Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.66 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ ĐỨC THUẬN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành: Quyền con người
Mã số:..........................................

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. Lê Mai Thanh

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Lê Mai Thanh. Các số liệu, kết quả nêu trong
luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác. Nếu
không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài của
mình.
Ngƣời cam đoan

Đỗ Đức Thuận




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung quyền của đương sự trong hoạt động thi hành
án dân sự...................................................................................................................... 6
1.2. Khái niệm bảo đảm quyền của đương sự và các điều kiện bảo đảm quyền của
đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự ........................................................... 12
1.3. Cơ chế bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự ........ 18
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 21
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG HOẠT
ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH HÒA BÌNH ......................................... 22
2.1. Đặc thù của Hòa Bình tác động đến quyền của đương sự ................................. 22
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của đương sự trong hoạt động thi
hành án dân sự tại tỉnh Hòa Bình .............................................................................. 23
2.3. Thực trạng bảo đảm quyền tự do lựa chọn phương thức thi hành án của đương
sự trong hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Hòa Bình .......................................... 28
2.4. Thực trạng bảo đảm một số quyền dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của đương
sự trong hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Hòa Bình .......................................... 34
2.5. Thực trạng bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của đương sự trong hoạt động thi
hành án dân sự tại tỉnh Hòa Bình .............................................................................. 51
2.6. Thực trạng cơ chế bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án
dân sự tại tỉnh Hòa Bình............................................................................................ 55
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 59
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH HÒA BÌNH ............... 60
3.1. Phương hướng bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án dân
sự tại tỉnh Hòa Bình .................................................................................................. 60

3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự tại
tỉnh Hòa Bình ............................................................................................................ 62
Tiểu kết chương 3...................................................................................................... 70
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

THA

Thi hành án

THADS

Thi hành án dân sự

TTLT

Thông tư liên tịch

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động thi hành án dân sự là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản
án, quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật. Những năm qua công tác THADS đã từng bước được đẩy
mạnh và đã thu được những kết quả to lớn. Pháp luật về THADS đã và đang
được củng cố và hoàn thiện ngày càng phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra
của sự phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập hiện nay,
nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các giao lưu dân sự ngày một mở
rộng thì số vụ việc tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng dẫn đến số lượng bản
án, quyết định phải thi hành ngày càng nhiều. Các vụ việc thi hành án dân sự
ngày một gia tăng, phức tạp, các đương sự trong THADS là những người
được thi hành án và người phải thi hành án luôn ẩn chứa những nguy cơ bị vi
phạm quyền và lợi ích hợp pháp, đặc biệt là những người phải thi hành án, xã
hội thường có tâm lý xa lánh, kỳ thị xem thường, họ không hiểu hết việc thực
hiện nghĩa vụ thi hành án của các đương sự trong THADS không mất đi các
quyền cơ bản của con người. Hơn nữa hoạt động THADS luôn động chạm
trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự và rất dễ bị cơ
quan thi hành án dân sự và các chủ thể có quyền khác xâm hại. Trong một số
trường hợp bản án, quyết định của tòa án được thi hành triệt để đúng quy định
thì người phải thi hành án và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan dễ
bị vi phạm đến các quyền cơ bản của con người như: quyền có chỗ ở, quyền
được học tập, quyền được nuôi dưỡng chăm sóc, quyền được bảo vệ quyền tài
sản…., còn nếu bản án, quyết định của tòa án không được thi hành triệt để thì
quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án bị xâm hại. Đã có
nhiều đề tài luận văn nghiên cứu về hoạt động THADS, nhưng chưa có đề tài
luận văn nào khai thác hoạt động THADS dưới góc độ là quyền con người tại


1


địa bàn tỉnh Hòa Bình là nơi có nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống, trình
độ dân trí chưa cao, sự phát triển kinh tế còn rất thấp, vì vậy việc áp dụng các
quy định của pháp luật trong tổ chức THADS nhằm bảo đảm các quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự vẫn gặp không ít những khó khăn vướng mắc, cần
tháo gỡ.
Trước tình hình đó việc nghiên cứu đề tài "Bảo đảm quyền của đương
sự trong hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình" đáp ứng
tính cấp thiết. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ luật học,
chuyên ngành Quyền con người.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung và
bảo vệ quyền của đương sự trong hoạt động THADS nói riêng, đã có nhiều
tác giả, nhà nghiên cứu hết sức quan tâm nhất là trong thời kỳ đổi mới, hội
nhập. Đã có nhiều bài viết, công trình nổi bật được nghiên cứu từ các góc độ
và mức độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau:
Về sách, giáo trình: Giáo trình Pháp luật quốc tế về quyền con người
của Học viện khoa học xã hội do GS. TS Võ Khánh Vinh và TS. Lê Mai
Thanh chủ biên; Giáo trình cơ chế quốc tế và khu vực về quyền con người của
Học viện khoa học xã hội do GS. TS Võ Khánh Vinh và TS Lê Mai Thanh
chủ biên; Giáo trình quyền con người của Học viện khoa học xã hội do GS.
TS Võ Khánh Vinh chủ biên; Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên
ngành luật học tập II do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên; Quyền con người
tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội do GS. TS Võ Khánh Vinh
chủ biên; Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người do GS. TS Võ Khánh
Vinh chủ biên; Tư tưởng về quyền con người tuyển tập tư liệu thế giới và Việt
Nam; Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người do tác giả Nguyễn

Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng chủ biên; Quyền con người trong
quản lý tư pháp do Vũ Ngọc Bình tuyển chọn...

2


Về bài viết, tạp chí và chuyên đề nghiên cứu: Quyền con người trong thế
giới hiện đại do PGS Phạm Khiêm Ích và GS. TS Hoàng Văn Hảo chủ biên; Bảo
vệ quyền con người trong thi hành án dân sự của tác giả Trương Thị Hồng Hà
trong cuốn Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học tập II do
GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên; và gần đây có đề tài “Bảo đảm quyền con
người trong hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Lào Cai”, luận văn
thạc sĩ luật học Học viện khoa học xã hội của tác giả Đào Anh Tuấn...
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác trong
các luận án, luận văn tốt nghiệp, tập san, tạp chí chuyên ngành như tạp chí
Nhà nước và pháp luật, tạp chí Dân chủ và pháp luật nhưng vẫn chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp và toàn diện cả về lý luận và thực tiễn
bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự. Tuy vậy,
các tài liệu trên là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả trong
quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền của đương sự trong
hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Hòa Bình nhằm tăng cường hiệu quả bảo
đảm quyền.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
nghiên cứu cơ sở lý luận đảm bảo quyền của đương sự trong hoạt động thi
hành án dân sự, cụ thể là: Làm rõ khái niệm, đặc điểm quyền của đương sự;
nội dung quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự; đánh giá

được thực tiễn bảo đảm quyền của đương sự trong thi hành án dân sự tại tỉnh
Hòa Bình và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án
dân sự.

3


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi
hành án dân sự bao gồm: Bảo đảm quyền của người được thi hành án, người
phải thi hành án trong hoạt động thi hành án dân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu về quyền của các chủ thể là đương sự trong hoạt
động THADS, bao gồm người được thi hành án và người phải thi hành án.
- Bảo đảm các quyền con người đặc thù của đương sự dễ bị xâm hại
trong quá trình thi hành án. Luận văn không tham vọng nghiên cứu tất cả các
quyền con người của đương sự.
- Địa bàn nghiên cứu: quyền của đương sự trong hoạt động THADS tại
địa bàn tỉnh Hòa Bình.
- Thời gian nghiên cứu: giai đoạn luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu
lực ngày 01/7/2009 và được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đến tháng 7 năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật, quan
điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề bảo đảm và thực hiện quyền con người
ở nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra; trong quá

trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
Việc nghiên cứu thực hiện đề tài được dựa trên cơ sở phương pháp
phân tích và thống kê kết quả thi hành án, phương pháp đàm thoại với những
người làm công tác lâu năm trong ngành thi hành án.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như sau: Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, phương pháp lịch

4


sử; Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá; tổng hợp, thống kê,
phương pháp khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài này là đề tài mới nghiên cứu lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền
của đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Hòa Bình.
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ đóng góp cho các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói chung, cho ngành thi hành án dân sự nói riêng nâng cao nhận thức
“Bảo vệ quyền con người” trong thực thi pháp luật. Luận văn sẽ đóng góp
một phần lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho việc thực hiện có hiệu quả
đảm bảo trong thi hành án dân sự, bảo đảm quyền của đương sự khi các cơ
quan thi hành án dân sự trong việc thi hành pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động
thi hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi
hành án dân sự tại tỉnh Hòa Bình
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm quyền của đương sự

trong hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Hòa Bình.

