Tải bản đầy đủ (.doc) (245 trang)

Nghiên cứu bào chế và đánh giá tác dụng kháng ung thư của viên nén nổi chứa curcumin (FULL TEXT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.24 MB, 245 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HUỲNH THỊ MỸ DUYÊN

NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG
KHÁNG UNG THƯ CỦA VIÊN NÉN NỔI CHỨA
CURCUMIN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ DƯỢC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh-Năm 2017


ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư dạ dày là loại ung thư phổ biến và là nguyên nhân tử vong do ung thư
cao thứ tư trên thế giới; Việt Nam thuộc khu vực có trung bình nguy cơ ung thư dạ
dày cao, với tỷ lệ mắc mới cả nam và nữ là 16,3/ 100.000 dân

[119]

. Mặc dù đã có

nhiều tiến bộ trong chẩn đoán, điều trị nhưng tiên lượng ung thư dạ dày hiện nay
vẫn còn xấu với tỷ lệ sống thêm 5 năm chỉ khoảng 28%. Các liệu pháp hóa trị là cần
thiết ở đa số bệnh nhân nhưng với độc tính cao do những hoá chất tổng hợp tấn
công không đặc hiệu cả tế bào ung thư và tế bào bình thường làm ảnh hưởng đến
sức khỏe bệnh nhân. Vì vậy, việc hướng tới tìm các hợp chất có nguồn gốc dược


liệu để hỗ trợ điều trị vừa hiệu quả và vừa an toàn đang thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu.
Curcumin là thành phần chính của thân rễ Nghệ vàng (Curcuma longa L.
Zingiberaceae) đã được nghiên cứu với nhiều công dụng như kháng ung thư (ung
thư dạ dày, ung thư gan, ung thư phổi, ung thư kết tràng, ung thư vú, ung thư da),
kháng viêm, chống oxy hóa, kháng khuẩn (Helicobacter pylori), kháng virus,
kháng nấm

[37], [49], [59], [68], [71], [87]

… Các thử nghiệm sinh học đã chứng minh,

curcumin thật sự hiệu quả trong việc phối hợp điều trị ung thư đặc biệt là ung thư dạ
dày

[8], [37], [81]

và an toàn ngay cả khi dùng liều cao. Với sự an toàn và hiệu quả,

curcumin là hợp chất thiên nhiên có nhiều tiềm năng ứng dụng trong phòng ngừa và
hỗ trợ điều trị bệnh ung thư dạ dày. Tuy nhiên, cho đến nay curcumin vẫn chưa
được ứng dụng nhiều trong các dạng thuốc đường uống do curcumin có độ tan thấp,
tốc độ hòa tan kém, không bền trong môi trường kiềm, chuyển hóa nhanh
[87], [91]

[11], [49], [75],



Sinh dược học đã chứng minh rằng độ tan và tốc độ hòa tan của dược chất là

một trong những yếu tố quyết định mức độ và tốc độ giải phóng, hấp thu dược
chất từ đường uống

[11]

. Vì thế, để góp phần nâng cao sinh khả dụng của curcumin,

việc áp dụng các kỹ thuật bào chế thích hợp nhằm cải thiện đặc tính ít tan của
curcumin như giảm kích thước tiểu phân, tạo phức hệ phân tán rắn, sử dụng tá dược
mới… trước khi đưa vào bào chế các dạng thuốc là vấn đề cần phải thực hiện.
Ngoài ra, để tránh tác động bị phân hủy bởi pH kiềm của môi trường ruột non lên


curcumin thì việc nghiên cứu các dạng bào chế mới là điều rất cần thiết. Có nhiều
dạng bào chế mới ra đời trong đó có thuốc nổi, là một trong những dạng thuốc có
nhiều tiềm năng ứng dụng, hứa hẹn mang đến phương pháp trị liệu mới có hiệu quả
3

nhờ thuốc có tỉ trọng thấp hơn dịch dạ dày (≈1,004g/cm ) nên có khả năng nổi và
lưu ở dạ dày mà không bị tác động bởi tốc độ làm rỗng dạ dày trong một thời gian
dài

[110]

từ đó giúp thuốc không bị phân hủy bởi pH kiềm của ruột non, giúp giảm

liều, giảm tần số dùng thuốc, giảm sự dao động của nồng độ thuốc trong máu, tăng
sự hấp thu… khắc phục được những hạn chế vốn có của những dạng thuốc truyền
thống, nâng cao hiệu quả điều trị lâm sàng


[101], [110]

.

Cho đến nay, trên thị trường Việt Nam chưa có dạng thuốc nổi chứa curcumin
và chưa có bất kỳ nghiên cứu nào về tác dụng ức chế sự phát triển tế bào ung thư dạ
dày của curcumin được thực hiện. Vì vậy, với mong muốn tìm ra một dạng thuốc
mới, có thể khai thác hết tiềm năng chữa bệnh của một hoạt chất có nguồn gốc từ
thiên nhiên, ít tác dụng phụ cũng như góp phần nghiên cứu đánh giá hiệu quả kháng
ung thư của curcumin trên chuột nhắt trắng, đề tài “Nghiên cứu bào chế và đánh
giá tác dụng kháng ung thư của viên nén nổi chứa curcumin” được thực hiện với
mục tiêu như sau:
1) Xây dựng và thẩm định quy trình định lượng curcumin trong hệ phân tán rắn
bằng phương pháp quang phổ tử ngoại khả kiến (UV-Vis) và trong viên nén
nổi bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC).
2) Nghiên cứu bào chế hệ phân tán rắn (HPTR) chứa curcumin có độ hòa tan
cao bằng các phương pháp và chất mang khác nhau.
3) Nghiên cứu bào chế viên nén nổi chứa HPTR curcumin 100 mg.
4) Đánh giá tác dụng kháng ung thư dạ dày của thành phần công thức viên nén
nổi chứa HPTR curcumin 100 mg trên dòng tế bào ung thư ở người (in vitro)
và trên chuột nhắt trắng (in vivo).


3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN VỀ CURCUMIN
Curcumin là tên gọi của curcuminoid-một nhóm hợp chất có nguồn gốc từ Nghệ
vàng (Curcuma longa L. Zingiberaceae). Bao gồm curcumin I-chiếm khoảng 77%;
curcumin II (demethoxycurcumin)-chiếm tỷ lệ khoảng 17%; curcumin III

(bisdemethoxycurcumin)-chiếm tỷ lệ khoảng 3%. Trong đó, thành phần chính có
hoạt tính sinh học là curcumin I

[11], [91], [100]

.

Hình 1. 1. Cấu trúc của curcumin
Curcumin là bột tinh thể có màu vàng cam, không tan trong nước ở pH acid và
trung tính, không tan trong ether, tan trong methanol, ethanol, dimethyl sulfoxid và
aceton. Cực đại hấp thu (max) của curcumin trong methanol là 430 nm. Điểm chảy
o

là 183 C. Hệ số phân bố và độ tan trong nước của curcumin tương ứng là 3,2 và 0,6
g/mL

[82], [96]

.

Curcumin kém bền với ánh sáng, kém bền trong môi trường kiềm và bị phân
hủy nhanh chóng trong khoảng thời gian chưa đầy 30 phút

[111]

.

Curcumin có giá trị hoạt tính sinh học cao là do trong công thức cấu tạo của
curcumin có các nhóm hoạt tính sau:
-


Nhóm parahydroxyl: hoạt tính chống oxi hoá.

-

Nhóm ceton: kháng viêm, kháng ung thư.

-

Nhóm liên kết đôi: kháng viêm, kháng ung thư, chống đột biến tế bào.

