Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.05 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ NAM THANH

CHÍNH SÁCH PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ NAM THANH

CHÍNH SÁCH PHÂN BỔ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công
: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ XUÂN SANG

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu
khoa học của bản thân. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực và chưa từng được công bố. Tác giả xin chịu trách nhiệm về công trình nghiên
cứu của mình.
Học viên

Lê Nam Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH .............................................5
1.1. Cơ sở lý luận về chính sách..................................................................................5
1.2. Phân bổ ngân sách .............................................................................................21
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÂN BỔ NGÂN SÁCH TẠI
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .......................................................................................32
2.1. Tình hình kinh tế xã hội và ngân sách thành phố Đà Nẵng ...............................32
2.2. Thực trạng chính sách phân bổ ngân sách thành phố Đà Nẵng ..........................37
CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÂN BỔ
NGÂN SÁCH ĐỊA PHƢƠNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..........................65
3.1. Phương hướng mục tiêu của chính sách phân bổ ngân sách thành phố Đà
Nẵng ..........................................................................................................................65
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách phân bổ ngân sách thành phố Đà

Nẵng ..........................................................................................................................66
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATTP

: An toàn thực phẩm

BQL

: Ban quản lý

CCTL

: Cải cách tiền lương

CTN-NQD

: Công thương nghiệp – ngoài quốc doanh

DAĐTXD

: Dự án đầu tư xây dựng

DN

: Doanh nghiệp


DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

ĐTNN

: Đầu tư nước ngoài

ĐTPT

: Đầu tư phát triển

GD-ĐT

: Giáo dục – đào tạo

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KHCN

: Khoa học công nghệ

KCN


: Khu công nghiệp

KHHGĐ

: Kế hoạch hóa gia đình

NSNN

: Ngân sách nhà nước

NSTW

: Ngân sách trung ương

NSĐP

: Ngân sách địa phương

PTTH

: Phát thanh truyền hình

QLHC

: Quản lý hành chính

QLCL

: Quản lý chất lượng


SHNN

: Sở hữu nhà nước

TDTT

: Thể dục thể thao

TS

: Thủy sản

TX

: Thường xuyên

UBND

: Ủy ban nhân dân

VHTT

: Văn hoá thông tin

XNK

: Xuất nhập khẩu


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1:

2.2:

2.3:

Dự toán thu, chi ngân sách thành phố Đà Nẵng do Bộ Tài
chính giao
Dự toán thu, chi ngân sách địa phương do UBND Thành phố
giao
Dự toán thu, chi ngân sách quận, huyện do UBND Thành phố
giao

Trang

45

49

52

2.4:

Quyết toán thu, chi ngân sách địa phương


54

2.5:

Quyết toán đạt so với dự toán ngân sách

56

2.6:

Cơ cấu chi thường xuyên

57

2.7:

Kết dư ngân sách

58


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang


1.1:

Hệ thống ngân sách Việt Nam

16

1.2:

Quy trình lập dự toán ngân sách địa phương

26

1.3:

Phân bổ ngân sách địa phương

30


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1:


Dự toán thu NSNN UBND Thành phố giao

48

2.2:

Dự toán chi NSNN UBND Thành phố giao

49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách nhà nước ngày càng có tác động sâu rộng đến mọi mặt kinh tế xã hội và trở thành yếu tố chủ đạo trong nền tài chính quốc gia thì mục tiêu hướng
đến là quản lý ngân sách nhà nước như thế nào để phát huy được vai trò to lớn của
nó đó là huy động các nguồn tài chính để tạo lập các quỹ tài chính - tiền tệ của
mình, phân phối các nguồn tài chính nhà nước nhằm đảm bảo cho các nhu cầu chi
tiêu của nhà nước, đồng thời góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua công cụ
dự toán ngân sách hàng năm.
Để thực thi ngân sách được hiệu quả, vai trò của khâu lập dự toán không thể
phủ nhận, nó tạo khuôn khổ cho việc chấp hành NSNN; quyết định việc thực thi
ngân sách. Một ngân sách dự toán tốt có thể được thực hiện tốt, nhưng một ngân
sách lập không tốt thì không thể thực hiện tốt. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa
thực hiện ngân sách chỉ đơn thuần là đảm bảo tuân thủ ngân sách dự kiến ban đầu,
mà phải thích ứng với các thay đổi khách quan trong quá trình thực hiện, đồng thời
phải tính đến hiệu quả hoạt động.
Trong những năm qua, công tác lập dự toán ngân sách nhà nước nói chung,
ngân sách địa phương tại thành phố Đà Nẵng nói riêng đã có nhiều cải tiến, đổi mới
về nội dung và phương pháp để dự toán ngân sách được lập đảm bảo phù hợp với kế

hoạch phát triển kinh tế xã hội, những ưu tiên chiến lược đã lựa chọn; phản ánh các
chính sách, chương trình hành động của các cấp chính quyền; góp phần tăng hiệu
quả hoạt động của khu vực tài chính công, tránh bị động trong quá trình thực hiện;
công tác lập dự toán ngân sách đã dựa trên những nhiệm vụ, mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh, nhiệm vụ cụ thể của từng ngành,
từng địa phương. Đồng thời đã thể hiện tổng hòa quan điểm, đường lối, chiến lược
và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nhà nước; phản ánh sự thiết lập kỷ luật tài
chính cho hoạt động của khu vực công thông qua và xác lập được các chỉ tiêu tài
chính cơ bản: tổng thu ngân sách nhà nước, tổng chi ngân sách địa phương; phản
ánh mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng…
1


