, mùng 1 những
gia đình không theo đạo Phật cũng mua hoa quả thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng sinh đã ăn
sâu vào đời sống tinh thần. Đến ngày rằm và mùng 1, người Việt thường mua chim,
cá… để đem về chùa cầu nguyện rồi đi phóng sinh. Người dân cũng thích làm phước
17


bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại
những biểu hiện mang tính chất hình thức trên ngày càng bị thu hẹp.
Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ đồng bào gặp thiên tai,
hoạn nạn, hoàn cảnh sống khó khăn đúng với truyền thống đạo lí của dân tộc: lá lành
đùm lá rách.

- Ảnh hưởng qua tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn đã trở thành một nét phong tục
lâu dời “đi chùa lễ Phật” của tổ tiên. Những ngày lễ hội lớn trong năm bắt đầu từ Phật
giáo như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lể tắm Phật…thực sự đã trở thành ngày hội văn hóa
của người dân. Những ngày lễ lớn như trên của Phật giáo đã là chất keo gắn người dân
với nhau và ảnh hưởng ngày càng sâu đậm trong nhân dân.
Có thể nói phong tục tập quán ở Việt Nam trong qua trình tồn tại và phát triển đã
chịu tác động của trào lưu văn hóa khác nhau, nhất là từ Trung Quốc, trong đó Phật
giáo đã dự một phần quan trọng vào việc định hình và duy trì không ít các tập tục dân

gian vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nhưng không phải tất cả các tập tục có sự ảnh
hưởng của Phật giáo đề là tốt cả mà trong đó có tập tục cần phải chắt lọc lại như tập
tục xin xăm bói quẻ, cúng sao hạn, coi ngày giờ, đốt vàng mã để phù hợp với chính
pháp. Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời hiện đại.

- Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi :
Đây cũng là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt. Về ma chay, theo
phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước đây rất là phiền phức và hao tốn.
Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn ra đơn giản và trang nghiêm
hơn. Khi trong gia đình (theo Đạo Phật) có người qua đời, thân quyến đến chùa thỉnh
chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi là làm ma chay).
Ở những gia đình không theo Đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ mến
chuộng Đạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương linh và tổ
chức tang lễ giống như những tín đồ theo Đạo Phật. Nhìn chung, tập tục ma chay tại
Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của Phật giáo.
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so với Thiên
Chúa giáo, khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đôi bạn trẻ
theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù hộ cho mối
lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày cưới hỏi, họ được hướng dẫn
về chùa để chư tăng làm lễ "hằng thuận quy y" trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc
18


lành ngắn gọn và được chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để
làm kim chỉ nam cho cuộc sống mới.
Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo đã được kể
trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ biến và có ít nhiều liên
quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận.

- Các phong tục tập quán khác:

+ Tập tục đốt vàng mã:
Đây là tập tục rất phổ biến ở Việt Nam mà người Việt đã tiếp nhận từ Phật giáo
Trung Quốc. Nhiều người ngộ nhận rằng tập tục này xuất gia từ quan điểm nhân quả
luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã tồn tại trong Phật giáo từ xưa cho tới ngày nay.
Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng tánh thì đời sau sẽ tái sinh trở lại làm
người hạnh phúc, sung sướng giàu sang hoặc vãng sanh về thế giới cực lạc. Còn nếu
kiếp này ăn ở tệ bạc, làm nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống địa ngục cõi âm ti
chịu nhiều đau khổ. Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ cúng, cầu siêu thì ở nơi
địa ngục bị oan ức, đói lạnh, không thể siêu thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên
những người thân ở nơi dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để người thân của
mình dưới cõi âm ti bớt đi phần tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát kiếp. Sau khi cúng
giỗ, ngày vọng người chết sẽ nhận được những vật dụng, tiền bạc đã cúng và đốt đó.
Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc để cúng thường có hình ảnh (Phật Di Lặc hay
Bồ Tát Quan Âm) hoặc chữ nghĩa (chú vãng sanh, chữ triện) có yếu tố của Phật giáo
với ý đồ mong sự cứu độ của Chư Phật đối với người đã khuất.
Ở đây xin nói rõ, tập tục đốt vàng mã là một "hủ tục" mang tính mê tín dị đoan
và vô lý, người Phật tử chân chính không bao giờ chấp nhận. Chính trên thế gian này,
đồng tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được chấp nhận, huống hồ từ
nhân gian, đốt gởi xuống âm phủ xài, là chuyện không có cơ sở để tin cậy được. Theo
Phật dạy chúng sanh tùy nghiệp thiện ác theo đó mà thác sanh nơi cõi lành, cõi dữ.
Thân nhân chúng ta chết cũng theo nghiệp thiện ác mà thọ sanh vào sáu cõi chứ không
ngồi chờ việc đốt vàng mã của người thân, vừa trái với đạo lý, vừa phí tổn tiền bạc vô
ích. Theo Phật giáo thì có rất nhiều cách để thể hiện lòng thương và lòng chung thủy
của người sống đối với người chết bằng cách khi có người sắp chết, thân quyến phải
phát tâm bố thí, cúng dường, phóng sanh và điều quan trọng là phải thông tin cho
người đó biết việc làm của gia đình mà hướng tâm đến con người thiện, nhờ đó mà họ
sẽ thọ sanh vào cảnh giới an lành.
+ Tập tục coi ngày giờ :
19