5


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung quyền của đƣơng sự trong
hoạt động thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án
dân sự
Trong tiếng việt “đương sự” được hiểu “là người, là đối tượng trong
một sự việc nào đó được đưa ra giải quyết”[34, tr.159]. Như vậy theo nghĩa
chung nhất thì đương sự chỉ là người, là đối tượng trong một vụ việc nào đó
được đưa ra giải quyết trong cuộc sống hàng ngày.
Theo tác giả Bùi Thị Huyền thì: “Đương sự trong thi hành án dân sự là
người có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thi hành án dân sự,
tham gia vào quá trình thi hành án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chính mình” [18,tr. 98].
Như vậy, đương sự trong thi hành án dân sự chính là những người được
hưởng quyền hoặc phải thực hiện nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết
định. Khái niệm về đương sự trong THADS đã từng được ghi nhận tại Điều 3
Pháp lệnh THADS năm 2004 theo hướng: Bản án, quyết định dân sự đã có
hiệu lực pháp luật phải được người phải thi hành án, người được thi hành án,
người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án (gọi chung là đương
sự) nghiêm chỉnh thi hành và được các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang
nhân dân và cá nhân tôn trọng [40]. Tuy nhiên, phạm vi chủ thể được coi là
đương sự đã bị thu hẹp hơn trong Luật THADS năm 2008. Theo Khoản 1
Điều 3 Luật THADS thì các đương sự trong THADS chỉ bao gồm: Người

được thi hành án và người phải thi hành án [22].
Đương sự trong THADS thông thường chính là đương sự trong vụ việc
dân sự. Theo quy định tại khoản 1, Điều 56 BLTTDS: “Đương sự trong vụ án

6


dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”[24].
Khái niệm quyền của đương sự xuất phát từ khái niệm quyền con
người. Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách
quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm: “Quyền của đương sự
là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của đương sự được ghi nhận và
bảo đảm bởi các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”.
1.1.2. Đặc điểm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án
dân sự
Đương sự là con người nên trước hết quyền của đương sự mang các đặc
điểm chung của quyền con người bao gồm:
- Tính phổ biến: Tính phổ biến của con người thể hiện ở chỗ quyền con
người được thể hiện ở mọi quốc gia không phụ thuộc vào chế độ chính trị kinh tế của họ. Nếu như ở đâu đó quyền con người không được thể hiện ở các
đặc điểm cơ bản như vậy thì điều đó có nghĩa là quyền con người chưa được
đảm bảo theo tiêu chí chung.
- Tính không thể tước đoạt: Thuộc tính này của quyền con người thể
hiện ở chỗ đã là quyền con người, nó không thể bị tước đoạt một cách tùy
tiện, trừ trường hợp được pháp luật quy định và lý do tước đoạt là hành vi vi
phạm pháp luật của người bị tước đoạt.
- Tính không thể phân chia: Quyền con người là phạm trù tổng hợp
gồm các quyền và tự do của con người vốn quan trọng như nhau và gắn bó

chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh xã hội khác
nhau mà một số quyền được ưu tiên thực hiện hoặc được chú ý bảo vệ hơn.
- Tính liên hệ và phục thuộc lẫn nhau của quyền con người: Các quyền
con người cụ thể không thể tồn tại một cách biệt lập mà trong một tổng thể
vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau[48].

7


Ngoài các thuộc tính kể trên, quyền của đương sự chỉ dưới góc độ trong
quá trình thi hành án dân sự nên có những đặc điểm riêng sau:
- Nhóm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự chủ
yếu khu trú ở nhóm quyền dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và dễ bị xâm hại.
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động tác động trực tiếp đến tài sản của
người phải thi hành án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được
thi hành án. Do đó, quyền của người được thi hành án thường được tôn trọng
và bảo đảm nhiều hơn so với quyền của người phải thi hành án. Để bảo đảm
quyền lợi cho người được thi hành án thì cơ quan thi hành án phải thực hiện
các biện pháp nghiệp vụ để xử lý các tài sản, quyền tài sản... của người phải
thi hành án.
- Nhóm người được thi hành án thường là người có quyền và lợi ích bị
xâm phạm trong các giao dịch dân sự trước đó cho nên người được thi hành
án cần được bảo vệ về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm
trong quá trình thi hành án. Hoạt động này thực chất là để bù đắp những thiệt
hại, tổn thất mà họ phải gánh chịu trong các giao dịch dân sự trước đó. Tuy
nhiên, trong quá trình thi hành án họ dễ gặp phải rào cản từ phía cơ quan thi
hành án dân sự, cơ quan Tòa án và cá nhân, tổ chức khác nhằm hạn chế một
số quyền vốn có của họ như: không được nhận bản án, quyết định; không
được nhận thông báo về thi hành án, không được nhận trở lại làm việc hay
không được nhận tài sản do phía người phải thi hành án cố ý chây ỳ, trốn

tránh nghĩa vụ thi hành án.
- Nhóm người phải thi hành án là những đối tượng phải thực hiện nghĩa
vụ trong bản án, quyết định. Mặc dù họ có quyền nhưng thường không được
trao quyền và quyền của họ không được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng và bảo đảm thực hiện. Do vậy, quyền của người phải thi hành án dễ bị
xâm hại từ phía các cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình thi hành án để
bảo vệ quyền của bên được thi hành án.