Nhiều công trình đã nghiên cứu hoạt tính và tác dụng dược lý của curcumin. Kết
quả cho thấy, curcumin có hoạt tính sinh học mạnh và đa dạng, bao gồm: hoạt tính
chống viêm, chống ung thư, chống đông máu, chống vi khuẩn, chống nấm, chống
virus, làm lành vết thương, giảm cholesterol; chữa một số bệnh như: đái tháo
đường, , tim mạch

[8], [37], [75], [81], [91]




Curcumin có khả năng ngăn chặn các loại ung thư dạ dày, da, tuyến vú, miệng,
phổi, gan, thực quản, ruột non, ruột già… Curcumin tác động đến hầu hết các giai
đoạn hình thành và phát triển khối u. Cơ chế kháng ung thư của curcumin rất đa
dạng như: ức chế sự sinh sản và tăng sinh mạch máu của tế bào ung thư, ức chế các
isoenzym cytochrom P450, ức chế sự chuyển hóa sinh học của các chất gây ung
thư, ức chế các protein liên quan đến chu trình tế bào như NF-kB, cảm ứng enzyme
glutathion S-transferase (GST), thúc đẩy tế bào ung thư đi vào chu trình chết tự
nhiên


[8], [37], [49], [71], [81], [91], [116]



Hình 1. 2. Quá trình hình thành và di căn khối u và tác động của curcumin
Các nghiên cứu khác nhau về quá trình chuyển hóa của curcumin đã được thực
hiện. Khi dùng đường uống, curcumin được chuyển hóa chủ yếu theo con đường
glucuronid hóa. Quá trình chuyển hóa curcumin xảy ra chủ yếu ở gan, ít hơn ở thận
và ống tiêu hóa

[41],[ 100]

. Curcumin bị chuyển hóa lần đầu cho dihydrocurcumin và

tetrahydrocurcumin, những hợp chất này sau đó được chuyển sang dạng liên hợp
monoglucuronid. Vì vậy, chất chuyển hóa chính của curcumin là curcuminglucuronid,

dihydrocurcumin-glucuronid,

tetrahydrocurcumin-glucuronid



tetrahydrocurcumin. Những chất chuyển hóa của curcumin có hoạt tính tương tự
như curcumin nhưng không rõ ràng. Trong khi hầu hết các nghiên cứu cho thấy các
curcumin-glucuronid và tetrahydrocurcumin có hoạt tính kém hơn curcumin thì một
số nghiên cứu khác cho rằng những hợp chất này có thể có hoạt tính mạnh hơn
curcumin.



5

1.2. TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH QUY TRÌNH PHÂN TÍCH-ĐỘ ỔN
ĐỊNH VÀ TUỔI THỌ CỦA THUỐC
1.2.1. Thẩm định qui trình phân tích
Thẩm định quy trình phân tích theo hướng dẫn Q2 (R1) tháng 11-2005 của ICH
(International Conference on Harmonisation)

[2], [3], [5], [34]

.

1.2.1.1. Các nghiên cứu định lượng curcumin bằng phương pháp quang phổ UVVis
Tang Bo và cộng sự (2002) sử dụng máy quang phổ Shimadzu UV-265 để định
lượng phức chất của curcumin và -cydclodextrin. Kết quả, tại max 431 nm có
2

[115]

khoảng tuyến tính 0-15 g/mL với hệ số tương quan bình phương r = 0,9991

.

Goindi Shishu và cộng sự (2011) đã định lượng curcumin trong methanol và
đệm pH 1,2 với hệ thống quang phổ Shimadzu. Kết quả, khoảng tuyến tính 1-10
2

µg/mL với hệ số tương quan r = 0,9999; phương trình hồi quy là ŷ = 0,145x tại
max à 421 nm và ŷ = 0,054x tại 430 nm (đệm pH 1,2)


[29]

.

Sharma Kiran và cộng sự (2012) sử dụng máy quang phổ Doublebeam
Shimadzu 1601 định lượng curcumin (10 g/mL) trong methanol. Kết quả, tại max
2

421 nm có khoảng tuyến tính 1-7 g/mL với hệ số tương quan bình phương r =
0,9995

[99]

.

Kadam Prasad Vijay và cộng sự (2013) sử dụng máy quang phổ Doublebeam
Shimadzu 1800 định lượng curcumin trong công thức cream. Kết quả, tại max 422
2

nm có khoảng tuyến tính 1-7 g/mL với hệ số tương quan bình phương r = 0,999;
phương trình hồi quy là ŷ = 0,166x – 0,01

[50]

.

Hazra Kalyan và cộng sự (2015) sử dụng máy quang phổ Doublebeam
Shimadzu định lượng curcumin trong công thức nanocurcumin. Kết quả, tại max
2


421 nm có khoảng tuyến tính 5-25 g/mL với hệ số tương quan bình phương r =
0,9997

[39]

.

Holkar Vishal Vasant và cộng sự (2015) sử dụng máy quang phổ Doublebeam
Shimadzu 1800 định lượng curcumin (10 g/mL) trong methanol. Kết quả, tại
2

max421 nm có khoảng tuyến tính 1-6 g/mL với hệ số tương quan bình phương r =
0,999; phương trình hồi qui ŷ = 0,150x + 0,005

[40]

.

Tất cả các nghiên cứu cho thấy qui trình đều đạt độ đặc hiệu, độ đúng và độ
chính xác.


1.2.1.2. Các nghiên cứu định lượng curcumin bằng phương pháp sắc ký lỏng
hiệu năng cao (HPLC)
Jadhav B-K và cộng sự (2007) sử dụng HPLC đầu dò UV-Vis tại bước sóng 420
nm với chương trình rửa giải isocratic để định lượng các curcumin, cột RP-C18
®

Vydac (250 x 4,6mm, 5 µm) với pha động acetonitril:0,1% acid trifluro-acetic

(50:50); tốc độ dòng 1,5 mL/phút; thể tích tiêm mẫu 20 µL. Kết quả khoảng tuyến
2

tính của curcumin 100-200 ng/mL với hệ số tương quan bình phương r = 0,9996;
thời gian lưu khoảng 7,2 phút

[43]

.

Ramshankar Yadav Vivek và Suresh Sarasija (2009) sử dụng HPLC đầu dò UVVis tại bước sóng 425 nm để xác định curcumin, cột Merck C15 (250 x 4,6 mm, 5
µm) với pha động acetonitril:tetrahydrofuran: 2% acid acetic (50:30:20); tốc độ
dòng 0,7 mL/phút; thể tích tiêm mẫu 50 µL. Kết quả khoảng tuyến tính của
2

curcumin 50-100000 ng/mL với hệ số tương quan bình phương r = 0,9997; thời
gian lưu 4,587 phút

[93]

.

Ramshankar Yadav Vivek và các cộng sự (2009) sử dụng HPLC đầu dò UV-Vis
tại bước sóng 425 nm để định lượng curcumin, demethoxy và bismethoxy
curcumin, cột pha đảo Merck C15 (4,6 x 250 mm, 5 m) và pha động là
tetrahydrofuran:1% acid citric (35:65); tốc độ dòng 1,2 mL/phút; thể tích tiêm mẫu
50 µL. Kết quả khoảng tuyến tính của curcumin 50-5000 ng/mL với hệ số tương
2

quan bình phương r = 0,9997; thời gian lưu 15,892 phút


[94]

.

