Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ THU HẰNG

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN
LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quyền con người
Mã số:……………………………

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN LINH GIANG

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi.Các số liệu, ví dụ trong luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả luận văn

Bùi Thị Thu Hằng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM ...... 6
1.1. Khái niệm, nội dung quyền của người được nhận làm con nuôi .................. 6
1.2. Các điều kiện bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ............... 24
1.3. Cơ chế bảo đảm thực thi quyền của người được nhận làm con nuôi ............ 27
1.4. Các biện pháp bảo đảm thực thi quyền của người được nhận làm con nuôi . 35
Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................ 40
Chương 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC
NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................... 41
2.1. Tình hình nhận làm nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay .............................. 41
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt
Nam hiện nay ........................................................................................................ 46
2.3. Đánh giá tình hình thực hiện các quy định pháp luật về bảo đảm quyền
của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam ................................................... 53
Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................ 58
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................... 60
3.1. Quan điểm tăng cường bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi
ở Việt Nam hiện nay ............................................................................................. 60
3.2. Một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người được nhận làm
con nuôi ở Việt Nam ............................................................................................. 63
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 70
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 72


DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nội dung

CRC

Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em

Công ước La Hay

Công ước La Hay số 33 ngày 29/5/1993 về Bảo vệ trẻ em và
hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế có hiệu lực thi
hành tại Việt Nam từ ngày 01/02/2012

ICESCR

Công ước về các quyền Kinh tế xã hội và văn hóa

ICCPR

Công ước về các quyền Dân sự và chính trị

CEDAW

Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ

Nghị

định


19/2011/NĐ-CP

số Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Nuôi có nuôi quy định


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội phổ biến ở các quốc gia và được
pháp luật các nước điều chỉnh. Ở Việt Nam, nuôi con nuôi là vấn đề mang tính
nhân đạo sâu sắc, được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng, quan tâm, nhất
là trong hoàn cảnh đất nước phải chịu nhiều di chứng nặng nề của chiến tranh,
điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, mức thu nhập của nhân dân còn
thấp. Bên cạnh việc tạo dựng mái ấm gia đình thay thế cho trẻ em được nhận làm
con nuôi (đa phần trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn), việc nuôi con nuôi
còn đáp ứng nhu cầu chính đáng của người nhận con nuôi. Chính vì vậy, vấn đề
nuôi con nuôi ở Việt Nam đã được pháp luật điều chỉnh từ lâu và trong những
năm qua, pháp luật về nuôi con nuôi đã luôn được quan tâm hoàn thiện nhằm
góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình, khơi dậy tinh thần nhân đạo,
nhân văn của con người Việt Nam; giữ gìn, phát huy truyền thống tương thân
tương ái, lá lành đùm lá rách.
Ngoài việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về nuôi con nuôi,
Việt Nam cũng đã tham gia, ký kết nhiều Công ước quốc tế quan trọng liên quan
đến quyền con người, quyền trẻ em nói chung và quyền của người được cho làm
con nuôi nói riêng. Luật Nuôi con nuôi được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7
thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011, đã thống nhất và
quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các việc nuôi con nuôi trong nước
và nuôi con nuôi nước ngoài trong một đạo luật, tạo ra một cơ chế liên thông

trong việc giải quyết nuôi con nuôi, bảo đảm quyền của trẻ em được sống trong
môi trường gia đình, đặc biệt là môi trường gia đình gốc theo tinh thần của Công
ước Quốc tế về Quyền trẻ em (CRC) và Công ước La Hay số 33 ngày 29/5/1993
về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (Công ước La
Hay) mà Việt Nam là thành viên, có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày
01/02/2012.

1


Trong suốt thời gian thực hiện Luật nuôi con nuôi cùng các văn bản
hướng dẫn thi hành CRC và Công ước Lay Hay, công tác nuôi con nuôi đã đạt
được những kết quả nhất định. Việc bảo đảm các quyền và lợi ích của trẻ em
được cho làm con nuôi cũng được thực hiện có hiệu quả; thể chế pháp luật về
nuôi con nuôi cơ bản đã hoàn thiện và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, nhiều
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đã tìm được gia đình thay thế ở trong
nước và nước ngoài nhận nuôi; quyết định cho nhận trẻ em Việt Nam làm con
nuôi nước ngoài đương nhiên được công nhận tại 98 nước thành viên Công ước
La Hay. Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác quốc tế với những nước
nhận con nuôi nước ngoài như: Pháp, Italia, Thụy Điển, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha,
Đan Mạch, Hoa Kỳ, Đức, Canada, Thụy Sỹ, Ai Len, Na Uy, Luxembourg…
Bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi cũng chính là bảo đảm
các quyền con người được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của Việt Nam năm
1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Hiến pháp năm 2013 đã dành riêng Chương II
để quy định Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Cụ thể,
tại Khoản 1 Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
và Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định “1. Mọi người đều có quyền bình đẳng
trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự,

kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của các cơ
quan, bộ, ban, ngành, tổ chức xã hội trong việc phối hợp thực hiện tốt trách
nhiệm của mình nhằm bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi được
thực thi trên thực tế đúng quy định pháp luật, tạo cơ hội tốt nhất cho đối tượng
này thực hiện tốt quyền của mình là có được một mái ấm gia đình thay thế, phù
hợp, được sống trong một môi trường gia đình trong lành, hạnh phúc, được chăm
sóc, nuôi dưỡng, học tập và phát triển toàn diện về mọi mặt như bao trẻ em khác.
Do đó, bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi được đặt ra như một
vấn đề thiết yếu, cần được xem xét một cách thấu đáo về mặt lý luận và thực tiễn

2


để đưa ra những đánh giá toàn diện về việc bảo đảm quyền này ở Việt Nam hiện
nay. Xuất phát từ yêu cầu đó, học viên lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền của
người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc
sỹ, chuyên ngành quyền con người, với mong muốn góp phần tăng cường bảo
đảm một trong những quyền cơ bản của con người ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là một vấn đề tác động không nhỏ đến nhiều mặt của xã hội. Lĩnh
vực nuôi con nuôi luôn thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu lý luận, các học viên, các nhà quản lý ở nhiều góc độ, khía cạnh
khác nhau, cụ thể như:
Nguyễn Hoàng Yến (2012), luận văn thạc sỹ: “Quyền của trẻ em Việt
Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi”, Học viện Khoa học xã hội,
Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam;
Lê Thị Hiền (2012), luận văn thạc sỹ: “Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài tại Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật nước ngoài”,
Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;