Dự toán ngân sách là căn cứ để các đơn vị, địa phương tổ chức triển khai
thực hiện nhiệm vụ tài chính, ngân sách trong quá trình chấp hành ngân sách, là
công cụ để kiểm soát hoạt động tài chính trong năm ngân sách. Chính vì vậy mà dự
toán ngân sách phải được tổng hợp theo từng lĩnh vực thu, chi và theo cơ cấu giữa
chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ. Dự toán ngân sách của các cấp
chính quyền địa phương, của đơn vị dự toán các cấp phải lập theo đúng yêu cầu, nội
dung, biểu mẫu và thời hạn quy định của Bộ Tài chính, đồng thời phải được thuyết
minh rõ cơ sở, căn cứ tính toán và phải bảo đảm cân đối giữa thu và chi.
Trên thực tế quy mô các nguồn thu, nhiệm vụ chi ngày càng được mở rộng
và đa dạng; mặt khác công tác lập dự toán ngân sách địa phương hiện nay vẫn còn
những bất cập, hạn chế cần được khắc phục, hoàn thiện hơn và đòi hỏi tính dự kiến,
dự báo ngày càng được nâng cao.
Xuất phát từ ý nghĩa, vai trò và thực tế nêu trên, và để trả lời câu hỏi: nếu là
người làm công tác lập dự toán ngân sách địa phương anh (chị) phải làm gì để dự
toán ngân sách địa phương thực sự là công cụ thực thi ngân sách được hiệu quả, đáp
ứng công tác quản lý tài chính, ngân sách ngày càng cao, bản thân Tôi chọn đề tài
“Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để

nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhằm để đánh giá toàn diện hơn về công tác chính sách phân bổ ngân
sách địa phương, tác giả đã đã tham khảo một số luận văn về chính sách phân
bổ ngân sách nhà nước khác để có định hướng cụ thể cho luận văn của mình.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách có hệ thống về công tác chính sách phân bổ ngân sách nhà nước từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng trên cơ sở kế thừa các kết quả của các công trình
nghiên cứu liên quan. Thông qua đó, tác giả cũng đánh giá được những thành
tựu và hạn chế của công tác chính sách phân bổ ngân sách địa phương để đưa
ra những giải pháp giúp nâng cao hiệu quả cũng như việc quản lý ngân sách.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu lý luận và tình hình thực tiễn luận văn “Hoàn thiện
công tác phân bổ ngân sách nhà nước từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” tác giả mong
muốn tìm kiếm một phương thức hợp lý cho việc lập kế hoạch phân bổ các nguồn
lực ngân sách nhằm hoàn thiện công tác lập ngân sách địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vần đề lý luận về công tác lập, phân bổ và giao dự
toán ngân sách để từ đó xác định được vị trí của phân bổ ngân sách.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác phân bổ ngân sách nhà nước từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
- Qua nghiên cứu thực tiễn cũng như cơ sở lý luận đi đến đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác phân bổ ngân sách nhà nước từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiến đối với công tác phân bổ
ngân sách địa phương trên cơ sở các bản dự toán ngân sách hàng năm do Bộ Tài
chính giao cho thành phố Đà Nẵng, dự toán do UBND thành phố giao cho các địa
phương, đơn vị thuộc thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu công tác phân bổ ngân sách địa phương tại Sở Tài chính thành phố
Đà Nẵng và phòng Tài chính - Kế hoạch quận, huyện năm 2016 theo quy định của
Luật Ngân sách nhà nước năm 2002; trong đó sẽ quan tâm đặc biệt đến yêu cầu, căn
cứ và yếu tố ảnh hưởng đến công tác phân bổ ngân sách địa phương trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng. Đồng thời đi sâu nghiên cứu công tác phân bổ chi thường xuyên
đến từng lĩnh vực tương ứng với từng cấp ngân sách thuộc ngân sách địa phương.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
3


nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng và nhà nước về quản lý ngân
sách trong quá trình phát triển.
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận truyền thống khác như
phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, phương
pháp thu thập và xử lý thông tin qua các báo cáo của UBND thành phố Đà Nẵng và
Sở Tài chính thành phố Đà Nẵng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước và các cơ quan có liên quan tại Đà Nẵng trong việc

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngân sách, nhất là những giải pháp của đề
tài có thể được xem xét và áp dụng tại địa phương trong việc nâmg cao chất lượng
công tác quản lý ngân sách tại thành phố Đà Nẵng.
6.1. Ý nghĩa thực tiễn
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu phục vụ cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy về phân bổ ngân sách tại các cơ sở đào tạo đại học, cao
đẳng nói chung, Học viên Khoa học xã hội – Cơ sở Miền Trung nói riêng.
Việc thực hiện luận văn còn giúp nâng cao nhận thức cho bản thân tác giả hệ
thống hóa lý luận và thực tiễn về công tác phân bổ ngân sách nói chung, quản lý
phân bổ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng, góp phần nâng cao kinh nghiệm
của bản thân trong công tác quản lý nhà nước về phân bổ ngân sách tại địa phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung nghiên cứu của luận văn được trình
bày gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách.
Chương 2: Thực trạng chính sách phân bổ ngân sách tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện chính sách phân bổ ngân sách tại thành
phố Đà Nẵng.