8


1.1.3. Nội dung quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự
Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, Luật THADS có một giá trị vô
cùng to lớn khi Điều 5 Luật THADS ghi nhận: “Trong quá trình thi hành án,
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”[22]. Đây thực sự là một ghi nhận
mang tính tuyên ngôn nhân quyền của một đạo luật của Việt Nam được ban
hành ở những năm mà cả thế giới đang gặp nhiều biến động từ sự suy thoái
kinh tế đến sự biến động xã hội và biến đổi khí hậu. Trong điều kiện đó,
quyền con người không hề bị giảm sút mà ngày càng được tôn vinh và bảo vệ
bằng mọi biện pháp. Luận văn nghiên cứu về các quyền con người được bảo
đảm trong lĩnh vực thi hành án dân sự gồm:
Quyền tiếp cận thông tin của đương sự: Quyền tiếp cận thông tin là
quyền của công dân trong một xã hội dân chủ, pháp quyền, là chuẩn mực xác
nhận của một xã hội trong đó người dân có tự do, có quyền lực thực sự.
Quyền này có ý nghĩa quan trọng trong cơ cấu các quyền con người, thuộc
nhóm quyền dân sự, chính trị đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948 và Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR). Nhận thức được điều này, trong
thời gian qua, Nhà nước ta đã rất chú trọng đến quyền được tiếp cận thông tin

của người dân, đến trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải công khai thông
tin do mình nắm giữ và được ghi nhận trong Hiến pháp 2013.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, quyền tiếp cận thông tin của
đương sự là quyền được tiếp cận hồ sơ, tài liệu của các cơ quan có thẩm
quyền trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Ngoài ra nó còn là quyền chủ động
của đương sự được yêu cầu và nghĩa vụ của cơ quan thi hành án, các tổ chức,
cá nhân có liên quan phải công bố. Quyền tiếp cận thông tin của đương sự thể
hiện ở các nội dung chủ yếu sau:

9


- Tìm kiếm thông tin: Đương sự có quyền chủ động để có được thông
tin cần thiết mà mình quan tâm. Đương sự có quyền yêu cầu và đề nghị các cơ
quan, tổ chức, đơn vị nắm giữ thông tin có nghĩa vụ cung cấp thông tin đó cho
mình. Quyền này được ghi nhận trong Luật THADS: Người được thi hành án
có quyền xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án (điểm đ khoản 1 Điều 7) và các cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang nắm giữ thông tin phải có trách nhiệm cung cấp đúng, đầy đủ và kịp thời
các thông tin (Điều 176, Điều 177).
- Tiếp nhận thông tin: Đương sự được nhận thông tin qua các kênh
khác nhau và trách nhiệm của cơ quan nắm giữ thông tin là phải cung cấp
thông tin để đương sự biết, kể cả khi không có yêu cầu. Vì vậy, Luật THADS
đã quy định cơ quan đã ra bản án, quyết định phải có trách nhiệm cấp bản án,
quyết định cho đương sự (Điều 27) và cơ quan thi hành án phải thực hiện việc
thông báo về thi hành án cho đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo
nội dung của văn bản đó.
- Phổ biến thông tin: Sau khi nhận được thông tin từ các cơ quan có
thẩm quyền, đương sự có quyền truyền thông tin. Trong hoạt động thi hành án
dân sự, khi nắm bắt được thông tin, đương sự có quyền bày tỏ quan điểm của

mình về việc tiếp nhận thông tin hoặc truyền tin đến cơ quan thi hành án qua
hình thức tự nguyện thi hành án hoặc không tự nguyện thi hành án và thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo của đương sự.
Quyền tự do lựa chọn phương thức thi hành án của đương sự: Dưới
góc độ quyền con người thì quyền này là quyền tự do và thuộc nhóm quyền
dân sự, chính trị đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người của Liên hợp quốc năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị năm 1966 (ICCPR). Tự do là khả năng con người có thể làm bất
cứ điều gì mà mình mong muốn mà không gặp bất kỳ cản trở nào.