Vũ Kim Dung (2013), luận văn thạc sỹ “Pháp luật về nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài của Việt Nam trong mối tương quan với Công ước Lahay”,
Khoa luật, Đại Học Quốc gia Hà Nội;
Vũ Thị Kiều Anh (2014), luận văn thạc sỹ: “So sánh pháp luật về nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và một số nước trên thế giới – Bài
học kinh nghiệm và hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam”, Khoa luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội;
Những đề tài này chủ yếu tiếp cận nghiên cứu ở góc độ tìm hiểu các quy
định pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, có so sánh
với pháp luật một số nước trên thế giới, có liên hệ với quy định của Công ước La
Hay và có tiếp cận đến góc độ quyền của trẻ em Việt Nam được người nước
ngoài nhận làm con nuôi, nhưng chưa đề cập đến vấn đề bảo đảm quyền và cũng
chưa tiếp cận một cách tổng quát về quyền của người được nhận làm con nuôi
mà mới chỉ dừng lại ở vấn đề quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi có yếu

3


tố nước ngoài. Như vậy, cho đến nay chưa có một đề tài nào trực diện đề cập đến
việc bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay từ
góc độ quyền con người và trong quy mô một đề tài nghiên cứu có tính hệ thống.
Do đó, việc lựa chọn đề tài này để nghiên cứu từ góc độ quyền con người có ý
nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu tổng quát của đề tài là xây dựng luận cứ khoa học
cho việc đề xuất giải pháp tăng cường việc bảo đảm quyền của người được nhận
làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyền của người được nhận làm

con nuôi.
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền của
người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay, chỉ rõ những kết quả đạt
được, những hạn chế, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật ở Việt Nam về bảo
đảm quyền của người được nhận làm con nuôi.
Phân tích, đánh giá các điều kiện (điều kiện về chính trị, pháp lý, kinh tế,
xã hội…) bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam.
Nghiên cứu các mối quan hệ có liên quan đến bảo đảm quyền của người
được nhận làm con nuôi ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo
đảm quyền của người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu việc bảo đảm quyền của người được nhận
làm con nuôi ở Việt Nam từ năm 2011 đến 2016.

4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn lựa chọn cách tiếp dựa trên quyền, sử dụng phương pháp nghiên
cứu đa ngành, liên ngành khoa học xã hội, lấy khoa học pháp lý là lát cắt chủ đạo.
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu luận văn là quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chính sách của Đảng về quyền con người nói chung và quyền được
nhận làm con nuôi nói riêng.
Các phương pháp cụ thể được áp dụng trong nghiên cứu luận văn bao
gồm: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh,

phương pháp xã hội học pháp luật…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Làm sáng tỏ khái niệm, nội dung quyền được nhận làm con nuôi, xác định
các yếu tố hợp thành cơ chế bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi và các điều
kiện bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
Luận chứng về một số giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường việc bảo
đảm quyền được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần nhận thức rõ hơn về quyền được
nhận làm con nuôi và nhu cầu bảo đảm quyền được nhận làm con nuôi ở Việt
Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu luận văn có giá trị tham khảo trong việc xây dựng các
phương án lập pháp áp dụng vào thực tiễn công tác quản lý của các cơ quan hữu
quan, và các đơn vị trong ngành Tư pháp ở Việt Nam.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm quyền của
người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam.
Chương II. Thực trạng bảo đảm quyền của người được nhận làm con nuôi
ở Việt Nam hiện nay.
Chương III. Quan điểm và giải pháp tăng cường việc bảo đảm quyền của
người được nhận làm con nuôi ở Việt Nam hiện nay.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI Ở VIỆT NAM


1.1.

Khái niệm, nội dung quyền của người được nhận làm con nuôi

1.1.1. Khái niệm quyền của người được nhận làm con nuôi
1.1.1.1. Khái niệm con nuôi và nuôi con nuôi
Trong các văn kiện quốc tế về quyền con người không có định nghĩa cụ
thể về con nuôi và nuôi con nuôi, tuy nhiên định nghĩa này được ghi nhận trong
pháp luật của nhiều nước trên thế giới như sau:
a- Pháp luật của Liên Bang Nga
Theo quy định tại Điều 124 Bộ luật gia đình của Liên Bang Nga (trích)
các quy định về nuôi con nuôi, thì nuôi con nuôi là hình thức ưu tiên trong việc
thu xếp mái ấm cho những trẻ em không được cha mẹ đẻ chăm sóc[35, Tr. 316].
b- Pháp luật của Guatemala
Theo quy định tại Điều 2 Luật Con nuôi của Guatemala thì việc nhận nuôi
con nuôi được hiểu là việc trẻ em được nhận làm con nuôi để bảo vệ theo quy
định của pháp luật và sắc lệnh được nhà nước giám sát theo đó một người nhận
con ruột hoặc con của người khác làm con nuôi.
Con nuôi quốc tế: là việc nhận con nuôi theo đó đứa trẻ thường trú hợp
pháp tại Guatemala được đưa đến một nước khác làm con nuôi.
Con nuôi trong nước: là cha mẹ nuôi và con nuôi là người thường trú hợp
pháp tại Guatemala[35, Tr. 345].
c- Pháp luật Việt Nam
- Con nuôi: là người được nhận làm con nuôi; có con nuôi trong nước và
con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Con nuôi trong nước: là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
nhau thường trú ở Việt Nam.
Con nuôi nước ngoài: là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa
công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.