4


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH
1.1. Cơ sở lý luận về chính sách
1.1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm ngân sách nhà nước
Phạm trù tài chính nhà nước xuất hiện trong lịch sử cùng với sự xuất hiện
của nhà nước, nhưng thuật ngữ “ngân sách nhà nước” chỉ mới được sử dụng từ thế
kỷ thứ 17 trở lại đây. Sự ra đời ngân sách nhà nước đã làm thay đổi rất lớn về

phương thức quản lý tài chính nhà nước. Khởi đầu là Anh quốc áp dụng thể chế
ngân sách nhà nước vào thế kỷ 17, kế đến là Mỹ và Pháp, sau đó mô hình này lan
rộng đến các nước khác. Khái niệm ngân sách nhà nước phản ảnh những thể chế
được xã hội thiết lập bằng hệ thống pháp luật nhằm mục đích ấn định con số chi tiêu
trong một năm mà nhà nước phải tìm kiếm nguồn để tài trợ; đồng thời nhà nước đưa
ra những quy tắc về kế toán để theo dõi chi tiết và chặt chẽ các khoản chi tiêu của
nhà nước với mục đích là để kiểm soát các khoản chi, tránh được sự phí phạm các
khoản chi tiêu cho những hoạt động không được ghi vào trong ngân sách để sao cho
chi tiêu của nhà nước được hợp pháp và có thể được tài trợ bằng những nguồn thu
ổn định. Hay nói cách khác, ngân sách nhà nước là một đạo luật tài chính cơ bản do
quốc hội quyết định, thông qua đó các khoản thu, chi tài chính của nhà nước được
thực hiện trong một niên khóa tài chính [23, tr.211-213].
Tuy nhiên cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm ngân
sách nhà nước. Nhưng về hình thức, ngân sách nhà nước là các khoản thu, chi
của nhà nước. Còn xét về nội dung, ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ lợi
ích kinh tế nảy sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính giữa nhà nước,
một chủ thể đặc biệt, với các chủ thể còn lại trong nền kinh tế. Hơn nữa, ngân
sách nhà nước còn là nguồn tài chính tập trung quan trọng trong hệ thống tài chính
quốc gia, thể hiện tiềm lực và sức mạnh về mặt tài chính của nhà nước. Ngân sách
nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ với mọi mặt kinh tế - chính trị - xã hội và quan
hệ khăng khít với tất cả các khâu của cả hệ thống tài chính quốc gia. Do vậy, quản
5


lý và điều hành ngân sách nhà nước có tác động và chi phối trực tiếp đến mọi lĩnh
vực trong nền kinh tế.
Theo Điều 1 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì ngân sách nhà nước là
toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước. [7, tr.1].

Từ khái niệm trên, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của ngân sách nhà
nước như sau:
- Ngân sách nhà nước là một bộ luật tài chính đặc biệt (yếu tố pháp lý), bởi lẽ
trong ngân sách nhà nước, các thể chế của nó được thiết lập dựa vào hệ thống các
pháp luật có liên quan (hiến pháp, luật thuế,…) mặt khác, bản thân ngân sách nhà
nước cũng là bộ luật do Quốc hội quyết định và thông qua hàng năm, mang tính
chất áp đặt và bắt buộc các chủ thể kinh tế- xã hội có liên quan phải tuân thủ.
- Ngân sách nhà nước là một bản dự toán thu, chi (yếu tố vật chất). Các cơ
quan, đơn vị có trách nhiệm lập ngân sách nhà nước và đề ra các thông số quan
trọng có liên quan đến chính sách của chính phủ. Chính sách nào mà
không được dự kiến trong ngân sách thì sẽ không được thực hiện. Chính vì lẽ đó,
việc thông qua ngân sách nhà nước là một sự kiện chính trị quan trọng, nó biểu hiệu
sự nhất trí trong Quốc hội về chính sách của nhà nước. Quốc hội mà không thông
qua ngân sách nhà nước thì điều đó thể hiện sự thất bại của chính phủ về chính sách
và có thể gây ra mâu thuẫn về chính trị.
- Ngân sách nhà nước là một công cụ quản lý. Ngân sách nhà nước đưa ra
danh mục các khoản thu mà chính phủ chỉ được phép thu và danh mục các khoản
chi tiêu trong khuôn khổ ngân sách nhà nước được Quốc hội phê duyệt. Đặc điểm
này cho thấy, ngân sách nhà nước là công cụ giúp cho Quốc hội quản lý và kiểm
soát chặt chẽ các khoản chi tiêu, thu nhập của chính phủ trong mỗi năm tài khóa.
[23, tr. 213-214].
1.1.1.2. Bản chất ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước với tư cách là một phạm trù kinh tế đã ra đời và tồn tại
từ lâu. Là một công cụ Tài chính quan trọng của Nhà nước, ngân sách nhà nước
6