Đây là một tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt nói riêng và cả Châu Á nói
chung. Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà cửa, đám chết, đám
cưới, xuất hành đầu năm... người ta thường về chùa để nhờ các thầy coi giúp giùm
ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Thông thường người ta hay tránh ba ngày:
mùng 05, 14, 23, họ cho ba ngày này là xui xẻo, là bất hạnh, cần phải tránh.
Theo cái nhìn của Phật giáo thì đây cũng là một loại hình mê tín, người Phật tử
không nên chạy theo. Đức Phật dạy rằng với người làm điều lành, ngày nào cũng là
ngày tốt với người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày lành. Năm tháng đối với người
làm thiện đều là ngày tốt cả, gieo nhân thiện thì sẽ gặt quả lành. Giáo lý nhân quả của
Đạo Phật là cán cân công bằng với khổ đau và hạnh phúc của con người chứ không
phải là sự phân định của hên xui.
+ Tập tục cúng sao giải hạn :
Tập tục này rất phổ biến và ăn sâu vào tập quán của người Việt và lại có sự tham
gia của Phật giáo. Nguyên nhân cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, sau truyền qua Việt
Nam rồi vào trong Phật giáo. Thời xưa ta có Tam giáo đồng nguyên; Phật, Lão và
Khổng giáo, đồng quy về mặt nguồn. Chủ trương như nhau, cùng một thiện chí để đóng
góp cho xã hội, phục hưng đạo đức, đưa đời sống của con người đến ấm no hạnh phúc.
Trong bối cảnh Tam giáo đó, các thầy Phật giáo phải linh động, phải tìm hiểu,
học hỏi những cái lưu truyền của đạo bạn để có một cái nhìn hòa đồng, cảm thông và
nhất là để kéo Phật tử trở về với bói quẻ, xem tướng, thì các thầy cũng cúng sao, bói
quẻm xin xăm, để cho người Phật tử quay về chùa, thay vì để họ lạy thần linh thì lạy
Phật tốt hơn. Bước thứ hai là giảng đạo lý nhân quả, Bát chánh đạo, tạo chánh kiến cho
người Phật tử xóa bỏ tà kiến trước đây của họ. Trong phương tiện này đã có một số
người lạm dụng và dần dà nó trở thành một loại hình sinh hoạt của Phật giáo. Hiểu rõ
điều này, người Phật tử nên loại bỏ tập tục mê tín này.
+ Tập tục xin xăm, bỏi quẻ :
Xin xăm bói quẻ là một việc cầu may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, một loại
hình sinh hoạt khá rầm rộ tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm mới hoặc các ngày
lễ lớn. Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường có đi đôi với việc xin xăm.

Người xin xăm trước hết đến lạy Phật rồi sang bàn thờ Quan Thánh, khấn nguyện xin
một quẻ xăm, rồi họ lắc ống xăm có 100 thẻ để lấy một thẻ rớt ra, sau đó họ cầm quẻ
xăm đến nhờ thầy trù trì giải đáp giùm vận mạng của mình. Mỗi thẻ ứng với một lá
xăm có ghi sẵn trong những điều tiên đoán về công việc làm ăn, học tập, hôn nhân, gia
đình... của mỗi người bốc được quẻ xăm đó. Đây là một tập tục không lành mạnh do
20