6


Theo quy định tại Khoản 3, Điều 3 Luật Nuôi con nuôi thì con nuôi là
người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đăng ký.
- Nuôi con nuôi: là việc một người độc thân hoặc một cặp vợ chồng (có
đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật) có đủ điều kiện về kinh tế, sức khỏe,
chỗ ở…, xin nhận một hoặc nhiều trẻ em làm con nuôi, nhằm chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con nuôi với mục đích xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài,
bền vững giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Và việc nuôi
con nuôi này hoàn toàn không vi phạm các điều cấm, được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định[36,
tr.7]. Như vậy, việc nuôi con nuôi phải đáp ứng những đặc điểm, bản chất nói
trên, nếu không hướng tới hoặc không phù hợp với mục đích xác lập quan hệ
cha, mẹ và con trên thực tế thì quan hệ đó không được công nhận là quan hệ nuôi
con nuôi.
Nuôi con nuôi có hai hình thức là nuôi con nuôi theo quy định pháp luật
và nuôi con nuôi theo phong tục tập quán. Tuy nhiên, hình thức nuôi con nuôi
theo phong tục tập quán, tuy pháp luật không nghiêm cấm, nhưng không được
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không được công nhận[36, tr.8].
Nuôi con nuôi theo quy định pháp luật là việc nuôi con nuôi đáp ứng đủ
các điều kiện do pháp luật quy định và được đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Đó là hình thức nuôi con nuôi duy nhất được Nhà nước công nhận
và bảo hộ.
Nuôi con nuôi theo phong tục tập quán là những hiện tượng nuôi con nuôi
có tính tự phát trong nhân dân, xuất phát từ tình cảm, tình nghĩa, ân nghĩa hoặc
tập quán khác mà không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 Luật nuôi con nuôi thì nuôi con nuôi là

việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được
nhận làm con nuôi.
1.1.1.2. Khái niệm quyền của người được nhận làm con nuôi
Về mặt lý luận, từ cách tiếp cận dựa trên quyền thì quyền của người được
nhận làm con nuôi chính là quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi. Các
quyền này được quy định trực tiếp và gián tiếp trong pháp luật quốc tế và pháp

7


luật quốc gia. Cụ thể, trong CRC có nói đến việc bảo vệ quyền và đảm bảo phúc
lợi trẻ em trong đó có việc bảo trợ và nuôi con nuôi. Trong Công ước này đã có
những nguyên tắc nền tảng bảo vệ quyền trẻ em nói chung và cũng để áp dụng
bảo vệ quyền của trẻ em làm con nuôi như các nguyên tắc: Không phân biệt đối
xử (đảm bảo quyền trẻ em được nhận làm con nuôi không bị phân biệt đối xử
trong môi trường gia đình, nhà trường và xã hội); đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ
em (bao gồm cả lợi ích của trẻ em làm con nuôi); tôn trọng ý kiến, quan điểm
của trẻ em... Đồng thời, Công ước này cũng có những quy định đặc biệt liên
quan đến đối tượng trẻ em là con nuôi. Điều 11 Công ước quy định về nghĩa vụ
quốc gia phải có các biện pháp chống lại việc mang trẻ em ra nước ngoài bất hợp
pháp và các quốc gia phải ký kết hiệp định song phương hoặc đa phương về vấn
đề này. Điều 20, 21 Công ước quy định trực tiếp liên quan đến quyền trẻ em
được nhận làm con nuôi. Theo đó, các quốc gia thành viên của CRC thừa nhận
hoặc cho phép việc nhận làm con nuôi phải đảm bảo rằng những lợi ích tốt nhất
của trẻ em phải là mối quan tâm cao nhất trong vấn đề này.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013, đã kế thừa và thể hiện một bước chuyển
mới rất quan trọng khi ghi nhận các quyền con người tại Chương 2, bổ sung
thêm nhiều quyền mới, chuẩn hóa các hình thức ghi nhận và nội dung các quyền
cụ thể được quy định từ Điều 14 đến Điều 49 nhằm tăng cường trách nhiệm của
Nhà nước trong bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013

khẳng định: “…mọi công dân đều có quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; được nhà nước bảo
hộ…”. Khoản 1, Điều 37 Hiến pháp cũng ghi nhận: "Trẻ em được Nhà nước, gia
đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về
trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức
lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em". Các quy định này là cơ
sở quan trọng để hình thành các quy định pháp luật bảo vệ quyền trẻ em nói
chung và quyền của trẻ em được nhận làm con nuôi nói riêng.
Theo quy định của Luật nuôi con nuôi thì quyền của người được nhận làm
con nuôi được hiểu là quyền của trẻ em dưới 16 tuổi, người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi được nhận làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế hoặc làm con nuôi
của cô, cậu, dì, chú, bác ruột. Tuy nhiên, việc nuôi con nuôi sẽ được ưu tiên thực

8


hiện đối với trẻ em vì lý do nào đó không có mái ấm gia đình, ví dụ như: trẻ em
bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi... Việc nuôi con nuôi cũng được thực hiện với trẻ em tuy
có gia đình gốc, nhưng việc tiếp tục để trẻ em tại gia đình gốc sẽ ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích của trẻ em. Ví dụ: trẻ em bị cha mẹ lạm dụng, ngược đãi, đánh
đập… vấn đề này cũng phù hợp với quy định tại Điều 9 của CRC “Các quốc gia
thành viên phải bảo đảm rằng trẻ em không bị cách ly cha mẹ trái với mong
muốn của họ, trừ khi nhà chức trách có thẩm quyền chịu sự xem xét của tòa án
quyết định theo luật pháp và các thủ tục áp dụng thì việc cách ly như thế là cần
thiết vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Quyết định như thế có thể là cần thiết trong
trường hợp đặc biệt như trẻ em bị cha mẹ lạm dụng hay xao nhãng, hoặc khi
cha mẹ sống cách ly và cần phải có một quyết định mới về nơi cư trú của trẻ...”.
Cần phân biệt quyền của người được nhận làm con nuôi với quyền nuôi
con nuôi. Quyền nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi đều là quyền
dân sự của cá nhân đã được nhà nước công nhận và được pháp luật bảo hộ.