xuất hiện dựa trên cơ sở hai tiền đề khách quan là tiền đề Nhà nước và tiền đề kinh
tế hàng hoá- tiền tệ.
Trong lịch sử loài người, Nhà nước xuất hiện là kết quả của cuộc đấu tranh

giai cấp trong xã hội. Nhà nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập trung nguồn lực
tài chính vào trong tay Nhà nước để làm phương tiện vật chất trang trải cho các chi
phí nuôi sống bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội của Nhà
nước. Bằng quyền lực của mình, Nhà nước tham gia vào quá trình phân phối tổng
sản phẩm xã hội. Trong điều kiện kinh tế hàng hoá - tiền tệ, các hình thức tiền tệ
trong phân phối như: thuế bằng tiền, vay nợ…được Nhà nước sử dụng để tạo lập
quỹ tiền tệ riêng có: ngân sách nhà nước. Như vậy, ngân sách nhà nước là ngân sách
của Nhà nước, hay Nhà nước là chủ thể của ngân sách đó.
Trong thực tiễn, hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động thu (tạo lập) và
chi tiêu (sử dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước, làm cho nguồn tài chính vận động giữa
một bên là các chủ thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc
dân dưới hình thức giá trị và một bên là Nhà nước. Đó chính là bản chất kinh tế của
ngân sách nhà nước. Đứng sau các hoạt động thu, chi là mối quan hệ kinh tế giữa
Nhà nước và các chủ thể kinh tế, xã hội. Nói cách khác, ngân sách nhà nước phản
ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể trong phân phối tổng sản
phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước,
chuyển dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của các chủ thể đó thành thu nhập của
Nhà nước và Nhà nước chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể được thực hiện để
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước [1].
Tóm lại về bản chất của NSNN, thì đằng sau những con số thu, chi đó là các
quan hệ lợi ích kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể khác như doanh nghiệp, hộ gia
đình, cá nhân gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.
[6, tr.78].
1.1.1.3. Nguyên tắc quản lý NSNN
* Nguyên tắc niên hạn
Nguyên tắc này có thể được tóm tắt với 2 nội dung chính: (1) Mỗi năm Quốc
hội phải thông qua ngân sách nhà nước một lần; (2) Chính phủ thi hành ngân sách
7



nhà nước trong thời gian một năm.
Sự phát triển của xã hội theo thể chế nền dân chủ chính trị, thực hiện ngân
sách niên hạn là để tạo điều kiện cho Quốc hội và công chúng kiểm soát tình hình
thu chi tài chính công được đều đặn và sát thực. Mỗi năm Chính phủ thu bao nhiêu
và chi cho cái gì, Quốc hội và công chúng cần phải biết. Thực hiện nguyên tắc này
sẽ làm gia tăng quyền lực mạnh mẽ của Quốc hội trong việc kiểm soát Chính phủ.
Quốc hội sẽ quyết định ngân sách nhà nước mỗi năm một lần. Nếu một năm nào đó
mà Quốc hội chưa quyết định ngân sách, thì Chính phủ không có quyền thu, hay chi
bất kỳ một khoản tiền nào, dù là nhỏ nhất [23, tr.214-215].
Quản lý ngân sách nhà nước phải xác định thời gian khởi đầu và thời gian
kết thúc để giúp cho Chính phủ tổng kết và đánh giá tình hình tài chính của quốc
gia, qua đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn lực công. Nói chung, sự giới hạn ngân sách nhà nước hàng năm với dự toán
các khoản thu chi chặt chẽ là nhằm làm cho nền tài chính công trở nên minh bạch và
quản lý có trật tự. [23, tr.215].
Tuỳ theo quan điểm của mỗi quốc gia, năm ngân sách nhà nước có thể bắt
đầu từ ngày 1-1 của năm dương lịch và kết thúc ngày 31-12 hoặc có thể bắt đầu từ
ngày 1-4 và kết thúc ngày 31-3…
Ngày nay các nước có khuynh hướng mở rộng ngân sách nhà nước vượt quá
khuôn khổ niên hạn, tức là thiết lập khuôn khổ ngân sách nhà nước đa niên (3-5
năm).
* Nguyên tắc đơn nhất
Nguyên tắc này yêu cầu toàn bộ dự toán thu, dự toán chi cần được trình bày
trong một văn kiện duy nhất. Nguyên tắc đơn nhất không chấp nhận việc lập ngân
sách bằng nhiều văn kiện không tập trung. Chính phủ không được đệ trình ngân
sách nhà nước trước Quốc hội bằng nhiều văn kiện khác nhau. Quốc hội chỉ xem
xét và thông qua ngân sách nhà nước bằng một đạo luật duy nhất.
Nếu ngân sách nhà nước trình bày tản mạn qua nhiều văn kiện khác nhau, thì
sự kiểm soát của Quốc hội sẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc lựa chọn
các khoản chi tiêu có tính chiến lược ưu tiên. Sự tôn trọng nguyên tắc này giúp cho