Li Rui và cộng sự (2011) sử dụng HPLC đầu dò LC/MS/MS để định lượng
curcumin, demethoxycurcumin (DMC) và bis demethoxycurcumin (BDMC) ở khối
u chuột, Zorbax SB-C18 (4,6 x 12,5 mm; 5 m) và pha động là acetonitril:nước
(chứa 0,1% acid formic) (50:50); tốc độ dòng 0,2 mL/phút. Kết quả khoảng tuyến
2

tính 2-6000 ng/mL với hệ số tương quan bình phương r = 0,997-0,99; thời gian lưu
12,59; 11,28 và 10,11 phút

[61]

.

Sonavaran C và cộng sự (2011), sử dụng HPLC pha đảo đầu dò UV-Vis tại bước
sóng 250 nm với chương trình rửa giải gradient để định lượng curcumin trong chế
phẩm thuốc viên nén, cột Lichrocart Lichrosphere (250 x 4,0 mm; 5 µm) với pha
động acetonitril:đệm natri acetat pH 4,5 (10:90); tốc độ dòng 1 mL/phút; thể tích


7

tiêm mẫu 20 µL. Kết quả khoảng tuyến tính của curcumin 50-150 µg/mL với hệ số
2

tương quan bình phương r = 0,999; thời gian lưu 4,476 phút


[107]

.

Gugulothu Dalapathi và cộng sự (2013), áp dụng phương pháp HPLC đầu dò
UV-Vis tại bước sóng 425 nm, sử dụng cột Zorbax Eclipse C18 (4,6 x 150 mm, 5
m) và MP là acid acetic 1% (pH 3 điều chỉnh với 50% triethanolamine):acetonitril
(55:45); tốc độ dòng 1,25 mL/phút; thể tích tiêm mẫu 50 µL để định lượng
curcumin trong huyết tương người. Kết quả khoảng tuyến tính 10-1000 ng/mL với
2

hệ số tương quan bình phương r = 0,999; thời gian lưu 9 phút

[32]

.

Jangle RD và Thorat BN (2013), sử dụng HPLC đầu dò UV-Vis tại bước sóng
425 nm để xác định liposome curcuminoid, cột Zorbax Eclipse XDB-C18 (150 × 4
mm, 5 µm) và pha động là acid orthophosphoric 0,1% :acetonitril (50:50); tốc độ
dòng 1 mL/phút; thể tích tiêm mẫu 5 µL. Kết quả khoảng tuyến tính của curcumin
2

50-300 ng/mL với hệ số tương quan bình phương r = 0,997; thời gian lưu của
curcumin 6,36 phút

[45]

.


Ang Lee Fung và cộng sự (2014) sử dụng HPLC đầu dò UV-Vis tại bước sóng
370 nm với chương trình rửa giải isocratic để định lượng các curcumin và
quercetin, cột Thermo Hypersil (250 x 4,6mm, 5 µm) với pha động acetonitril:acid
acetic pH 2,6 (40:60); tốc độ dòng 1,3 mL/phút; thể tích tiêm mẫu 20 µL. Kết quả
khoảng tuyến tính của curcumin 1,25-200 µg/mL với hệ số tương quan bình phương
2

r = 0,99993; thời gian lưu khoảng 16,72 phút

[13]

.

Long Yuling và cộng sự (2014) sử dụng HPLC đầu dò UV-Vis tại bước sóng
425

nm

để

xác

định

đồng

thời

curcumin,


demethoxycurcumin



bisdemethoxycurcumin, cột Wondasil C18 (250 cm X 4,6 mm, 5 µm) với pha động
acetonitril: đệm phosphat 10 mM pH 5,0 (50:50); tốc độ dòng 1 mL/phút; thể tích
tiêm mẫu 20 µL. Kết quả khoảng tuyến tính của curcumin 0,208-41,6 µg/mL với hệ
2

số tương quan bình phương r = 0,9985; thời gian lưu khoảng 14 phút

[66]

.

Tất cả các nghiên cứu cho thấy qui trình đều đạt tính tương thích hệ thống, độ
đặc hiệu, độ đúng và độ chính xác.


1.2.2. Độ ổn định và tuổi thọ của thuốc
Thực hiện theo hướng dẫn thử độ ổn định và xác định tuổi thọ của thuốc theo
WHO, ASEAN và quy định về đăng ký thuốc-BYT.

[1], [6], [7], [33], [131]

Các nghiên cứu khảo sát độ ổn định của curcumin
Wang YingJan và cộng sự (1997) nghiên cứu về độ ổn định của curcumin
trong dung dịch đệm và đặc tính của sản phẩm thoái hóa. Một loạt các điều kiện pH
khác nhau từ 3-10 đã được thử nghiệm và kết quả cho thấy tốc độ phân hủy phụ

thuộc vào pH và xảy ra nhanh hơn ở điều kiện trung tính. Kết quả cho thấy
curcumin ổn định hơn trong môi trường nuôi cấy có chứa 10% huyết thanh bê và
trong máu người, ít hơn 20% curcumin phân hủy trong vòng 1 giờ và sau 8 giờ
khoảng 50% curcumin vẫn còn tồn tại. Trans-6-(4ʼ-hydroxy-3ʼ-methoxyphenyl)2,4-dioxo-5-hexenal được dự đoán là sản phẩm thoái hóa chính; vanillin, acid
ferulic, feruloylmethan được xác định là sản phẩm thoái hóa nhỏ và lượng vanillin
tăng theo thời gian ủ

[130]

.

Gugulothu Dalapathi B và Vandana B Patravale (2012) nghiên cứu sự ổn định
của chế phầm chứa đồng thời curcumin và celecoxib. Tác giả tiến hành phân hủy
chế phẩm trong điều kiện khắc nghiệt như: tiếp xúc với tác nhân oxi hóa, sự chiếu
sáng, môi trường acid, kiềm và nhiệt độ cao. Kết quả, các mẫu phân hủy được tiêm
vào hệ thống HPLC, thu được các sắc ký đồ cho thấy pic curcumin giảm nhanh nhất
khi tiếp xúc với tác nhân oxy hóa, tiếp theo là môi trường kiềm, acid, ánh sáng và ở
nhiệt độ cao hầu như curcumin không thay đổi đáng kể

[31]

.

Korany Mohamed A và cộng sự (2013) nghiên cứu sự ổn định của curcumin và
silymarin trong chế phẩm chứa 2 thành phần này. Tác giả tiến hành phân tích và
phân hủy chế phẩm trong môi trường acid, trung tính, kiềm, sự chiếu sáng, dưới tác
nhân oxy hóa và nhiệt độ cao. Kết quả cho thấy, trong môi trường acid, trung tính,
ánh sáng và tác nhân oxi hóa, pic curcumin trên sắc ký đồ giảm lần lượt 43%, 26%,
37%, và 41%, xuất hiện những pic lạ nhưng nằm xa các pic chính. Trong môi
trường kiềm, curcumin gần như phân hủy hoàn toàn, diện tích pic giảm 92% với sự

xuất hiện của 5 pic lạ nằm cách xa pic chính trên sắc ký đồ. Ở mẫu chế phẩm bị sấy
ở nhiệt độ cao, pic curcumin hầu như không có gì thay đổi, nhưng độ tinh khiết pic
giảm

[54]

.


9

1.3. TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHẾ HỆ PHÂN TÁN RẮN
(HPTR) ĐỂ CẢI THIỆN ĐỘ HÒA TAN CỦA CURCUMIN
1.3.1. Khái niệm
Hệ phân tán rắn (HPTR) được coi là một hệ pha rắn trong đó có một hay nhiều
dược chất phân tán trong một hay nhiều chất mang hoặc khung trơ về mặt dược lý,
được điều chế bằng những phương pháp thích hợp.
1.3.2. Một số phương pháp điều chế HPTR thường sử dụng
Phương pháp nghiền ướt (Kneading method): dược chất và chất mang được
nghiền trộn với lượng tối thiểu chất lỏng thích hợp (có thể là nước) trong một thời
gian dài bằng cối, chày hoặc máy nghiền để thu được một khối nhão, sau đó làm
khô và nghiền tán thành hạt có kích thước thích hợp. Phương pháp này kinh tế, thân
thiện với môi trường, tránh được sự phân huỷ dược chất, hạn chế sử dụng dung môi
hữu cơ

[16], [25], [83], [123]

.