Nhưng quyền nuôi con nuôi được hiểu là khi một người độc thân (không phân
biệt nam/nữ) hoặc một cặp vợ chồng có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy
định pháp luật và có nguyện vọng nhận một hay nhiều trẻ em làm con nuôi, thì
được xem xét giải quyết mà không phụ thuộc vào việc người đó đã có con đẻ
hay chưa.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu quyền của người được nhận làm con
nuôi là quyền con người, được Nhà nước công nhận và được pháp luật bảo vệ
nhằm mục đích xác lập quan hệ gia đình bền vững, vì lợi ích tốt nhất cho người
được nhận làm con nuôi, đảm bảo cho họ được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
trong môi trường gia đình
1.1.1.3. Đặc điểm quyền của người được nhận làm con nuôi
Thứ nhất, quyền được nhận làm con nuôi là một quyền con người.
Tại Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền Quốc tế 1948 quy định: “Mọi người
sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền…”. Đồng thời,
Tuyên ngôn cũng khẳng định trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc
biệt. Lời nói đầu của CRC cũng công nhận rằng, để phát triển đầy đủ và hài hòa

9


nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên trong môi trường gia đình, trong
bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông.
Từ cách tiếp cận dựa trên quyền, với sự ra đời của CRC, trẻ em đã trở
thành một chủ thể của quyền con người, các quyền trẻ em đồng thời cũng là các
quyền con người, đòi hỏi nghĩa vụ tôn trọng, thực hiện và bảo vệ từ phía Nhà
nước. Quyền được nhận làm con nuôi thực chất là một quyền nhằm đảm bảo cho
trẻ em trong một số hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn nhưng vẫn có cơ hội và điều
kiện có một mái ấm gia đình, được yêu thương, dạy dỗ để phát triển toàn diện
mà không bị phân biệt đối xử.
Điều 20 và Điều 21 của CRC cũng đã đề cập trực tiếp đến quyền của trẻ

em được nhận làm con nuôi và nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo
những lợi ích tốt nhất cho các em. Như vậy, quyền được nhận làm con nuôi cũng
là một quyền trẻ em, hay một quyền con người.
Thứ hai, quyền được nhận làm con nuôi liên quan mật thiết với việc hiện
thực hóa các quyền con người khác.
Gia đình là môi trường xã hội tự nhiên và phù hợp nhất cho sự phát triển
toàn diện cả về thể chất và tinh thần của mỗi người. Không ai có thể phủ nhận
rằng, môi trường gia đình chính là nơi phù hợp nhất để nuôi dưỡng trẻ em. Mỗi
đứa trẻ cần được chuẩn bị đầy đủ về thể chất, tinh thần, cần được nuôi dưỡng, giáo
dục để được trưởng thành trong môi trường yêu thương, tôn trọng, bình đẳng và
nhân ái. Gia đình là cái nôi đầu tiên và quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện
của mỗi đứa trẻ. Chính vì vậy, để cho mọi trẻ em đều được lớn lên trong một gia
đình hạnh phúc, yêu thương và cảm thông là mục tiêu của mọi xã hội, mọi Nhà
nước. Mục tiêu này còn là nghĩa vụ phải thực hiện khi các quốc gia trở thành
thành viên của các Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có CRC.
Việc đảm bảo cho trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt được nhận làm con
nuôi chính là đảm bảo quyền được nuôi dưỡng và trưởng thành trong môi trường
gia đình của các em. Do đó, quyền được nhận làm con nuôi có liên quan chặt chẽ
đến các quyền khác của trẻ em bao gồm: quyền được sống, quyền được đăng ký
khai sinh, quyền có họ tên, quyền có quốc tịch, quyền biết về cha mẹ mình và

10


được cha mẹ chăm sóc sau khi ra đời, quyền được bày tỏ ý kiến, quyền tự do tư
tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo của trẻ em, quyền được luật pháp bảo vệ, quyền
được hưởng sự bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt của Nhà nước, quyền được học tập,
quyền có mức sống đủ để phát triển thể chất trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã
hội… Quyền được nhận làm con nuôi đảm bảo cho trẻ em có đầy đủ các quyền
trên, đảm bảo cho trẻ em được phát triển toàn diện trong môi trường hạnh phúc.

Thứ ba, quyền được nhận làm con nuôi là một quyền quan trọng liên quan
đến các vấn đề về an sinh xã hội.
Quyền được nhận làm con nuôi liên quan đến tính mạng, cuộc sống con
người trước nguy cơ không có người chăm sóc, nuôi dưỡng. Trẻ em bị bỏ rơi, trẻ
em mồ côi hiện nay đã và đang là hiện tượng diễn ra hàng ngày ở khắp nơi trên
thế giới. Những trẻ em này bị mất đi cơ hội được chăm sóc, nuôi dưỡng như bao
trẻ em khác, việc chăm sóc, nuôi dưỡng các em là đòi hỏi của một xã hội văn
minh, là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi Nhà nước và liên quan mật thiết với
vấn đề an sinh xã hội.
1.1.2. Nội dung quyền của người được nhận làm con nuôi
1.1.2.1. Quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc
Gia đình gốc được hiểu là gia đình của những người có quan hệ huyết
thống. Thông thường gia đình gốc bao gồm cha, mẹ và con đẻ, ông/bà nội, ngoại
và cháu, anh chị em ruột, cô, cậu, dì, chú, bác ruột, do luật không quy định hạn
chế, nên có thể hiểu gia đình gốc theo nghĩa rộng, gồm những người có quan hệ
huyết thống không phân biệt cách nhau bao nhiêu đời, bao nhiêu thế hệ, có quan
hệ huyết thống xét cả về mặt trực hệ và bang hệ. Như vậy, một trong những
quyền cơ bản của trẻ em là được sống trong môi trường gia đình gốc với cha mẹ
đẻ, anh chị em ruột, ông/bà nội/ngoại, cô, cậu, dì, chú, bác ruột[36, tr.12].
Việc bảo đảm cho trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc tạo
điều kiện quan trọng để trẻ em phát triển một cách toàn diện về tình cảm, trí tuệ
và thể chất bình thường. Môi trường gia đình gốc là môi trường nuôi dưỡng, bao
bọc, giữ gìn và bảo vệ cá nhân và cũng là môi trường sản sinh ra tình cảm yêu
thương, gần gũi, gắn bó máu thịt giữa những người trong gia đình với nhau từ