8


Quốc hội có cách nhìn toàn diện hơn về ngân sách nhà nước. Nguyên tắc đơn nhất
cho Quốc hội biết được quy mô của ngân sách nhà nước, tổng thể nguồn thu và các
khoản chi tiêu của chính phủ. Còn nếu ngân sách nhà nước được báo cáo bằng
nhiều văn kiện khác nhau và để biết tổng nguồn thu và tổng các khoản chi, Quốc
hội phải tập hợp rải rác ở nhiều văn kiện khác, sau đó cộng lại thì đó là một việc
làm rất phức tạp, tốn kém nhiều thời gian. Về phương diện kỹ thuật, chỉ có nguyên
tắc đơn nhất mới giúp cho Quốc hội nắm rõ trạng thái của ngân sách nhà nước:
thăng bằng, bội thu hay bội chi [23, tr.217-218].
* Nguyên tắc toàn diện
Ngân sách nhà nước phải là một ngân sách toàn diện và bao quát. Các khoản
thu và chi trong ngân sách nhà nước phải được hợp thành một tài liệu duy nhất,
phản ảnh đầy đủ mọi chương trình tài chính của Chính phủ. Tất cả khoản thu và
khoản chi của quốc gia phải ghi vào trong dự toán ngân sách nhà nước, không có sự
bù trừ giữa thu và chi [23, tr.218]
1.1.1.4. Vai trò của ngân sách nhà nước
Vai trò của NSNN ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế là công cụ
điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế-xã hội và đó được xem là vai trò quan trọng bậc nhất
của NSNN. Vai trò này về mặt chi tiết chúng ta có thể đề cập đến ở những nội dung
và những biểu hiện đa dạng khác nhau, song trên góc độ tổng quát thì vai trò của
NSNN được thể hiện qua các khía cạnh sau:
* Ngân sách nhà nước đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước
Mục tiêu của ngân sách nhà nước không phải để Nhà nước đạt được lợi
nhuận như các doanh nghiệp và cũng không phải để bảo vệ vị trí của mình trước các
đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngân sách nhà nước ngoài việc phải đảm bảo các
nhu cầu chi tiêu của nhà nước để duy trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nước còn phải
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội để tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh
nghiệp hoạt động.

* Góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế
Ngân sách nhà nước được sử dụng như là công cụ tác động vào cơ cấu kinh
tế nhằm đảm bảo cân đối hợp lý của cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kỳ kinh
9


doanh. Trước xu thế phát triển mất cân đối của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh
tế, thông qua quỹ ngân sách, Chính phủ có thể áp dụng các chính sách ưu đãi, đầu
tư vào các lĩnh vực mà tư nhân không muốn đầu tư vì hiệu quả đầu tư thấp; hoặc
qua các chính sách thuế bằng việc đánh thuế vào những hàng hoá, dịch vụ của tư
nhân có khả năng thao túng trên thị trường; đồng thời, áp dụng mức thuế suất ưu đãi
đối với những hàng hoá mà Chính phủ khuyến dụng. Nhờ đó mà có thể đảm bảo sự
cân đối, công bằng trong nền kinh tế. [2]
* Điều tiết thị truờng, ổn định giá cả và kiểm soát lạm phát
Trong cơ chế thị truờng, cung cầu là những yếu tố chi phối mạnh mẽ đến
hoạt động của thị truờng. Sự mất cân đối giữa cung và cầu sẽ tác động đến giá cả,
làm giá cả tăng - giảm đột biến gây ra các biến động trên thị trường. Để điều tiết
cung - cầu, ổn định giá cả, nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nguời sản xuất và
nguời tiêu dùng, nhà nuớc sử dụng ngân sách nhà nước can thiệp vào thị truờng
dưới các hình thức trực tiếp như: chi ngân sách mua hàng hoá, dịch vụ để điều chỉnh
tổng cầu; trợ giá, tài trợ vốn nhằm kích cầu, kích cung... Đồng thời sử dụng thuế,
một bộ phận của ngân sách nhà nuớc để tác động gián tiếp vào cung - cầu thông qua
hạn chế hoặc khuyến khích sản xuất và tiêu dùng. Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước
còn được sử dụng để can thiệp vào thị trường tài chính thông qua sử dụng các quỹ
dự trữ tài chính tác động vào cung cầu tiền tệ, trên cơ sở đó nhà nuớc thực hiện
kiềm chế và kiểm soát lạm phát [2].
* Giải quyết các vấn đề xã hội
Với chức năng phân phối (phân phối tổng sản phẩm xã hội), ngân sách nhà
nước được xem là một công cụ quan trọng để điều tiết làm giảm bớt khoảng cách
chênh lệch về thu nhập, hạn chế sự phân hóa giữa các tầng lớp dân cư và góp