tin tưởng vào sự may rủi của số phận đã được sắp đặt, an bài từ trước. Như sách xưa co
câu "phước chí tâm linh, hoa lai thần ám". Nghĩa là người gặp lúc phước đến thì giở
quẻ ra đều tốt, khi họa lại thi rút lá xăm nào cũng xấu. Thế là tốt xấu tại mình, không
phải tại xăm quẻ. Người Phật tử chân chính cần phải loại bỏ những loại hình mê tín này.
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã chịu
nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung Quốc. Trong đó Phật
giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không ít các tập tục dân
gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy nhiên, không phải các tập
tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt tất cả, mà trong đó có tập tục cần phải chắc
lọc lại để phù hợp với đời sống hiện đại. Bên cạnh sự ảnh hưởng trong các phong tục
tập quán của dân tộc. Phật giáo còn ảnh hưởng qua các loại hình nghệ thuật như, nghệ
thuật tạo hình, nghệ thuật sân khấu cải lương...
2.4 Ảnh hưởng qua các loại hình văn hóa nghệ thuật.
- Ảnh hưởng qua ca dao, thơ:
Tư tưởng đạo lý Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca dao
dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên rằn dạy bảo với mục
đích xây dựng cuộc sống yên vui, phù hợp với truyền thống đạo lý dân tộc Việt Nam.
Quan niệm đạo Phật là đạo hiếu, lời dạy của Phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là
những cảm giác suy tư in đậm trong lòng người dân đã được thể qua ca dao dân ca ví dụ:
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con"
- Thể hiện qua nghệ thuật sân khấu:
Tính triết lý nhân quả báo ứng của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong các
bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý Phương Đông và nếp sống truyền thống của
dân tộc, giáo lý “nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác”… được các soạn giả thể hiện
trong các vở cải lương…. Ví dụ: “Quan Âm Thị Kính”. Ngoài ra cón có các vở chịu
ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng Phật giáo như các vở: “Phạm Công Cúc Hoa”, “Kim
Vân Kiều”, "Lưu Bình Dương Lễ", … do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi hỉ xả của Phật
giáo nên các vở tuồng, cải lương ở phần kết thúc luôn luôn có hậu.
Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm
chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn nghèo
nàn, lạc hậu vẫn cần đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh
21


chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ
trước mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này
nước ta cần có những người có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng
mở rộng sáng tạo. Những phẩm chất này phần lớn trái với giáo lý nhà Phật, vì tham
vọng trái với cấm dục, vô dục, ly dục của Nhà Phật ... Vì vậy việc cần làm hiện nay là
phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam như thế
nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân, làm cho xã hội
ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.
2.5 Ảnh hưởng của Phật giáo tới thế hệ trẻ.
Ngày nay ở nước ta Phật giáo không còn ở vị trí chính thống Nhà trường ở các
cấp học phổ thông không có chương trình giảng dạy lịch sử, triết lý, đạo đức Phật giáo
một cách hệ thống. Số gia đình Phật tử cũng không còn đông như trước đây. Sinh viên
các trường Đại học chỉ nhận được rất ít kiến thức sơ bộ về Phật giáo thông qua bộ môn
“lịch sử triết học Phương Đông”, trừ những khoa chuyên ngành Triết học. Vì thế phần
lớn những hiểu biết của chúng ta về Phật giáo trước hết là chịu ảnh hưởng tự nhiên của

gia đình, sau đó là từ bạn bè, thầy cô và những mối quan hệ xã hội khác. Trong đó ảnh
hưởng của gia đình có tác động lớn lên mỗi chúng ta. Nếu trong mỗi gia đình mọi
người đều theo đạo Phật hoặc không theo một tôn giáo nào nhưng vẫn giữ tập tục quan
trọng đi lễ chùa vào những ngày âm quan trọng như ngày Tết, lễ, rằm ... Người già
thường nói chuyện với con cháu về Đức Phật, Bồ Tát, về đạo lý làm người dựa vào các
giáo lý Phật giáo. Những suy nghĩ quan niệm này có thể phai nhạt, thậm chí đi ngược
lại khi ta gặp một trào lưu tư tưởng mới, đem lại một thế giới quan mới từ trong môi
trường gia đình chúng ta phần nào đó chịu ảnh hưởng của đạo Phật nhưng không sâu
sắc như các triều đại trước và mục đích tìm đến Đạo Phật không còn mang tính hướng
đạo chân chính như trước kia nữa. Do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết do sự xâm
nhập của nhiều trào lưu tư tưởng, học thuyết Phương Tây vào nước ta cách đây vài ba
thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lý luận Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản của giai cấp
công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo tiền đề xây dựng hệ thống tư
tưởng, nguyên tắc hành động cho phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam, lấy
đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đảng ta rất chú trọng việc
truyền bá học thuyết này cho quần chúng nhân dân nhất là đối tượng thanh thiếu niên,
những người chủ tương lai của đất nước. Chính vì vậy, thanh thiếu niên, chúng ta ngày
nay khi rời ghế nhà trường được trang bị không những kiến thức để làm việc mà còn cả
kiến thức về lý luận chính trị. Điều này giúp ta nhận thức được về cơ bản giữa mô hình
22


lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản là: Một bên là duy tâm, một
bên duy vật. Một bên diệt dục triệt để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội
lỗi, bên kia thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao động
với năng suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi nhằm cải tạo thế giới, coi đó
là tiêu chuẩn đánh giá tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một bên hứa hẹn một
mô hình niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ bi bác ái như nhau, không
còn bị ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên kia khẳng định mô hình lý tưởng
cho mọi người lao động, coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải phương tiện

sống, lao động không còn là nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn
thiện cả bản thân và hoàn thiện cả xã hội.
Đấy là những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Nó phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại, của xã hội. Do đó, nó nhanh chóng được thanh niên ủng hộ,
tiếp thu. Do có một số quan điểm ngược lại nên tất yếu Phật giáo không còn giữ một
vai trò như trước đây nữa.
Mặt khác, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong
đời sống con người đều có bước nhảy vọt. Xu thế toàn cầu hoá thể hiện ngày càng rõ
nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức năng động, nhanh nhạy nắm bắt vấn
đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con người trở nên không có
tham vọng tiến thân, bằng lòng với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu
tranh, hướng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức
Phật giáo đã tách con người ra khỏi điều kiện thực tiễn của con người xã hội, làm cho
con người có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới. Đạo đức xuất thể
của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế ngự thiên nhiên, bắt
nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của Phật giáo không phải cải tạo lại
điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ
bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục ... Đạo đức nhà Phật bị mở rộng mất giá trị nhân đạo nhờ
chính thái độ yếu thế này, khi những nhu cầu về thể xác bị coi là trần tục, kém đạo đức.
Nhất là trong cuộc sống ngày nay, khi mà con người đã đạt được một trình độ nhất
định, quan niệm trên càng không thể chấp nhận được. Do đó, ảnh hưởng của Phật giáo
càng xa rời thế hệ trẻ.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày ngay những người đi chùa hầu hết không có
đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự giác, tích
cực trong xã hội và gia đình. Phật giáo bác học cũng bị mai một nhiều, không còn phát
huy vai trò hướng đạo. Các cao tăng chưa ý thức được hết vai trò của họ trong việc xây
23


dựng hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam. Chẳng hạn các buổi giảng kinh đàm

đạo các buổi lễ trên chùa chưa được tổ chức theo tinh thần khai thác những tinh thuý
của đạo lý Phật giáo, mà phần nhiều theo thị hiếu: Cầu an, giải hạn, cầu lộc ... của giới
bình dân. Phật giáo bình dân cũng sa sút. Người dân lên chùa thường quá chú trọng
đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn
giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. Họ đến
chùa cúng bái, thắp hương vái xin Phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì cho họ đạt được
mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là chuyện học hành, tình cảm,
sức khoẻ, vật chất ... hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi chơi, giải trí với
bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng, nói năng. Số lượng
học sinh, sinh viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi chùa gần đây càng đông,
song xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn quá ít so với những mong
muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng
nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện - ác. Như vậy mục đích đến chùa của người
dân đã sai lầm, tầm thường hoá so với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con
người ta vào.
Nhưng ta cũng có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh hưởng ít
nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Như ở các trường phổ thông, các tổ
chức đoàn, đội luôn phát động các phong trào nhân đạo như “Lá lành đùm lá rách”.,
“quỹ giúp bạn nghèo vượt khó”, “quỹ viên gạch hồng” ... Chính vì vậy ngay từ nhỏ các
em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở
của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con
người Việt Nam. Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những
hoạt động thiết thực hơn. Việc giúp đỡ người khác không phải hạn chế ở việc xin bố
mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm
với những con người gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền
thống từ bi, bác ái đã giúp chúng ta, những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà
trường có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt
động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập văn
hoá cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo ... Hình ảnh hàng đoàn
thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây

dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả
những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo
đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của
24


ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp
đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể
phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy. Và ta càng phải nhắc
đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu
cực. Trong khi có những sinh viên còn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống
hiến cho đất nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn
tiền bạc của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các quán Bar, sàn nhảy
những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những
học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết
bao ông bố bà mẹ cay đắng nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp
luật. Thế hệ trẻ ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi
những thứ ăn chơi sau đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết việc
giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những phương
pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà Phật trong thế hệ
trẻ. Đó thực sự là công việc cần thiết cần làm ngay.

25


×