11


khi sinh ra cho đến khi chết đi. Do đó, mọi sự tước đoạt trẻ em ra khỏi môi trường
gia đình gốc một cách bất hợp pháp đều bị lên án và phải kịp thời ngăn ngừa và xử

lý nghiêm minh. Tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình
gốc đã được cộng đồng quốc tế tôn trọng và thừa nhận là một nguyên tắc, được
ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế liên quan đến trẻ em.
Tại Điều 3, Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc pháp lý và xã
hội liên quan đến phúc lợi và bảo vệ trẻ em ghi nhận: “Ưu tiên hàng đầu đối với
trẻ em là phải được cha mẹ đẻ chăm sóc”.
Trong Lời nói đầu của CRC cũng cho rằng: “Gia đình với tư cách là nhóm
xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả
thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết có
thể đảm đương được đầy đủ các trách nhiệm của mình trong cộng đồng. Để
được phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em cần được lớn lên
trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm
thông”.
Trong Lời nói đầu của Công ước La Hay cũng đề cập đến:“Mỗi nước cần
phải ưu tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể được chăm sóc
trong gia đình gốc của mình”.
Nội luật hóa các quy định trong CRC và Công ước La Hay, Điều 4 Luật
nuôi con nuôi quy định: “Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền
của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc”.
Tiếp đến Điều 22 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền
sống chung với cha, mẹ; được cả cha và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ
trường hợp cách ly cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất
của trẻ em”.
Việc trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc cùng với cha, mẹ đẻ
và những người thân thích khác là một trong những quyền quan trọng của trẻ em.
Để bảo đảm quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc, thì
trước tiên cha, mẹ đẻ cần nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng đối với con đẻ của mình phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, mức sống của

12



từng gia đình. Trường hợp bất khả kháng cha mẹ không thể chăm sóc, nuôi
dưỡng được con (bị chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, mất khả năng
lao động, tàn tật, mắc bệnh hiểm nghèo, không có thu nhập…) thì anh chị ruột,
ông/bà nội/ngoại, cô, dì, chú, bác ruột có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em
đó theo truyền thống đạo lý của dân tộc.
Tôn trọng quyền trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc, tức là
tôn trọng quy luật tự nhiên và xã hội, bảo đảm sự phát triển bình thường, hài hòa
và đầy đủ của trẻ em. Trong khi xem xét giải quyết việc nuôi con nuôi, cần chú ý
xem xét điều này. Không đưa trẻ em rời khỏi môi trường gia đình gốc trái ý chí,
nguyện vọng và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Chừng nào gia đình vẫn còn khả
năng và điều kiện thực tế để nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em, thì chừng đó cần tiếp
tục duy trì trẻ em tại gia đình. Trường hợp bất đắc dĩ phải cho trẻ em đi làm con
nuôi, thì đây chỉ được coi là giải pháp cuối cùng, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
1.1.2.2. Quyền được tìm gia đình thay thế
Gia đình thay thế là gia đình nhận trẻ em làm con nuôi, tức là gia đình cha
mẹ nuôi. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, trẻ em làm con nuôi còn có
quan hệ với các thành viên khác (những người thân thích) trong gia đình của cha
mẹ nuôi. Do đó, có thể nói đầy đủ là gia đình thay thế bao gồm cha, mẹ nuôi và
những thành viên trong gia đình cha mẹ nuôi như các con của cha mẹ nuôi, cha
mẹ của cha mẹ nuôi (ông/bà nội/ngoại), anh chị em của cha mẹ nuôi (cô, dì, chú,
bác của cha mẹ nuôi). Sau khi nhận trẻ em làm con nuôi, trẻ em trở thành một
thành viên mới của gia đình cha mẹ nuôi, vì thế trẻ em có quan hệ với tất cả các
thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi. Giữa con nuôi với các thành viên
khác trong gia đình cha mẹ nuôi cũng phát sinh các quyền và nghĩa vụ liên quan
đến nhân thân, tình cảm, trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đối với
nhau, kể cả vấn đề đại diện, giám hộ, quyền thừa kế tài sản theo quy định pháp
luật[36, tr.12-13].
Trẻ em cần có gia đình thay thế thường là trẻ em vì những lý do nào đó

không được sống trong môi trường gia đình gốc của mình, đó là những trẻ em bị
mồ côi cha mẹ và không còn người thân thích để chăm sóc, nuôi dưỡng; trẻ em

13


bỏ rơi; trẻ em khác mà cha mẹ không thể nuôi dưỡng, chăm sóc (do mất năng lực
hành vi dân sự, tàn tật, mất khả năng lao động và không có thu nhập…). Tuy
nhiên, trong một số trường hợp cá biệt, trẻ em tuy vẫn có cha mẹ đẻ, nhưng vì
mục đích bảo đảm an toàn tính mạng, nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của trẻ em
và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em đòi hỏi phải đưa trẻ em ra khỏi môi trường gia
đình gốc (do cha mẹ nghiện ngập bỏ bê việc nuôi dưỡng...).
Trẻ em có quyền được tìm gia đình thay thế khi trẻ bị mất đi gia đình gốc
một cách chủ quan (trẻ em bị bỏ rơi) hay khách quan (trẻ em bị mồ côi cả cha lẫn
mẹ).Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em là một trong những biện pháp tốt nhất
được đặt ra nhằm đảm bảo quyền được chăm sóc thay thế của trẻ. Quyền được
tìm gia đình thay thế là để bảo đảm cho những trẻ em không may mắn có một gia
đình có thể có cơ hội được nhận làm con nuôi trong nước hoặc nước ngoài.
Tại Khoản 1, Điều 20 của CRC quy định: “Những trẻ em tạm thời hay
vĩnh viễn bị tước mất môi trường gia đình của mình, hoặc vì những lợi ích tốt
nhất của chính bản thân các em mà không được phép tiếp tục ở trong môi
trường ấy phải có quyền được hưởng sự bảo vệ, giúp đỡ đặc biệt của Nhà
nước”. Và tại Điều 21.b của CRC quy định: “Công nhận rằng việc trẻ em làm
con nuôi nước ngoài có thể được coi như một biện pháp thay thế của việc chăm
sóc trẻ em, nếu trẻ em đó không thể gửi được cho một gia đình bảo trợ hay nhận
nuôi, hoặc không thể nào được chăm sóc một cách thích hợp ở ngay tại quốc gia
gốc của trẻ em”.
Trong Lời nói đầu của Công ước La Hay chỉ ra rằng: “Vấn đề nuôi con
nuôi quốc tế có thể có lợi thế đem lại một gia đình lâu dài cho trẻ em không tìm
được một gia đình thích hợp tại nước gốc của mình và nuôi con nuôi quốc tế