Phương pháp đun chảy (Melting method): dược chất được phối hợp với các chất

mang thân nước theo các tỷ lệ thích hợp bằng cách đun chảy. Làm nguội nhanh hỗn
hợp trong nước đá. Để ổn định trong thời gian ngắn ở nhiệt độ phòng, sấy khô.
Nghiền nhỏ, rây lấy hạt có kích thước thích hợp. Phương pháp này được áp dụng
cho dược chất rắn không bị phân hủy bởi nhiệt và chất mang trơ thân nước dạng rắn
có nhiệt độ nóng chảy thấp, độ linh động của chất mang khi ở trạng thái nóng chảy
đủ để thay đổi sự kết hợp các phân tử dược chất. Ngoài ra, để hạn chế ảnh hưởng
của nhiệt độ lê sự bền vững của hoạt chất, phương pháp này có thể thực hiện trong
bình kín dưới chân không hoặc có sự hiện diện của nitơ lỏng

[16], [25], [83], [123]

.

Phương pháp dung môi (Solvent evaporation method): dược chất và chất mang
được hòa tan trong một lượng dung môi tối thiểu. Sau đó loại dung môi để thu được
đồng kết tủa của dược chất và chất mang. Nếu dược chất và chất mang không đồng
tan trong dung môi thì có thể phối hợp hai hoặc nhiều dung môi khác nhau để hòa
tan dược chất và chất mang. Dung môi, dược chất và chất mang được khuấy trộn,
sau đó bốc hơi hoặc thu hồi dung môi. HPTR được nghiền, rây chọn hạt có kích
thước thích hợp. Phương pháp dung môi thường áp dụng đối với các dược chất và
chất mang không bền với nhiệt và cùng tan trong một hay hai dung môi khác nhau.
Phương pháp này thích hợp với các polyme có điểm chảy cao tuy nhiên phương
pháp này là đắt tiền, khó loại bỏ dung môi hoàn toàn, khó lựa chọn dung môi
chung

[16], [25], [83], [123]

.



Phương pháp dung môi kết hợp với phương pháp đun chảy (Melting solvent
method): dược chất được hòa tan vào một dung môi thích hợp, rồi phối hợp dung
dịch này vào chất mang đun chảy ở nhiệt độ thích hợp, sau đó làm bay hơi dung
môi, sấy đến khối lượng không đổi. Phương pháp này chỉ áp dụng với dược chất có
liều điều trị thấp (nhỏ hơn 50 mg)

[16], [25], [83], [123]

.

Phương pháp chất lỏng siêu tới hạn (Supercritical fluid methods): CO2 quá tới
hạn được sử dụng làm dung môi để hòa tan dược chất và chất mang. Dung dịch
được đưa qua một vòi phun với các điều kiện nhiệt độ và áp suất thay đổi, dung môi
tách ra và hạt của HPTR được hình thành. Phương pháp này không sử dụng các
dung môi hữu cơ, dùng CO2 là dung môi thân thiện với môi trường và được xem là
dung môi rẻ tiền. Phương pháp này áp dụng với các dược chất không bền với
nhiệt. Tuy nhiên, bị hạn chế do dung dịch có nồng độ dược chất thấp, CO2 quá tới
hạn chỉ hòa tan những dược chất có độ phân cực kém

[16], [25], [83], [123]

.

Phương pháp đùn nóng chảy (Hot melt extrusion method): dược chất và chất
mang được trộn đều ở nhiệt độ nóng chảy trong một thời gian ngắn, sau đó hỗn hợp
được đùn nhanh qua máy ép. Sản phẩm thu được đem làm nguội ở nhiệt độ phòng
và nghiền nhỏ. Phương pháp này áp dụng với các dược chất không bền với nhiệt
[16], [25], [83], [123]

.


Trong các phương pháp trên thì phương pháp đun chảy và phương pháp dung
môi hay được sử dụng để điều chế HPTR.
1.3.3. Phương pháp đánh giá đặc tính của HPTR
Phương pháp quang phổ hồng ngoại-IR (Infra Red): nếu có sự tương tác tạo
phức giữa hoạt chất và chất mang thì trên phổ IR biến đổi của các phức sẽ thấy
sự biến mất hoặc thay đổi một số sóng đỉnh đặc trưng của hoạt chất

[73], [123]

.

Phương pháp phân tích nhiệt vi sai-DSC (Differential Thermal Analysis): dựa
vào sự xuất hiện của đỉnh nội nhiệt tương ứng của từng chất. Nếu có s ự trộn lẫn
giữa hoạt chất và chất mang hay có sự hình thành dạng vô định hình thì trên nhiệt
đồ sẽ thấy giảm cường độ đỉnh nội nhiệt của hoạt chất

[73], [123]

.


1
1

Phương pháp soi kính hiển vi điện tử quét-SEM (Scanning Electron
Microscopy): SEM cung cấp hình ảnh bề mặt hạt trong không gian ba chiều. Để
khảo sát bằng SEM thì tiểu phân phải được làm khô và bề mặt được bao phủ bằng
chất dẫn như vàng. SEM cho hình ảnh bề mặt của vật mẫu bằng cách quét nó bằng
một chùm tia điện tử hẹp có năng lượng cao


[73], [123]

.

Ngoài ra, đo độ hòa tan và tốc độ hòa tan, nhiệt động lực học, quang phổ, phân
tích khối phổ (MS), phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR), nhiễu xạ tia X
(XRD)… cũng được sử dụng.
1.3.4. Các nghiên cứu cải thiện độ tan của curcumin
Yadav Vivek R. và cộng sự (2009) nghiên cứu bào chế phức hợp c á c
cyclodextrin (-CD, -CD, HP-β-CD và methyl-β-CD) với curcumin với tỷ lệ 1:1
và 1:2, điều chế bằng phương pháp nghiền và phương pháp dung môi. Kết quả
cho thấy, bằng phương pháp nghiền ướt, độ tan của curcumin tăng lên đáng kể đặc
biệt tăng nhiều nhất đối với phức hợp curcumin với methyl-β-CD và HP-β-CD lần
lượt gấp 190 và 220 lần so với curcumin nguyên chất

[133]

.

Tomren MA và cộng sự (2007) đã đánh giá độ tan của các curcumin trong phức
hợp với các cyclodextrin, kết quả cho thấy độ tan cao nhất được tìm thấy ở phức
hợp với hydroxypropyl-β-cyclodextrin cho tất cả các curcumin do khả năng hình
thành liên kết hydro

[118]

.