10


Trong hoạt động THADS đương sự có thể hành động theo ý chí,
nguyện vọng của mình phù hợp với các quy phạm pháp luật và đạo đức xã hội
mà không bị cản trở bởi bất cứ chủ thể hay yếu tố nào, cụ thể: đương sự có
quyền tự do lựa chọn thời điểm thích hợp để yêu cầu cơ quan thi hành án tổ
chức thi hành án hay đương sự có quyền tự do thỏa thuận thời gian, địa điểm,
phương thức, cách thức thi hành án cả trong giai đoạn trước khi yêu cầu cơ
quan thi hành án hoặc trong khi yêu cầu cơ quan thi hành án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng trong thi hành
án dân sự, đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận
đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Theo
yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa
thuận về thi hành án (khoản 1 Điều 6 Luật THADS). Tuy nhiên, trong quá
trình thi hành án dân sự quyền tự do của đương sự cũng có những hạn chế
nếu như tự do thỏa thuận của đương sự ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
người thứ ba hay tự do lựa chọn thời điểm yêu cầu thi hành án bị giới hạn bởi
thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Một số quyền dân sự của đương sự: Nhóm quyền này được ghi nhận

trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948;
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) và
Công ước quốc tế các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.
Hoạt động thi hành án là hoạt động liên quan đến các vấn đề về tài sản
và nhân thân trong các bản án dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình.
Các phán quyết của Tòa án trong nhóm quyền này thường là trả lại tài sản,
quyền có việc làm, quyền có chỗ ở và quyền được chăm sóc, giáo dục. Để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật quy định các chế tài đối
với người phải thi hành án trong trường hợp không tự nguyện thi hành án như
áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế (khoản 1 Điều 46 Luật

11


THADS). Bên cạnh việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được
thi hành án thì cũng phải chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người phải thi hành án như quy định về % khấu trừ vào thu nhập để bảo đảm
cuộc sống tối thiểu của người phải thi hành án và người được nuôi dưỡng
(Điều 78 Luật THADS) hay không được tiến hành kê biên tài sản của người
phải thi hành án là những vật dụng thiết yếu phục vụ cho cuộc sống tối thiểu
của người phải thi hành án và gia đình (Điều 87 Luật THADS)
Quyền khiếu nại, tố cáo của đương sự: Khiếu nại, tố cáo là một trong
những quyền chính trị cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp
2013, Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011 và Luật THADS. Thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để đương sự giám sát
hoạt động của cơ quan, công chức nhà nước; đồng thời là một biện pháp để
công dân, tổ chức bảo vệ mình trước sự vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền. Việc Luật THADS quy định khiếu nại, tố cáo và
giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự là một phương thức để
đương sự thực hiện quyền kiểm tra, giám sát, hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của mình.
1.2. Khái niệm bảo đảm quyền của đƣơng sự và các điều kiện bảo
đảm quyền của đƣơng sự trong hoạt động thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động thi
hành án dân sự
Các quyền của con người là những giá trị tự nhiên được con người
nhận thức, thừa nhận và dần thể chế hóa trong các văn kiện quốc tế về quyền
con người và được các quốc gia thừa nhận, cam kết thực hiện. Nhà nước là
chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Đối với
các quyền con người về kinh tế, xã hội và văn hóa và quyền của một số nhóm
người dễ bị tổn thương người ta còn đề cập đến nghĩa vụ tổ chức và nghĩa vụ

12


đạt được kết quả. Nghĩa vụ tổ chức được hiểu là việc các quốc gia thực hiện
trên thực tế các biện pháp cụ thể, tạo lập các điều kiện đảm bảo thực hiện
quyền con người nhằm thực thi các quy định của các công ước quốc tế về
quyền con người. Nghĩa vụ đạt được kết quả là yêu cầu quốc gia phải bảo
đảm rằng những biện pháp và hoạt động đề ra phải mang tính khả thi và hiệu
quả [12, tr.71].
Như vậy, bảo đảm quyền con người là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện
về kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý và tổ chức để các cá nhân, công dân, các
tổ chức của công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của
họ. Nói cách khác, bảo đảm quyền con người là quá trình tạo lập các cơ chế
và triển khai các hoạt động thực tiễn để hiện thực hóa quyền pháp định.
Thuật ngữ “bảo đảm” trong tiếng Việt được hiểu là “làm cho chắc chắn
thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [42, tr.120].
Theo Từ điển tiếng việt của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí
Minh năm 2008 thì “bảo đảm” là : 1. Cam đoan chịu trách nhiệm về việc gì