phần vào thực hiện công bằng xã hội. Vai trò này của ngân sách nhà nước được
thể hiện ở cả hai mặt thu và chi. Về thu, nhà nước sử dụng thuế trực thu, thuế
gián thu để điều tiết thu nhập của mọi tầng lớp dân cư; về chi, thông qua các
khoản chi tiêu ngân sách, nhà nước thực hiện các chính sách phúc lợi và tạo ra
những sản phẩm, dịch vụ công phục vụ cho nhu cầu chung của toàn xã hội [2].
Như vậy, vai trò của ngân sách nhà nước là rất lớn. Vấn đề đặt ra là việc tổ
10


chức quy mô, cơ cấu và quản lý ngân sách nhà nước như thế nào để phát huy được
vai trò của nó.
1.1.2. Hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách có quan hệ hữu cơ với nhau
trong quá trình tổ chức huy động, quản lý các nguồn thu và thực hiện nhiệm vụ chi
của mỗi cấp ngân sách.
1.1.2.1. Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống ngân sách nhà nước ở các nước đều được tổ chức cơ bản phù hợp
với hệ thống tổ chức bộ máy quản lý hành chính Nhà nước, nghĩa là mỗi cấp chính
quyền là một cấp ngân sách, tự lập, xét duyệt và quản lý ngân sách cấp mình. Đối
với Việt Nam, các cấp ngân sách cũng độc lập tương đối nhưng lại có sự lồng ghép
giữa các cấp ngân sách. Ngân sách cấp dưới là bộ phận của ngân sách cấp trên (đây
là đặc điểm riêng có trong quản lý phân cấp ngân sách nhà nước ở Việt Nam những
năm qua và cần được nghiên cứu đánh giá để có thể sửa đổi thích hợp) [23, tr.218219].
Theo hiến pháp 1992 của nước ta và luật NSNN năm 2002, hệ thống ngân
sách nhà nước được tổ chức bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương.
1.1.2.2. Các nguyên tắc tổ chức quản lý hệ thống ngân sách nhà nước
* Nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ
Điều 6 Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 quy định: “Quốc hội,
Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động

theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Trong hoạt động ngân sách điều này có tầm quan trọng đặc biệt. Một mặt, nó
bảo đảm sự thống nhất ý chí và lợi ích qua huy động và phân bổ ngân sách để được
những hàng hóa, dịch vụ công cộng có tính chất quốc gia. Mặt khác, nó đảm bảo
phát huy tính chủ động và sáng tạo của các địa phương, các tổ chức, cá nhân trong
đảm bảo giải quyết các vấn đề cụ thể, trong những hoàn cảnh và cơ sở cụ thể.
Tập trung ở đây không phải là quyền lực thực sự tập trung hết ở trung ương
mà trên cơ sở phát huy dân chủ thực sự trong tổ chức hoạt động ngân sách của các
11


cấp chính quyền địa phương, các ngành, các đơn vị nhưng vẫn đảm bảo tính thống
nhất trong chính sách tài chính, ngân sách quốc gia. Nguyên tắc này được quán triệt
thông qua sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong phân
cấp quản lý ở cả ba khâu của chu trình ngân sách.
Chính vì vậy nguyên tắc này bảo đảm: thống nhất hệ thống báo cáo và các
chi tiêu đánh giá trong việc thu thập và xử lý thông tin về NSNN; bảo đảm tính
thống nhất trong hệ thống NSNN, tăng cường quyền lực của chính quyền trung
ương; giảm chính sách can thiệp trực tiếp của trung ương đối với quản lý ngân sách
sách địa phương; tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của chính quyền trung ương
đối với chính quyền địa phương.
* Nguyên tắc công khai, minh bạch
Công khai có nghĩa là để cho mọi người biết, không giữ kín. Minh bạch là
làm cho mọi việc trở nên rõ ràng, dể hiểu, sáng sủa, không thể nhầm lẫn được. Quản
lý ngân sách đòi hỏi phải công khai, minh bạch xuất phát từ đòi hỏi chính đáng của
người dân với tư cách là người nộp thuế cho nhà nước.
Việc nhà nước có đảm bảo trách nhiệm trước dân về huy động sử dụng các
nguồn thu hay không là phụ thuộc vào tính minh bạch của ngân sách. Điều này cũng
rất quan trọng đối với nhà tài trợ, những người hiển nhiên sẽ không hài lòng nếu sau
khi hỗ trợ tài chính cho một quốc gia lại không có đủ thông tin về việc sử dụng nó

vào đâu, như thế nào? Những nhà đầu tư cũng cần có sự minh bạch về ngân sách để có
thể đưa ra các quyết định đầu tư, cho vay…
Luật ngân sách của Việt Nam cũng đã quy định theo hướng tiếp cận với các
quy tắc về minh bạch ngân sách trên ở cả ba khâu của chu trình ngân sách. Các cấp,
các đơn vị dự toán, các tổ chức, cá nhân được NSNN hỗ trợ phải công khai theo các
mẫu đã được Bộ Tài chính quy định. Hình thức công khai chủ yếu là: thông báo
bằng văn bản cho các cơ quan hữu quan, phát hành ấn phẩm; công khai trên trang
thông tin điện tử của Bộ Tài chính… Thời gian công khai cũng được quy định rõ
đối với từng cấp ngân sách. Các cơ quan như: Tài chính, kho bạc nhà nước, các cơ
quan thu của nhà nước phải niêm yết công khai quy trình, thủ tục tại nơi giao dịch.
Các tài liệu trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân về dự toán và phân bổ ngân sách
12