được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của
trẻ em, để ngăn chặn việc bắt cóc, bán hoặc buôn trẻ em” và “Thiết lập những
bảo đảm về nuôi con nuôi quốc tế diễn ra là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tôn
trọng các quyền cơ bản của trẻ em được công nhận trong luật pháp quốc tế”
(Điều 1.a Công ước La Hay).
Để đảm bảo quyền tìm gia đình thay thế cho trẻ em, Điều 22 Luật Trẻ em
quy định: “Trẻ em được chăm sóc thay thế khi không còn cha mẹ; không được

14


hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ; bị ảnh hưởng thiên tai, thảm họa, xung
đột vũ trang vì sự an toàn và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Trẻ em được nhận
làm con nuôi theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi”.
Quy định này trong việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi, trước hết là
căn cứ vào yếu tố gia đình, sau đó là yếu tố họ hàng, rồi đến yếu tố quốc tịch gắn
liền với lãnh thổ, cuối cùng mới đến nước ngoài. Để bảo đảm cho trẻ em thực
hiện tốt quyền được tìm gia đình thay thế, Điều 15 Luật nuôi con nuôi quy định
rất cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tìm gia đình
thay thế cho trẻ em trong trường hợp trẻ em không được nuôi dưỡng trong môi
trường gia đình gốc thì cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm tìm
gia đình thay thế cho trẻ em đó.
Về nguyên tắc, trẻ em phải được ưu tiên sống trong gia đình gốc, nếu
không được mới giải quyết cho làm con nuôi trong nước và cuối cùng mới cho
làm con nuôi nước ngoài. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều phải thực
hiện lần lượt theo thứ tự ưu tiên tìm gia đình thay thế cho trẻ em làm con nuôi
trong nước rồi mới đến làm con nuôi nước ngoài. Trong những trường hợp nhất
định, vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em chỉ có thể đạt được khi cho trẻ em làm con
nuôi nước ngoài. Chẳng hạn, trong trường hợp đoàn tụ gia đình (làm con nuôi
của người có quan hệ họ hàng hoặc cha dượng, mẹ kế); trường hợp trẻ mắc bệnh

hiểm nghèo mà người trong nước không đủ điều kiện để nhận nuôi hoặc trẻ em
đã lớn tuổi mà cơ hội được nhận làm con nuôi bị hạn chế. Đối với những trường
hợp này, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật nuôi con nuôi cho phép không cần phải tiến hành biện pháp tìm gia đình
thay thế trong nước, không phải thông qua thủ tục giới thiệu trẻ em mà được giải
quyết cho làm con nuôi người nước ngoài theo thủ tục nhận con nuôi đích danh.
Như vậy, quyền được tìm gia đình thay thế là một quyền cơ bản quan
trọng của trẻ em sống trong hoàn cảnh đặc biệt. Quyền này tạo ra cho trẻ em
một cơ hội có được một gia đình, được chăm sóc, nuôi dưỡng, thương yêu,
chia sẻ và hưởng thụ những tình cảm hạnh phúc gia đình, được học tập, phát
triển toàn diện về mọi mặt như bao trẻ em khác. Gia đình sẽ là điểm tựa là
cái nôi nuôi dưỡng ước mơ, là vườn ươm biến những ước mơ của trẻ em trở

15


thành hiện thực. Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em vừa mang tính nhân văn,
vừa mang tính nhân đạo sâu sắc.
1.1.2.3. Quyền được bày tỏ ý kiến đồng ý làm con nuôi
Trong hoạt động nuôi con nuôi, bảo đảm và tôn trọng lợi ích của trẻ em là
mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia. Tôn trọng quyền của trẻ em, quyền
được bày tỏ ý kiến đồng ý làm con nuôi là rất quan trọng, quyết định đến tương
lai của trẻ em được cho làm con nuôi. Điều 12 của CRC quy định: “Các quốc
gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành các quan
điểm riêng của mình được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất cả
các vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được
coi trọng một cách phù hợp với tuổi và độ trưởng thành của trẻ em. Vì mục đích
đó, trẻ em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá
trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến trẻ em, hoặc trực
tiếp thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức

phù hợp với những quy định mang tính thủ tục của luật pháp quốc gia”. Công
ước La Hay quy định trẻ em đồng ý làm con nuôi, theo những hình thức do pháp
luật đòi hỏi và sự đồng ý đó được thể hiện hoặc xác nhận bằng văn bản, nếu đòi
hỏi phải có sự đồng ý này.
Tương đồng với các quy định trong CRC và Công ước La Hay, Luật nuôi
con nuôi quy định trường hợp nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi thì
phải có sự đồng ý của trẻ em đó. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung
thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không
kèm yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Sự đồng ý hoàn toàn tự nguyện,
tức là đồng ý vô điều kiện, không kèm theo bất kỳ một khoản tiền hay bồi
thường nào, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ sự khiếm khuyết nào (có thể là sự
lừa dối, xuyên tạc, cưỡng ép, gây ảnh hưởng thái quá hoặc do hiểu nhầm).
Không chỉ trẻ em mà những chủ thể có liên quan đến việc cho nhận con nuôi
phải đưa ra sự đồng ý một cách tự nguyện. Tự nguyện cũng là một trong những
nguyên tắc được thừa nhận tại Điều 4 Công ước La Hay.