đó; 2. Là cho có được điều gì [35, tr.52].
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể hiểu khái niệm: “Bảo đảm quyền
của đương sự là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp luật và các điều
kiện bảo dảm từ phía Nhà nước nhằm hiện thực các quyền của đương sự trên
thực tế”.
Có tác giả cho rằng: “...việc thi hành án dân sự không những phải bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự mà còn phải bảo đảm cả
quyền, lợi ích hợp pháp của những người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến
việc thi hành án dân sự, không được xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp của họ” [3].
Trong hoạt động thi hành án dân sự, bảo đảm quyền của đương sự phải
đáp ứng các yêu cầu sau:

13


- Trong THADS bên cạnh việc tôn trọng và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của người được thi hành án còn phải tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Việc tổ chức THADS phải đúng pháp luật và đúng nội dung bản án,
quyết định được thi hành để bảo đảm quyền, lợi ích của người được thi hành
án và không xâm phạm đến quyền, lợi ích của người phải thi hành án và
những người liên quan đến việc THADS.
- Phải bảo đảm cho người được thi hành án, người phải thi hành án và
những người liên quan đến việc THADS được tham gia vào quá trình thi hành
án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ và bảo đảm quyền khiếu nại, tố
cáo của họ đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án.
Về quy định tại Điều 5 của Luật THADS năm 2008, thì bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự, nghĩa là trong quá trình THADS, quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Như vậy, về mặt pháp luật thì nội dung của bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại
Điều 5 của Luật THADS mới chỉ thể hiện được chủ thể có quyền lợi cần được
tôn trọng và bảo vệ đồng thời việc tôn trọng, bảo vệ này là theo quy định của
pháp luật mà chưa bao quát được các nội dung như việc tổ chức THADS phải
đúng pháp luật và đúng nội dung bản án, quyết định được thi hành, không
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người liên quan đến việc
THADS; bảo đảm cho chủ thể có quyền lợi được thực hiện quyền yêu cầu thi
hành án, tham gia vào quá trình thi hành án và bảo đảm quyền khiếu nại của
họ đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án; bảo đảm quyền ưu tiên
mua của các đồng sở hữu chủ đối với tài sản bị kê biên. Ngoài ra, theo nghiên
cứu của chúng tôi thì theo pháp luật hiện hành cũng chưa thể hiện được nội
dung về chủ thể có trách nhiệm phải bảo đảm quyền lợi như cơ quan thi hành

14


án, Thừa phát lại và các chủ thể có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp trong
THADS.
1.2.2. Các điều kiện bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt động
thi hành án dân sự
Trong THADS, các điều kiện bảo đảm quyền của đương sự bao gồm:
Điều kiện bảo đảm về mặt pháp lý
Bảo đảm quyền của đương sự trong thi hành án dân sự được xây dựng
trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và các luật chuyên ngành. Bảo đảm
quyền của đương sự trong THADS được quy định tại Điều 14 và Điều 106
Hiến pháp năm 2013. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [21].
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013 thì: “Bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành”[21].
Bảo đảm quyền của đương sự trong THADS còn là sự cụ thể hóa các
quy định về nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự được quy định tại
Điều 2 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể là theo quy định tại Khoản 1 Điều luật
này thì tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn
trọng và được pháp luật bảo vệ... Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm
phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc
yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận quyền dân sự của mình;

15


buộc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; thực hiện nghĩa
vụ dân sự hoặc bồi thường thiệt hại. Khi Tòa án đã ra phán quyết thì quyền lợi
hợp pháp của đương sự đã được ghi nhận trong bản án, quyết định của Tòa án
được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ trong quá trình THADS.
Bảo đảm quyền của đương sự trong THADS được ghi nhận tại Điều 5
Luật THADS, cụ thể: trong quá trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được
pháp luật bảo vệ. Theo đó, cơ quan thi hành án, Thừa phát lại và các chủ thể
có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp trong thi hành án dân sự phải tổ chức thi hành
án dân sự theo đúng pháp luật và đúng nội dung bản án, quyết định, không
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm cho họ thực
hiện quyền.