Marcolino Vanessa Aparecida và cộng sự (2011) đã nghiên cứu đánh giá độ ổn

định của phức hợp curcumin với β-CD v ớ i c á c t ỷ l ệ 1 : 1 v à 1 : 2 ( t ỷ
l ệ m o l ) bào chế bằng các phương pháp khác nhau: phương pháp nghiền,
phương pháp dung môi và hỗn hợp vật lý. Kết quả cho thấy phức hợp curcuminβ-CD tỷ lệ 1:2 ổn định hơn cả do trong mỗi phức, mỗi vòng benzen của
curcumin nằm trong khoang của β-CD nhờ lực Vander Waals, tương tác kỵ nước,
liên kết hydro giữa các nhóm giàu điện tử của phân tử curcumin trong khoang β-CD
[70]

.
Paradkar Anant và cộng sự (2004) nghiên cứu đặc tính của HPTR curcumin:PVP

ở các tỷ lệ khác nhau (1:1, 1:3, 1:5, 1:7 và 1:10) bào chế bằng kỹ thuật phun sấy.
Phân tích tính chất vật lý của curcumin thông qua kính hiển vi quét điện tử, phổ
hồng ngoại, phân tích nhiệt vi sai, nhiễu xạ tia X cho thấy so với hỗn hợp vật lý,


hệ có những thay đổi trạng thái trong suốt quá trình hình thành HPTR, trong đó hệ
hình thành chủ yếu ở trạng thái vô định hình. HPTR tạo thành có dạng các hạt hình
cầu, ở tỷ lệ thấp hơn của PVP (1:1-1:3) các hạt có bề mặt xù xì, ở tỷ lệ cao hơn
(1:5-1:10), các hạt có bề mặt trơn láng hơn. Nghiên cứu cũng cho thấy độ hòa tan
của HPTR được cải thiện rõ rệt, curcumin tan hoàn toàn trong 30 phút trong khi
curcumin nguyên liệu cũng như hỗn hợp vật lý độ hòa tan hầu như không đáng kể
ngay cả sau 90 phút

[80]

.

Dong-Hui Xu và cộng sự (2006) nghiên cứu độ hòa tan và độ hấp thu curcumin
trong HPTR với PVP chế tạo bằng phương pháp dung môi ở các tỷ lệ (1:2, 1:4,
1:6, 1:8, 1:10). Kết quả cho thấy độ hòa tan của curcumin tốt nhất với tỷ lệ

curcumin:PVP là 1:8. So với nguyên liệu độ tan và độ hòa tan của curcumin trong
HPTR tăng lên đáng kể trong đó độ tan tăng ít nhất 880 lần. Thử nghiệm in vivo trên
chuột cũng cho thấy HPTR curcumin:PVP hấp thu tốt hơn và có sinh khả dụng cao
hơn đáng kể so với curcumin nguyên liệu và hỗn hợp vật lý

[132]

.

Sattha Kaewnopparat và cộng sự (2009) nghiên cứu biện pháp tăng độ tan của
curcumin bằng cách chế tạo HPTR của curcumin với PVP K30 bằng phương pháp
dung môi với các tỷ lệ khác nhau (1:2, 1:4, 1:5, 1:6, 1:8). Kết quả cho thấy độ tan
của curcumin trong các HPTR đều cao hơn hẳn so với curcumin nguyên liệu.
HPTR với tỷ lệ curcumin-PVP là 1:6, 1:8 có độ tan của curcumin tăng 16-26 lần
trong môi trường dịch ruột nhân tạo không có pepsin, tăng 4-5 lần trong môi
trường dịch ruột nhân tạo không có pancreatin so với HPTR bào chế với tỷ lệ
curcumin:PVP (1:2)

[108]

.

Kumavat Suresh D và cộng sự (2013) nghiên cứu điều chế HPTR curcuminPVP K30, K90 ở các tỷ lệ 1:3, 1:5, 1:10 bằng phương pháp dung môi, nghiên cứu
so sánh kết quả độ tan của HPTR so với curcumin nguyên liệu và hỗn hợp trộn vật
lý đồng thời phân tích phổ IR và DSC để chứng minh cơ chế cải thiện độ tan của
các chất. Kết quả cho thấy, trong môi trường đệm pH 1,2 độ tan của curcumin
nguyên chất là rất thấp 0,45 ± 0,01 µg/mL, hỗn hợp trộn vật lý có cải thiện độ hòa
tan nhưng không đáng kể trong khi HPTR thì khả năng hòa tan cao hơn rõ rệt so với



1
3

curcumin nguyên chất và hỗn hợp vật lý nguyên nhân là do curcumin tăng khả năng
thấm ướt do liên kết với các phân tử PVP. Khả năng hòa tan tăng dần theo tỷ lệ
curcumin và polyme, với tỷ lệ 1:10 cho khả năng hòa tan cao nhất, với cùng tỷ lệ thì
HPTR của curcumin-PVP K30 cao hơn curcumin-PVP K90 xấp xỉ 4 lần, nguyên
nhân là do PVP K90 trọng lượng phân tử cao hơn, độ nhớt cao hơn nên cản trở quá
trình hòa tan

[58]

.

Joshi Vedamurthy và cộng sự (2010) nghiên cứu độ tan và độ ổn định của
curcumin trong các HPTR với các polyme PEG 4000, PEG 6000, PVP K30 và
CMC (micro crystalline cellulose) với các tỷ lệ curcumin: PEG 4000/ PEG 6000/
PVP K30 (1:1, 1:4, 1:8) bằng phương pháp trộn vật lý và phương pháp đun chảy;
curcumin:PEG 4000 (PEG 6000/PVP K30):CMC (1:1:2). Kết quả trong môi trường
nước, các công thức HPTR đều có độ tan lớn hơn độ tan của curcumin nguyên chất
(2,68 µg/mL) trong đó công thức curcumin:PEG 6000 (1:8) điều chế bằng phương
pháp đun chảy có độ hòa tan cao nhất là 10344,77 µg/mL; nghĩa là độ tan cải thiện
khoảng 3800 lần so với curcumin nguyên chất

[48]

.

Suresh Kumavat và cộng sự (2014) nghiên cứu điều chế HPTR của
curcumin:PEG 4000:PVP K30 với các tỷ lệ 1:3:7, 1:5:5 và 1:7:3 bằng phương pháp

dung môi. Kết quả cho thấy, trong môi trường đệm pH 1,2 độ tan của curcumin
nguyên chất là rất thấp 0,45 ± 0,01 µg/mL, HPTR thì khả năng hòa tan cao hơn rõ
rệt so với curcumin nguyên chất và hỗn hợp vật lý đồng thời ở tỷ lệ 1:7:3 thì tỷ lệ
hòa tan cao hơn các tỷ lệ khác nguyên nhân là do PEG có nhiều nhóm -OH hơn
PVP nên tỷ lệ PEG nhiều hơn sẽ giúp tăng khả năng hòa tan cao hơn

[112]

.

Phaechamud T và U Sotanaphun (2010) nghiên cứu độ hòa tan của các curcumin
(curcumin, desmethoxy-curcumin, bis desmethoxy-curcumin) từ hệ phân tán rắn sử
dụng những chất mang khác nhau (PEG 4000, PEG 6000, PEG 20000, HPMC,
xylitol, xhitin, ac-di-sol, acid citric, sucrose và β-cyclodextrin) với tỷ lệ 1:10 được
bào chế bằng phương pháp trộn vật lý. Độ hòa tan của các curcumin từ các hệ phân
tán rắn được thực hiện trong môi trường chứa 0,02% Tween 80. Kết quả, độ hòa tan
lớn nhất của curcumin được quan sát trong hệ phân tán rắn sử dụng xylitol. Nghiên


cứu tiếp tục thực hiện bằng cách sử dụng xylitol với các tỷ lệ curcuminoid:xylitol
(1:5, 1:10, 1:15, 1:20) bằng phương pháp trộn vật lý, phương pháp dung môi (dung
môi acetonitril) và phương pháp đun chảy điều chế HPTR, kết quả với tỷ lệ 1:10
điều chế bằng phương pháp trộn vật lý có độ hòa tan cao nhất (đạt 100% sau 120
phút)

[85]

.