được quy định đầy đủ, rõ ràng theo Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định
dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán NSNN.
Chính phủ ban hành Quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa
phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Chính phủ quy định cụ thể
việc công khai ngân sách.
* Nguyên tắc đảm bảo cân đối NSNN
Cân đối NSNN ngoài sự cân bằng về thu, chi còn là sự hài hòa, hợp lý trong
cơ cấu thu, chi giữa các khoản thu, chi; các lĩnh vực; các ngành; các cấp chính
quyền.
Đảm bảo cân đối ngân sách là một đòi hỏi có tính chất khách quan xuất phát
từ vai trò nhà nước trong can thiệp vào nền kinh tế thị trường với mục tiêu ổn định,
hiệu quả và công bằng. Thông thường, khi thực hiện ngân sách các khoản thu dự
kiến sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Vì vậy tính toán nhu
cầu chi sát với khả năng thu trong khi lập ngân sách là rất quan trọng. Các khoản
chi chỉ được phép thực hiện khi đã có đủ các nguồn thu bù đắp.
Đối với Việt Nam nguyên tắc này đã được quán triệt chặt chẽ trong quá trình

quản lý ngân sách trên cả ba khâu: lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán
ngân sách cũng như quá trình phân cấp ngân sách cho các địa phương.
Chẳng hạn như trong lập dự toán cần đảm bảo quy trình khoa học khi xem
xét thứ tự ưu tiên của các khoản chi, cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết. Khi
đưa ra chính sách, chế độ mới Nhà nước cần tính toán kỹ lưỡng các nguồn thu để
thực hiện thành công chính sách đó, tránh tình trạng vì chính sách mới mà phải “san
sẻ” ngân sách vốn có hay buộc phải vay nợ, in tiền. Cố gắng khai thác hợp lý các
nguồn thu, tăng thu cho ngân sách mà vẫn đảm bảo công bằng và nuôi dưỡng nguồn
thu.
Các cấp chính quyền cần được phân cấp nguồn thu, giao nhiệm vụ chi cụ thể.
Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó đảm bảo; việc ban hành
các chính sách, chế độ mới làm tăng chi ngân sách phải có nguồn tài chính phù hợp
với khả năng cân đối của ngân sách từng cấp. [6, tr.88-93].

13


1.1.3. Ngân sách địa phương
Ngân sách địa phương là một bộ phận của ngân sách nhà nước và ngân sách
địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân, theo quy định hiện hành. Chính vì vậy mà khái niệm, đặc điểm, vai
trò của ngân sách địa phương cũng không ngoài những khái niệm, đặc điểm, vai trò
của ngân sách nhà nước như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên về phạm vi ngân sách
hẹp hơn, được giới hạn theo phạm vi địa bàn đơn vị hành chính, giới hạn bởi phân
cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi theo phân cấp ngân sách đối với địa phương đó.
Qua nghiên cứu về ngân sách nhà nước, ta có thể rút ra khái niệm, đặc điểm,
vai trò của ngân sách địa phương như sau:
1.1.3.1. Khái niệm ngân sách địa phương
Trên cơ sở khái niệm của Ngân sách nhà nước ta có thể đưa ra một khái niệm

về ngân sách địa phương đó là: ngân sách địa phương là toàn bộ các khoản thu, chi
của địa phương theo phân cấp đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
và được tổ chức thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của chính quyền địa phương đó.
1.1.3.2. Đặc điểm của ngân sách địa phương
- Ngân sách địa phương là một bộ phận cấu thành của ngân sách nhà nước,
do đó ngân sách địa phương đều có những đặc điểm của ngân sách nhà nước. Nó
bao gồm những quan hệ tài chính (giữa một bên là nhà nước và một bên là các chủ
thể trong xã hội) trong tổng thể các quan hệ tài chính quốc gia, như:
Quan hệ tài chính giữa nhà nước với công dân;
Quan hệ tài chính giữa nhà nước với doanh nghiệp;
Quan hệ tài chính giữa nhà nước với tổ chức xã hội;
Quan hệ tài chính giữa nhà nước với quốc tế.
- Ngân sách địa phương là một bộ phận của bộ luật tài chính đặc biệt, vì ngân
sách địa phương là bộ phận của ngân sách nhà nước, các thể chế của nó cũng được
thiết lập dựa vào hệ thống các pháp luật có liên quan (hiến pháp, luật thuế,…), mặt
khác bản thân ngân sách địa phương cũng do Quốc hội quyết định và thông qua
14


cùng với ngân sách nhà nước hàng năm và nó cũng mang tính bắt buộc các chủ
thể kinh tế - xã hội có liên quan phải tuân thủ.
- Ngân sách địa phương là một bản dự toán thu, chi (yếu tố vật chất). Các cơ
quan, đơn vị thuộc địa phương có trách nhiệm lập ngân sách địa phương để thực
hiện các chính sách, của nhà nước, của địa phương mình. Chính sách nào không
được dự kiến trong ngân sách thì không được thực hiện. Vì vậy, việc thông qua
ngân sách địa phương là biểu hiện sự nhất trí trong Hội đồng nhân dân các cấp
chính quyền địa phương về thực hiện các chính sách.
- Ngân sách địa phương là một công cụ quản lý. Ngân sách địa phương bao
gồm danh mục các nguồn thu được phân cấp và danh mục các nhiệm vụ chi theo