Nhằm tạo thêm công cụ pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình khi tham gia vào các giao dịch dân sự, kinh tế, Quốc hội
đã có Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện chế định Thừa phát lại đã
chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại từ
1/1/2016. Đây là một trong những đảm bảo về mặt pháp lý nhằm tăng cường
hiệu quả bảo đảm quyền của đương sự.
Điều kiện bảo đảm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Để nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của đương sự trong THADS, cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương cần tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo,
chỉ đạo hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự các cấp; xác định công tác
thi hành án dân sự là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, phải được cả xã hội
quan tâm và ủng hộ; gắn công tác thi hành án dân sự với việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị, kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh trật tự ở từng địa
phương. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn về tổ chức, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đoàn thể, tạo điều

16


kiện để cơ quan thi hành án dân sự hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được
giao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương; bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Chỉ đạo các cấp cơ quan Công an, Tòa án,
Viện kiểm sát và các cơ quan liên quan phối hợp chặt chẽ với cơ quan thi
hành án dân sự trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật. Kiện toàn và hoạt động có hiệu quả Ban Chỉ đạo Thi
hành án dân sự, ban hành quy chế hoạt động trên cơ sở xác định rõ trách
nhiệm của các thành viên. Tăng cường công tác giám sát của Hội đồng nhân
dân, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với công tác thi hành án
dân sự; chú trọng giám sát việc chấp hành pháp luật, đạo đức nghề nghiệp của
chấp hành viên, công chức và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong công tác

thi hành án dân sự, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với những
cán bộ, công chức có hành vi vi phạm trong việc thực thi nhiệm vụ.
Hàng năm có kế hoạch hỗ trợ kinh phí cho các cơ quan thi hành án
dân sự trong việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, phương tiện và trang
thiết bị làm việc như: trụ sở, xe ô tô, xe máy, điện thoại, máy tính, máy
photocoppy, máy in...
Ngoài ra phong tục tập quán của mỗi dân tộc khác nhau tác động dến
hiệu quả của việc bảo đảm quyền của đương sự. Tuy các quyền con người có
tính tự nhiên và phổ biến nhưng mỗi cá nhân con người lại sống trong những
nền văn hóa khác nhau thể hiện ở sự khác biệt về truyền thống, phong tục tập
quán, nhận thức và lối sống... do đó, cách hiểu và áp dụng pháp luật khác
nhau, ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền con người. Đối với một số dân tộc
thiểu số thì tiếng nói của già làng, trưởng bản rất có trọng lượng được người
dân coi trọng. Do đó, trong quá trình thi hành án dân sự, Chấp hành viên cần
có sự hiểu biết về các phong tục tập quán của mỗi dân tộc để vận dụng vào
quá trình thi hành án, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

17


1.3. Cơ chế bảo đảm quyền của đƣơng sự trong hoạt động thi hành
án dân sự
Bảo đảm quyền của đương sự trong việc thi hành án dân sự xuất phát từ
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự. Các bản
án và quyết định của Tòa án nhân dân (TAND) đã có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành. Vì vậy, tham gia vào quá trình THADS có rất nhiều các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác nhau, trong đó cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi
hành các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực thi hành của Tòa án, trọng

tài và hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được gọi là cơ quan THADS. Cơ
quan THADS là cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc
thi hành các bản án, quyết định dân sự. Hoạt động của cơ quan THADS một
mặt bảo đảm việc thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn
trọng của xã hội, của công dân đối với phán quyết của Tòa án, Trọng tài và
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, mặt khác là công cụ hữu hiệu để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. Để tăng cường
hiệu quả công tác THADS, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá
nhân, tổ chức, các cơ quan THADS phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ
tục, thời hạn thi hành án mà pháp luật quy định, không cá nhân, cơ quan tổ
chức nào, kể cả các cơ quan quản lí thi hành án được can thiệp không đúng
chức năng, nhiệm vụ vào hoạt động tác nghiệp của của cơ quan THADS. Các
quyết định của cơ quan THADS có giá trị bắt buộc các chủ thể khác phải chấp
hành. Mọi hành vi chống đối, cản trở trong việc thi hành các quyết định của
cơ quan THADS đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Để bảo đảm tốt quyền của đương sự cần cơ chế phối kết hợp giữa cơ
quan thi hành án với Tòa án và các cơ quan hữu quan khác. Tuy đóng vai trò

18


trung tâm, nhưng để tổ chức thi hành án thành công cơ quan thi hành án cần
phải phối hợp chặt chẽ với nhiều chủ thể khác. Đó có thể là cơ quan, tổ chức
đã ban hành bản án, quyết định - cơ sở để tổ chức thi hành án. Với tư cách là
cơ quan xét xử, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên
chính xác, rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế. Việc Tòa án thực hiện tốt vai
trò của mình sẽ tạo điều kiện để công tác thi hành án diễn ra thuận lợi, nhanh
chóng, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Đó cũng có thể là Kho bạc, Bảo hiểm xã hội, các tổ chức tín dụng nơi
giữ tiền, tài sản là đối tượng được thi hành án. Hay đơn giản là những cá