Modasiya MK và Patel VM (2012),nghiên cứu điều chế HPTR của curcumin

với PEG 4000, PEG 6000 và PVP K30 với các tỷ lệ curcumin:PEG 4000/PEG
6000/PVP K30 (1:1, 1:4, 1:8) bằng phương pháp trộn vật lý và phương pháp đun
chảy. Trong môi trường thử độ hòa tan chứa 1% Tween 80, tất cả các công thức
HPTR để cải thiện độ tan so với curcumin nguyên chất trong đó công thức tối ưu
HPTR có độ hòa tan cao nhất là tỷ lệ curcumin:PEG 6000 (1:8) điều chế bằng
phương pháp đun chảy cho độ tan tăng 1000 lần so với curcumin nguyên chất

[74]

.

Waghmare Pranali và Kadu Pramod (2014) sử dụng HPMC K4M và HPMC
K15M để cải thiện độ hòa tan của curcumin với các tỷ lệ curcumin:HPMC
K4M/HPMC K15M (1:1, 1:2, 1:3, 1:4, 1:5) điều chế bằng phương pháp dung môi.
Kết quả, trong môi trường acid HCl 0,1N thì curcumin tinh khiết chỉ hòa tan được
tối đa 1,7 µg/mL, các HPTR đều cải thiện được độ tan so với curcumin nguyên
chất, công thức HPTR có độ tan thấp nhất cũng được khoảng 8,5 µg/mL. Trong các
công thức HPTR thì công thức curcumin:HPMC K4M (1:4) cải thiện độ hòa tan là
cao nhất (17,25 µg/mL), nghĩa là gấp khoảng 10 lần so với curcumin nguyên chất.
Nghiên cứu cũng cho thấy, trong các môi trường thử độ tan khác như nước hoặc pH
đệm 7,4 cũng cho kết quả tương tự là HPTR curcumin:HPMC K4M (1:4) có độ tan
cao nhất

[125]

.

Waghmare Pranali và Kadu Pramod (2014) nghiên cứu điều chế HPTR của
curcumin:HPMC K15M với các tỷ lệ 1:1, 1:2, 1:3, 1:4 bằng phương pháp dung môi.
Kết quả cho thấy, các HPTR đều có độ tan cao hơn so với curcumin nguyên chất

trong đó HPTR tỷ lệ 1:4 cho độ hòa tan cao nhất trong môi trường thử là nước, acid
HCl 0,1N và đệm pH 7,4 lần lượt là 8,857; 7,5578; 2,0377 µg/mL trong khi
curcumin nguyên chất chỉ có 1,128; 0,1052; 0,141 µg/mL

[126]

.


1
5

1.4. TỔNG QUAN VỀ DẠNG THUỐC NỔI TRONG DẠ DÀY
1.4.1. Khái niệm
Thuốc nổi hay còn gọi là hệ thống trị liệu kiểm soát thủy động lực là dạng thuốc
3

có tỉ trọng thấp hơn dịch dạ dày (≈ 1,004 g/cm ) nên có khả năng nổi trong dạ dày
mà không bị tác động bởi tốc độ làm rỗng dạ dày trong thời gian dài. Khi thuốc nổi
trong dạ dày thì dược chất được phóng thích từ từ với tốc độ mong muốn và sau đó
phần còn lại của thuốc sẽ được đẩy ra khỏi dạ dày, nhờ vậy thuốc lưu lại dạ dày
trong thời gian lâu hơn và duy trì nồng độ thuốc ổn định hơn trong cơ thể

[110]

.

1.4.2. Ưu, nhược điểm
Ưu điểm
-


[101], [110]

Có lợi cho những hoạt chất hấp thu tốt ở dạ dày, có tác động tại chỗ ở dạ
dày, giảm sự kích ứng đường tiêu hóa của những thuốc có tính acid.

-

Tăng sự hấp thu của những hoạt chất kém hấp thu ở pH kiềm của ruột.

-

Tăng độ hấp thu của hoạt chất do thuốc đã hòa tan trong dịch dạ dày nên khi
xuống ruột ở dạng dung dịch thì sự hấp thu sẽ tăng lên.

-

Thuốc có tác dụng theo mong muốn.

-

Dễ dàng được bệnh nhân tuân thủ điều trị.

Nhược điểm
-

[101], [110]

Không nên bào chế dưới dạng thuốc nổi những hoạt chất gây kích ứng dạ
dày, kém ổn định trong môi trường dịch vị, hấp thu đồng đều trên toàn bộ

ống tiêu hóa, chịu hiệu ứng vượt qua lần đầu.

-

Không thích hợp cho những thuốc có độ tan rất thấp trong môi trường acid,
những thuốc nhằm mục đích phóng thích hoạt chất chọn lọc ở kết tràng.

-

Đòi hỏi phải có lượng dịch đủ nhiều trong dạ dày để thuốc nổi, phải uống
thuốc với lượng nước nhiều khoảng 200-250 mL.

1.4.3. Phân loại
Hệ thống có sủi bọt khí: thuốc nổi trong dạ dày nhờ vào quá trình sinh khí và quá
trình bắt giữ khí được sinh ra làm giảm khối lượng riêng của dạng thuốc. Bao gồm:
viên nén nổi một lớp, hai lớp, ba lớp, dạng nhiều vi hạt đóng trong một đơn vị phân
liều, dạng thuốc nổi với nhựa trao đổi ion, dạng thuốc nổi có cấu trúc buồng nổi,
dạng thuốc nổi có cấu trúc buồng trương phồng, dạng thuốc nổi phóng thích có
kiểm soát nhờ áp suất thẩm thấu

[26], [57], [102]

.


Hệ thống không có sủi bọt khí: thuốc nổi trong dạ dày nhờ vào sự trương nở của
polyme làm giảm khối lượng riêng của dạng thuốc. Bao gồm: viên nén nổi một lớp,
viên nén nổi hai lớp, dạng thuốc nổi có cấu trúc xốp, hạt alginat, viên nang có kiểm
soát thủy động lực học, vi cầu rỗng


[26], [57], [102]

.

1.4.4. Tá dược và các chất phụ trong bào chế thuốc nổi

[57], [101]

Keo thân nước: thường được sử dụng với tỷ lệ 20-75%. Chúng có thể là keo
tổng hợp, anion hoặc không ion hóa bao gồm các gôm thân nước, dẫn xuất cellulose
như pectin, agar, alginat, gelatin, casein, bentonit, chitosan, veegum, gôm gellan,
HPMC (K4M, K15M, K100M)…
Những chất béo no: thường được sử dụng với tỷ lệ 5-75%. Những chất béo no,
tiêu hóa được có khối lượng riêng nhỏ hơn 1 được sử dụng để làm giảm tính thân
nước của công thức và do đó làm tăng khả năng nổi như sáp ong, acid béo, alcol
béo mạch dài, glycerid, dầu khoáng…
Tác nhân tạo khí: natri bicarbonat, acid citric, acid tartaric, dinatri glycine
carbonate…
Những chất làm tăng độ nổi: có thể chiếm tỷ lệ đến 80%. Những chất có khối
lượng riêng nhỏ hơn 1 như ethylcellulose có thể được sử dụng để làm tăng độ nổi
cho công thức. Những chất có khối lượng riêng thấp: bột bọt polypropylen (Accurel
MP 1000®).
Những chất làm tăng tốc độ phóng thích hoạt chất: thường được sử dụng với tỷ
lệ 5-60% như lactose, mannitol… Những chất làm giảm tốc độ phóng thích hoạt
chất: thường được sử dụng với tỷ lệ 5-60% như dicalci phosphat, talc, magnesium
stearat…
Những chất phụ: chất bảo quản, chất ổn định, tá dược trơn có thể được thêm vào
công thức với tỷ lệ thích hợp.
1.4.5. Kỹ thuật điều chế
Sử dụng các keo có khả năng tạo gel như các gôm thân nước, gelatin, alginat,

dẫn xuất cellulose… kết hợp với tác nhân tạo khí carbonic tiến hành dập viên nén
một lớp, hai lớp, ba lớp theo kỹ thuật chung của sản xuất thuốc viên nén

[76]

.