phân cấp. Đặc điểm này cho thấy, ngân sách địa phương là một công cụ giúp cho
Hội đồng nhân dân các cấp chính quyền địa phương quản lý và giám sát chặt chẽ
nguồn thu và nhiệm vụ chi của địa phương trong mỗi năm ngân sách.
1.1.3.3. Vai trò của ngân sách địa phương
- Bảo đảm các nhu cầu chi tiêu của địa phương để duy trì sự tồn tại của bộ
máy Nhà nước, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội của địa phương, góp phần
vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Ngân sách địa phương góp phần quan trọng trong ổn định thị trường, kiểm
soát lạm phát, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế
trong nền kinh tế thị trường. Chính quyền địa phương sử dụng ngân sách nhà nước
như một công cụ để góp phần bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát. Chỉ thực hiện
điều tiết những mặt hàng quan trọng, những mặt hàng mang tính chất chiến lược.
Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, hạn chế chi tiêu công nhằm kiềm chế lạm phát…
- Giải quyết các vấn đề xã hội: Ngân sách địa phương là công cụ đặc lực
trong việc giải quyết các vấn đề xã hội như điều tiết thu nhập của người có thu nhập
cao, thông qua quá trình phân phối và phân phối lại của ngân sách để người có thu
nhập thấp cũng được hưởng lợi, như: trợ giúp trực tiếp dành cho những người có
thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián
tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực
hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt,
15


chi hỗ trợ di dời, tái định cư; hướng dẫn tiêu dùng của xã hội, giải quyết các nhu
cầu chính sách xã hội về sức khỏe cộng đồng, đời sống tinh thần, lao động tiền
lương…
1.1.3.4. Tổ chức hệ thống ngân sách địa phương
Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân, theo quy định hiện hành, bao gồm:

- Ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân
sách tỉnh), bao gồm ngân sách cấp tỉnh và ngân sách của các huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Ngân sách huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân
sách huyện), bao gồm ngân sách cấp huyện và ngân sách các xã, phường, thị trấn;
- Ngân sách các xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã);
Qua nghiên cứu về ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương ta có thể
tóm tắt hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam theo sơ đồ sau:
Ngân
sách nhà
nước

Ngân
sách trung
ương

Ngân
sách địa
phương

Ngân
sách cấp
tỉnh

Ngân
sách
huyện

Ngân
sách cấp

huyện

Ngân
sách cấp


Ghi chú:
Quan hệ trực tuyến
Quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa các cấp:
Sơ đồ 1.1: Hệ thống ngân sách Việt Nam
16


1.1.4. Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước
1.1.4.1. Khái niệm phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp quản lý ngân sách là quá trình Nhà nước trung ương phân giao
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong hoạt
động quản lý ngân sách.
Phân cấp quản lý NSNN là việc phân giao nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp
chính quyền. Thực chất nội dung phân cấp là giải quyết các mối quan hệ giữa chính
quyền nhà nước Trung ương và các cấp chính quyền Địa phương trong việc xử lý
các vấn đề liên quan đến hoạt động của NSNN bao gồm 3 nội dung sau: Quan hệ về
mặt chế độ, chính sách; Quan hệ vật chất về nguồn thu và nhiệm vụ chi; Quan hệ về
quản lý chu trình ngân sách.
Về chế độ, chính sách trong phân cấp quản lý NSNN sẽ quy định: Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ra các chế độ, chính sách, định mức, tiêu chuẩn thu, chi
tương ứng với từng loại chế độ.
Về nguyên tắc những chế độ nếu đã do trung ương quy định thì các cấp
chính quyền địa phương tuyệt đối không được tự tiện điều chỉnh hoặc vi phạm.
Ngược lại trung ương cũng phải tôn trọng thẩm quyền của các địa phương, tránh

can thiệp làm mất đi tính tự chủ của địa phương.
Về quan hệ vật chất trong phân chia nguồn thu và nhiệm vụ chi đây luôn là
vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, gây nhiều sự bất đồng nhất trong quá trình xây
dưng và triển khai các đề án phân cấp quản lý ngân sách. Sự khó khăn này bắt
nguồn từ sự phát triển không đồng đều giữa các địa phương, sự khác biệt về các
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa các vùng, miền trong cả nước.
Vì vậy, bất kỳ phương án phân chia trợ cấp nào cũng khó làm hài lòng các
cấp chính quyền địa phương. Ổn định ngân sách trong một khoảng thời gian và bổ
sung theo mục tiêu có lẽ là phương thức hữu hiệu để giảm bớt sự ỷ lại cũng như
điều hòa lợi ích giữa các địa phương.
1.1.4.2 Các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN
Để đảm bảo phân cấp quản lý ngân sách đem lại kết quả tốt cần phải quán
triệt các nguyên tắc sau:
17


×