nhân, tổ chức có quyền lợi về tài sản liên quan đến người phải thi hành án
(trường hợp có tài sản thuộc sở hữu chung, nhận chuyển nhượng tài sản là đối
tượng thi hành án...). Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp Chấp hành
viên và người được thi hành án không thể nắm hết được thông tin về tài sản
bảo đảm thi hành án của người phải thi hành án. Trong trường hợp này vai trò
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp thông tin là rất quan
trọng, giúp Chấp hành viên có thể thu thập thông tin về tài sản của người phải
thi hành án, qua đó đưa ra các quyết định kịp thời, bảo đảm quyền lợi cho
đương sự.
Để một bản án, quyết định được tổ chức thi hành thành công trên thực
tế, bảo đảm tối đa quyền lợi hợp pháp của đương sự thì không thể thiếu sự
phối hợp của các chủ thể này.
Nhằm tăng cường hiệu quả bảo đảm quyền của đương sự thì không thể
thiếu được đội ngũ Chấp hành viên. Điều 17 Luật THADS đã quy định: Chấp
hành viên là người được giao trách nhiệm thi hành án, quyết định của Tòa án
theo quy định của pháp luật. Qua đó cũng có thể hiểu được vai trò vô cùng
quan trọng của Chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ

19


và quyền hạn của mình, Chấp hành viên chỉ và phải tuân theo pháp luật, chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án được giao và được pháp luật
bảo vệ. Điều đó cho thấy hoạt động của Chấp hành viên vừa mang tính quyền
lực nhà nước, vừa thể hiện tính chuyên trách trong việc thực hiện pháp luật.
Quyền hạn và nhiệm vụ của Chấp hành viên được quy định cụ thể tại
Điều 20 Luật THADS như sau:
- Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định của Toa án; áp dụng đúng
các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích

của Nhà nước, quyền lợi hợp pháp của đương sự.
- Triệu tập đương sự để giải quyết việc thi hành án.
- Ấn định thời hạn để người phải thi hành án tự nguyện thi hành án theo
quy định của pháp luật.
- Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành; yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa
chỉ, tài sản của người phải thi hành án.
- Quyết định áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi
hành án theo quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể.
- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành án,
quyết định xử phạt hành chính theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan thi hành
án cùng cấp kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự...
Bên cạnh việc quy định những quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể đối với
Chấp hành viên, Luật THADS cũng quy định trách nhiệm của Chấp hành viên
khi không thi hành đúng bản án, quyết định của Tòa án, trì hoãn thi hành án
hoặc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án
trái với pháp luật, vi phạm đạo đức Chấp hành viên thì sẽ bị xử lý kỷ luật
hoặc truy cứu trách nhiệm nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

20


Như vậy, về cơ bản, Chấp hành viên có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc bảo đảm quyền và lợi ích của đương sự không bị xâm phạm. Đặc
biệt Chấp hành viên là người ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm, biện
pháp cưỡng chế thi hành án. Nếu áp dụng đúng các biện pháp bảo đảm hoặc
biện pháp cưỡng chế sẽ giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
được thi hành án nhưng nếu áp dụng sai sẽ làm phương hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người phải thi hành án.

Tóm lại, bảo đảm quyền của đương sự là nguyên tắc cơ bản và có tầm
quan trọng lớn trong pháp luật thi hành án dân sự nước ta hiện nay. Tất cả các
nguyên tắc còn lại đều có quan hệ gắn bó mật thiết với nguyên tắc trên, ngoài
việc tạo tính công bằng, minh bạch trong hoạt động thi hành án thì còn đều
hướng tới bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
Tiểu kết chƣơng 1
Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của đương sự nói riêng
trong hoạt động thi hành án dân sự là bảo đảm các yếu tố, điều kiện cần và đủ
cho quá trình thực hiện quyền con người trong lĩnh vực thi hành án dân sự,
hiệu quả cao nhất. Cho nên ngoài các yếu tố bảo đảm quyền của đương sự
trong hoạt động thi hành án dân sự, thì vấn đề về tổ chức và hoạt động của các
cơ quan thi hành án dân sự, về cơ sở vật chất kỹ thuật, về cơ chế đảm bảo sự
phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo thực hiện quyền con
người... cũng cần đặc biệt quan tâm.
Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm lý luận cơ bản
về khái niệm, đặc điểm quyền của đương sự trong hoạt động thi hành án dân
sự; nội dung quyền của đương sự, khái niệm bảo đảm quyền của đương sự và
các yếu tố bảo đảm quyền và cơ chế bảo đảm quyền của đương sự trong hoạt
động thi hành án dân sự.

21


×