16


Bên cạnh việc quy định lấy ý kiến đồng ý làm con nuôi của trẻ em được
nhận làm con nuôi, không chỉ trong pháp luật quốc tế mà pháp luật về nuôi con
nuôi của Việt Nam (Điều 21 Luật nuôi con nuôi) cũng quy định rất cụ thể về
việc nuôi con nuôi phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm
con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự
hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha
mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định
được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ. Những người đồng ý cho trẻ
em đi làm con nuôi phải được tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; quyền,
nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con
sau khi người đó được nhận làm con nuôi. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con

làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày…
Đối với trường hợp là trẻ em bị bỏ rơi đang sống ở cơ sở nuôi dưỡng, do
không xác định được cha, mẹ đẻ của trẻ em, nên đối với trường hợp này chỉ cần
lấy ý kiến của Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng nơi đang trực tiếp thực hiện việc
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi về việc cho trẻ em đi làm con nuôi.
Tuy nhiên, một trong những yêu cầu lấy ý kiến của những người có liên
quan đó là những người này phải được tư vấn đầy đủ về mục đích, các quyền và
nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; cha mẹ đẻ và con sau khi trẻ em đó được
nhận làm con nuôi để đảm bảo có thể trẻ em sẽ được tiếp tục nuôi dưỡng tại môi
trường gia đình gốc. Đồng thời, cũng cần đánh giá lại điều kiện, hoàn cảnh gia
đình, khả năng nuôi dưỡng trẻ em trong môi trường gia đình gốc về mặt được và
chưa được của việc trẻ em đi làm con nuôi trước khi những người có liên quan
đưa ra ý kiến đồng ý về việc cho trẻ em làm con nuôi. Việc lấy ý kiến đồng ý
phải được lập thành văn bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người được lấy
ý kiến.
1.1.2.4. Quyền được đối xử như con đẻ
Nuôi con nuôi là nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững,
vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi
được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình. Việc nuôi con

17


nuôi xét về quyền và lợi ích hợp pháp thì con nuôi hay con đẻ đều có quyền
ngang nhau. Cha mẹ nuôi không được phân biệt giữa con đẻ của mình và con
nuôi. Phân biệt đối xử giữa con đẻ với con nuôi sẽ dẫn đến quyền và lợi ích của
con nuôi không được bảo đảm, tổn thương và ảnh hưởng không tốt đến sự phát
triển bình thường của con nuôi. Vì vậy, nếu trong môi trường gia đình nuôi mà
có sự phân biệt giữa con đẻ và con nuôi thì mục đích của việc nuôi con nuôi
không đạt được và việc duy trì quan hệ nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt.

Tại Khoản 2, Điều 2 của CRC quy định: “Các quốc gia thành viên phải
thi hành tất cả các biện pháp thích hợp để đảm bảo cho trẻ em được bảo vệ
tránh khỏi tất cả các hình thức phân biệt đối xử hoặc trừng phạt trên cơ sở địa
vị, hoạt động, những ý kiến phát biểu hoặc tín ngưỡng của cha mẹ, người giám
hộ pháp lý hoặc những thành viên khác của trẻ em”. Để bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của con nuôi, Điều 13 Luật nuôi con nuôi quy định các hành vi
cấm phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi. Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm
dứt trong trường hợp cha mẹ nuôi có hành vi phân biệt đối xử giữa con đẻ và con
nuôi. Điều 68 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2013 quy định: “Giữa con nuôi
và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con”.
Vì lợi ích tốt nhất của trẻ em mà đưa đến quyết định cho trẻ em đi làm con
nuôi. Do đó, việc nuôi con nuôi phải xuất phát từ lợi ích tốt nhất của trẻ em và
phải đảm bảo trẻ em được sinh sống bình thường. Các quyền và lợi ích của trẻ
em được nhận làm con nuôi sẽ giống như con đẻ. Pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế đã quy định về việc bảo đảm cho trẻ em tránh khỏi tất cả các hình thức
phân biệt đối xử và trong trường hợp có sự phân biệt đối xử giữa con đẻ và con
nuôi thì việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt để kịp thời bảo vệ quyền được đối
xử như con đẻ của trẻ em được nhận làm con nuôi.
1.1.2.5. Quyền được thay đổi họ, tên, quốc tịch
Quyền được thay đổi họ, tên, quốc tịch của con nuôi được đặt ra như một
yêu cầu tất yếu trong quan hệ nuôi con nuôi. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan
hệ cha mẹ nuôi và con nuôi nên trong gia đình, cha mẹ nuôi và con nuôi cần có
quan hệ chặt chẽ, gắn bó có các quyền và nghĩa vụ như cha mẹ đẻ và con đẻ. Chỉ
như vậy con nuôi mới hòa nhập vào gia đình của cha mẹ nuôi. Do đó, nhằm bảo
đảm sự hòa nhập một cách thực sự của con nuôi vào gia đình cha, mẹ nuôi, tại

18


Khoản 2, Điều 24 Luật nuôi con nuôi quy định con nuôi được thay đổi họ, tên

theo họ của cha, mẹ nuôi. Đối với trẻ em từ 9 tuổi trở lên, thì việc thay đổi họ,
tên theo họ của cha mẹ nuôi cần có sự đồng ý của trẻ em đó.
Vấn đề thay đổi họ, tên, quốc tịch của người được nhận làm con nuôi
được rất nhiều người quan tâm vì khi con nuôi được thay đổi họ, tên, quốc tịch
sẽ tránh được sự mặc cảm khi thấy họ, tên, quốc tịch của mình khác với dân tộc
của cha mẹ nuôi và các thành viên khác trong gia đình. Tuy nhiên, quốc tịch của
cá nhân gắn liền với dân tộc, văn hóa thể hiện nguồn gốc huyết thống. Điều 27
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước
có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ tên trong trường hợp thay đổi họ cho
con nuôi từ họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ sang họ của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo
yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi. Việc thay đổi họ cho người từ đủ 9 tuổi trở lên
phải có sự đồng ý của người đó. Điều 28 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá
nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi
tên trong trường hợp theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho
con nuôi ….. Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm
con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, sự thay đổi quốc tịch của con nuôi từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đó
(Khoản 4 Điều 37 Luật Quốc tịch năm 2008).
Để đảm bảo cho con nuôi được hòa nhập tốt vào môi trường gia đình cha
mẹ nuôi, pháp luật Việt Nam đã quy định rất cụ thể về quyền được thay đổi họ,
tên, quốc tịch của người được nhận làm con nuôi. Đây là quy định nhằm bảo
đảm về mặt pháp lý khi trẻ em có nguyện vọng hoặc cha mẹ nuôi có yêu cầu
thay đổi họ, tên, quốc tịch cho con nuôi được thuận lợi, tạo điều kiện tốt nhất cho
trẻ em sống hòa đồng vào môi trường gia đình, xã hôi, tự nhiên mới của mình để
trẻ tự tin, không mặc cảm, sống vui vẻ, không thấy mình bị khác biệt hay tách
rời với môi trường gia đình, cộng đồng xã hội, tự nhiên. Đây là một trong những
quyền dân sự gắn liền và ảnh hưởng trực tiếp đến nhân thân của người được
nhận làm con nuôi, do đó quyền này phải được pháp luật thừa nhận và bảo đảm
thực hiện.