1
7

Giảm kích thước tiểu phân, sau đó bao bằng lớp sinh khí và ngoài cùng là lớp
polyme hoặc tạo các vi cầu rỗng của thuốc rồi đóng vào nang

[76], [110]

.

Gắn kết hoạt chất tích điện âm với các hạt nhựa trao đổi ion và tác nhân sinh khí
carbonic, sau đó bao bằng một màng bán thấm rồi đóng nang hoặc dập viên

[76], [110]

.

Tạo buồng nổi với bể chứa thuốc được nang hóa hoặc phương pháp kết hợp với
buồng trương phồng chứa chất lỏng, dung môi hóa khí ở nhiệt độ cơ thể. Điều chế
dạng thuốc nổi phóng thích có kiểm soát nhờ áp suất thẩm thấu

[110]


.

Sử dụng các nguyên liệu có khối lượng riêng thấp như polyme methacrylic,
cellulose acetat phthalat

[76], [110]

.

1.4.6. Kiểm soát chất lượng
Tiềm thời: là thời gian để viên nổi lên hoàn toàn sau khi tiếp xúc với môi trường
hòa tan

[77]

.

Thời gian nổi: là thời gian tính từ khi viên nổi lên bề mặt môi trường cho đến khi
viên bắt đầu chìm xuống đáy cốc

[77]

.

Tính nguyên vẹn của viên, hạt: yêu cầu viên phải duy trì tính nguyên vẹn trong
suốt quá trình nổi

[77]


.

Chụp X-quang dạ dày: là thử nghiệm in vivo giúp đánh giá khả năng nổi của viên
trên sinh vật thử nghiệm hoặc trên người tình nguyện đồng thời thử nghiệm cũng
giúp cho việc xác định liều sử dụng. Thử nghiệm thực hiện bằng cách cho động vật
hoặc người tình nguyện uống thuốc, sau từng khoảng thời gian (tùy từng hoạt chất)
chụp X-quang đến khi nào không nhìn thấy viên trong dạ dày nữa thì kết thúc thử
nghiệm, ghi nhận lại kết quả

[77]

.

1.4.7. Các nghiên cứu bào chế dạng thuốc nổi curcumin
Gupta Neeta và Aggarwal Nidhi (2008) nghiên cứu viên nén nổi chứa curcumin
(CI) và viên nén nổi chứa phức curcumin-β-cyclodextrin (CII) theo cơ chế sủi bọt
khí với thành phần tá dược là HPMC K15 (200 mg), dicalci phosphat (20 mg), natri
carbonat (40 mg), acid citric (20 mg), carbopol 934P (25 mg) và magnesium stearat
(10 mg) bằng phương pháp xát hạt ướt. Kết quả cho thấy, thời gian nổi của cả 2
công thức CI và CII có tiềm thời 10-12 phút, thời gian nổi 16 giờ; CI trong 24 giờ


chỉ có 2,25% curcumin được phóng thích trong khi với CII thì có đến 98%
curcumin được phóng thích

[36]

.

Rahman MH và cộng sự (2010) đánh giá ảnh hưởng của HPMC và Poloxame

188 đến động học phóng thích của curcumin trong vi cầu nổi. Vi cầu nổi là một cấu
trúc rỗng bên trong được điều chế bởi nhũ tương dầu trong nước bằng phương pháp
khuếch tán dung môi, HPMC và Poloxame 188 hòa tan trong dung môi hữu cơ,
curcumin hòa tan hoặc phân tán vào polyme. Kết quả, HPMC và Poloxame 188 sử
dụng với nồng độ 10-40%, kích thước hạt vi cầu tăng khi nồng độ polyme tăng 101
± 2,8-220 ± 3,6 µm; các công thức có khả năng nổi từ 74-90%; thử độ hòa tan của
các vi cầu trong môi trường pH = 1,2 cho thấy khi nồng độ polyme tăng thì tỷ lệ
curcumin được giải phóng ra khỏi vi cầu giảm, trong đó công thức có độ giải phóng
cao curcumin cao nhất là công thức sử dụng Poloxame 188 với nồng độ 10%, trong
12 giờ giải phóng được khoảng 40% curcumin

[89]

.

Goindi Shishu và cộng sự (2011), nghiên cứu hạt nổi lưu lại dạ dày của phức
curcumin β-cyclodextrin để điều trị các khối u dạ dày. Hạt nổi được tạo ra bằng
cách cho từ từ hỗn hợp 200 mg phức curcumin vào 5 mL nước cất, dung dịch này
được phân tán vào dung dịch natri alginat (3% w/v) có chứa HPMC K15M
(alginat:HPMC = 9:1 w/w), tiếp tục thêm tá dược tạo khí calci carbonat
(alginat:CaCO3 = 1:0,5 w/w) và bơm vào dung dịch calci clorid 1% (w/v) đã được
acid hóa bằng acid acetic (10% v/v). Kết quả, 100% các hạt đều có khả năng nổi và
duy trì trạng thái nổi trong 24 giờ; thử nghiệm in vitro cho thấy sau 3 giờ curcumin
được phóng thích lần lượt là 380,18 µg/h và 185,43 µg/h với phức curcumin-βcyclodextrin và hạt nổi chứa phức này. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
50% curcumin được phóng thích từ hạt nổi sau 5 giờ và sau 12 giờ là 90%. Việc tạo
hạt nổi chứa phức curcumin không chỉ cải thiện độ hòa tan so với curcumin tinh
khiết mà còn giúp kéo dài thời gian giải phóng hoạt chất

[29]


.

Upmanyu Neeraj và cộng sự (2011) nghiên cứu bào chế vi cầu nổi chứa
curcumin bằng phương pháp bốc hơi dung môi. Curcumin, HPMC K15M và
cellulose ethyl (EC) với các tỷ lệ (1;2, 1:3, 1:4, 1:5, 1:6) được hòa tan trong một
hỗn hợp ethanol và dichloromethan (1:1) ở nhiệt độ phòng, sau đó thêm 250 mL


1
9

nước chứa 0,01% Tween 80, khuấy trong 20 phút với tốc độ dòng 300 rpm ở nhiệt
o

độ 30-40 C. Kết quả cho thấy hiệu suất tạo vi hạt 63,81-64,36%; kích thước hạt
phân bố từ 14,6-20,76 µm; tỷ lệ % nổi 48,3-68,3%; công thức có tỷ lệ HPMC:EC
(1:6) sau 12 giờ thử độ hòa tan trong môi trường pH 1,2 có tỷ lệ % giải phóng hoạt
chất là cao nhất

[109]

.