19


1.1.2.6. Quyền được yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi
Quan hệ cha mẹ con đã được xác lập theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, theo quy định của mỗi nước, thì quyền được yêu cầu chấm
dứt việc nuôi con nuôi là khác nhau. Để bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ
em được nhận làm con nuôi theo quy định pháp luật, hạn chế và ngăn ngừa các
hành vi có thể xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em theo quy định
pháp luật, tại điểm b, c Điều 4 Công ước La Hay quy định: “Xác nhận việc nuôi
con nuôi quốc tế là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em sau khi xem xét kỹ lưỡng các
khả năng chăm sóc tại nước gốc; đảm bảo rằng: Những cá nhân, tổ chức và các
nhà chức trách mà việc nuôi con nuôi cần phải có sự đồng ý của họ đã được
tham khảo ý kiến ở mức độ cần thiết và đã được thông báo kỹ lưỡng về những hệ
quả mà sự đồng ý của họ có thể đem lại, đặc biệt là về việc vẫn giữ hay cắt đứt
mối quan hệ pháp lý giữa trẻ em và gia đình gốc do việc nuôi con nuôi; những
cá nhân, tổ chức và các nhà chức trách nói trên đã đồng ý một cách tự nguyện
theo những hình thức do pháp luật đòi hỏi và những sự đồng ý này được thể hiện
hoặc xác nhận bằng văn bản”. Khoản 2, Điều 26 Công ước La Hay quy định
rằng nếu việc nuôi con nuôi dẫn đến việc chấm dứt mối quan hệ pháp lý tồn tại
trước đó giữa trẻ em và cha mẹ đẻ thì trẻ em phải được hưởng tại nước nhận và
tại bất kỳ các nước ký kết nào khác mà công nhận việc nuôi con nuôi đó, những
quyền tương tự phát sinh do việc nuôi con nuôi có hệ quả như vậy tại mỗi nước.
Ở những nơi có việc nuôi con nuôi được nước gốc cấp phép không có hệ quả
chấm dứt mối quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giữa trẻ em và cha mẹ đẻ có thể
chuyển thành việc nuôi con nuôi có hệ quả như vậy tại nước nhận, nơi công nhận
việc nuôi con nuôi theo Công ước, nếu pháp luật của nước nhận cho phép và sự
đồng ý này được thể hiện bằng văn bản (Điều 27 Công ước Lay Hay). Như vậy,
trên tinh thần của Công ước La Hay thì quyền được yêu cầu chấm dứt việc nuôi
con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật nước nhận.

Theo quy định tại Điều 13 và Điều 25 Luật nuôi con nuôi, thì việc nuôi
con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp: con nuôi đã thành niên và cha
mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; cha mẹ nuôi bị kết án về một
trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
nuôi, ngược đãi, hành hạ con nuôi; vi phạm các hành vi như: Lợi dụng việc nuôi

20


con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục, bắt cóc, mua bán trẻ
em… Nếu có một trong những căn cứ trên thì cha mẹ nuôi; con nuôi đã thành
niên; cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi; Cơ quan lao động thương
binh xã hội và Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con
nuôi (Điều 26 Luật nuôi con nuôi).
1.1.2.7. Quyền được biết về nguồn gốc
Quyền của người được biết về nguồn gốc thực của mình đã được pháp
luật công nhận và bảo đảm thực hiện, không ai được ngăn cản, cản trở, cố tình
dấu về nguồn gốc thực của con nuôi. Có nhiều hình thức để bảo đảm thực hiện
quyền được biết về nguồn gốc của con nuôi, ví dụ: cha mẹ nuôi có quyền yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp các thông tin xác thực về nguồn
gốc của trẻ em được nhận làm con nuôi để cung cấp thông tin đó cho con nuôi
khi người con người con nuôi đến tuổi trưởng thành. Về nguyên tắc, khi con
nuôi trưởng thành và có yêu cầu được biết về nguồn gốc thực của mình thì cha
mẹ nuôi và những cơ quan có liên quan có trách nhiệm phải cung cấp thông tin
xác thực để con nuôi tìm về nguồn gốc của mình.
Quyền được biết về nguồn gốc là một quyền quan trọng đối với trẻ em
được nhận làm con nuôi. Khi đến độ tuổi nhất định, trẻ em được nhận làm con
nuôi có quyền được biết về nguồn gốc của mình, cội nguồn, đất nước, văn hóa,
phong tục tập quán nơi mình sinh ra như thế nào. Để đảm bảo cho con nuôi được
thực hiện quyền này, cơ quan trung ương của hai nước (nước cho và nước nhận)

phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền này của trẻ em.
Theo quy định tại Điều 9.e Công ước La Hay quy định: “Các cơ quan
trung ương phải trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan công quyền hay các tổ
chức khác được chỉ định ở Nước mình, áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp,
đặc biệt để: đáp ứng những đề nghị có tính chất thông tin của các Cơ quan trung
ương hoặc cơ quan công quyền khác về một tình trạng con nuôi cụ thể, trong
phạm vi mà pháp luật của nước mình cho phép” và Điều 30 Công ước La Hay
“Các cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết phải đảm bảo giữ kín những thông
tin lưu giữ về nguồn gốc của trẻ em, đặc biệt là những thông tin liên quan đến

21


×