Kumar Kapil và AK Rai (2012) nghiên cứu bào chế vi cầu nổi chứa curcumin
bằng phương pháp bốc hơi dung môi. Curcumin, HPMC, cellulose ethyl (EC),
Eudragit S100 (F1:Eudragit S100 = 250 mg; F2:Eudragit S100 = 500 mg;
F3:Eudragit S100 = 750 mg + EC = 250 mg + HPMC = 250 mg; F4:EC = 500 mg +
EC = 250 mg). Các công thức được hòa tan trong hỗn hợp ethanol và dicloromethan
(1:1) sau đó thêm 200 mL nước chứa 0,2% natri lauryl sulfat, khuấy trong 1 giờ với
tốc độ dòng 750 rpm ở nhiệt độ phòng. Kết quả các vi cầu nổi có kích thước hạt, tỷ

lệ % nổi, hiệu suất tạo vi hạt là: 251-387 µm, 74,6-90,6% và 45,5-82,0%. Tỷ lệ hòa
tan trong môi trường thử pH 1,2 tối đa sau 20 h là 47,1; 55,7; 69,4 và 81,3% đối với
các công thức F1, F2, F3 và F4

[56]

.

Ridhima D, Shweta P và Upendra KJ (2012) nghiên cứu bào chế vi cầu nổi chứa
curcumin bằng phương pháp bốc hơi dung môi. Curcumin, HPMC E5LV, cellulose
ethyl (EC), Eudragit L100, Eudragit S100 với 9 công thức là sự kết hợp của các
polyme với các tỷ lệ khác nhau. Các công thức được hòa tan trong hỗn hợp ethanol
o

và dicloromethan (1:1) sau đó trộn với nước chứa 0,2% natri lauryl sulfat ở 40 C.
Kết quả, hiệu suất tạo vi hạt 73,2-86,9%; kích thước hạt phân bố từ 10-60 µm; tỷ lệ
% nổi 53,85-70,1%; công thức có tỷ lệ Eudragit L100:Eudragit S100 (1:1) sau 12
giờ thử độ hòa tan trong môi trường pH 1,2 có tỷ lệ % giải phóng hoạt chất là cao
nhất 90,73%

[97]

.

Rani Sobhita (2014) nghiên cứu bào chế viên nén nổi chứa curcumin theo cơ chế
sủi bọt khí-sinh khí CO2, sử dụng Psyllium kết hợp với HPMC K15M. Kết quả các
công thức nghiên cứu, viên có tiêm thời nổi từ 1-12 phút; thời gian nối > 8 giờ;
công thức tối ưu có sự phóng thích hoạt chất theo động học Higuchi

[95]


.

Treesinchai Sakonjan và cộng sự (2015) nghiên cứu bào chế viên nén nổi chứa
curcumin. Hệ thống bao gồm viên nhân chứa curcumin được bao bởi một lớp bao


tạo khí (acid tartaric + natri bicarbonat + HPMC) và một màng bảo vệ (Eudragit

®

RL 30D). Kết quả cho thấy, trong môi trường thử pH 1,2 viên có tiềm thời và thời
gian nổi là khoảng 6,5 phút và > 480 phút; kết quả cũng cho thấy độ hòa tan của
curcumin là rất thấp vì vậy cần phải thêm vào 1% (w/v) natri lauryl sulfat vào dung
dịch thử độ hòa tan

[121]

.

Bảng 1. 1. Một số chế phẩm thuôc nổi trên thị trường
Stt

Tên biệt dược

®

Dạng bào chế

Hoạt chất


[10]

1

Cifran OD

Viên nén nổi

Ciprofloxacin

2

Madopar

Viên nang nổi

L-DOPA và Benserazide

3

Valrelease

Viên nang nổi

Diazepam

4

Topalkan


Dung dịch alginat nổi Aluminum-magnesium antacid


2
1

Dung dịch alginat nổi

5

Liquid Gavison

6

Conviron

Gel nổi

Ferrous sulfat

7

Cytotech

Viên nén nổi

Misoprostal

sủi bọt khí


Aluminium hydroxid

1.5. TỔNG QUAN VỀ UNG THƯ DẠ DÀY-CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU ĐỘC TÍNH TẾ BÀO VÀ MÔ HÌNH GÂY UNG THƯ DẠ DÀY TRÊN
CHUỘT NHẮT TRẮNG
1.5.1. Tổng quan về ung thư dạ dày
Ung thư là một nhóm các bệnh liên quan đến việc phân chia tế bào một cách vô
tổ chức và những tế bào đó có khả năng xâm lấn những mô khác bằng cách phát
triển trực tiếp vào mô lân cận hoặc di chuyển đến nơi xa (di căn). Hiện có khoảng
200 loại ung thư

[4]

.

Ung thư dạ dày là một căn bệnh đi kèm với sự xuất hiện của một khối u ác tính
được hình thành trên cơ sở của biểu mô của niêm mạc dạ dày

[4]

.

1.5.1.1. Các yếu tố bệnh sinh
Chế độ ăn nhiều muối có liên quan chặt chẽ với hiện tượng gia tăng nguy cơ
mắc ung thư dạ dày (UTDD). Nghiên cứu trên động vật phát hiện thấy chế độ ăn


nhiều muối sẽ tạo hiện tượng viêm teo niêm mạc dạ dày và do đó tạo điều kiện
thuận lợi phát sinh UTDD khi kết hợp với nhiễm Helicobacter pylori. Các nitric

cũng được coi là vai trò trong bệnh sinh UTDD thông qua các nghiên cứu dịch tễ
học

[4]

.

Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ UTDD lên 1,56 lần. Theo Gonzalez (2003) xấp xỉ
18% trường hợp UTDD được quy cho hút thuốc lá

[30]

. Nguy cơ UTDD tăng theo

thời gian hút thuốc và giảm đi sau 10 năm cai thuốc.
H. pylori là xoắn khuẩn gram âm, ký sinh trong lớp chất nhày của niêm mạc. Tổ
chức Y tế thế giới đã xếp H. pylori vào nhóm tác nhân chính gây UTDD. H. pylori
có khả năng gây tổn thương niêm mạc từ đó viêm niêm mạc dạ dày kết hợp cùng
các yếu tố khác dẫn tới dị sản, loạn sản và ung thư

[27]

.

Do di truyền, ước tính UTDD có tính chất gia đình chiếm tỷ lệ 1% đến 15%
trong tổng số bệnh nhân mắc UTDD

[4]

.


Tiền sử bệnh lý ở dạ dày như: viêm teo dạ dày, vô toan, thiếu máu ác tính, dị sản
ruột, u tuyến dạ dày (polyp có kích thước > 2 cm) là một số bệnh lý được coi là
nguy cơ cao gây UTDD

[38]

.

Bảng 1. 2. Phân loại mô bệnh học ung thư dạ dày theo Tổ chức Y tế Thế giới năm
[20]
2010
Loại mô học


Khối
u nội
biểu
mô-u
tuyến
Ung
thư
biểu

Ung
thư
biểu

tuyến
T

y
p
r
u

t
T
y
p
l
a
n
t
o

U
T
B
M
t
u
y
ế
n
n
h
ú

UT
BM

tuyế
n
ống
nhỏ
UT
BM
tuyế
n
nhà
y
UT
BM
tế
bào
nhẫ
n
UT
BM
tuyế
n
vảy
UT
BM
tế
bào
vảy
UT
BM
tế
bào

nhỏ
UT
BM
khô
ng
biệt
hoá

Các loại khác
C
ar
ci
n
oi
d
(u
n
ội
ti
ết
bi
ệt
h

ca
o)
U
n
g
th

ư
k
h
ô
n
g
p
hả
i
bi
ểu
m
ô
S
ac
o
m

tr

ơn
Ung thư mô đệm
đường tiêu hoá
Sacom Kaposi
U lympho ác tính
U lympho tế
bào B vùng ria
của MALT U
lympho tế bào
Mantle

U lympho tế bào
B lan tỏa


1.5.1.2. Chẩn đoán
Triệu chứng lâm sàng
-

[4]

:

Đau bụng thượng vị và sụt cân là hai triệu chứng ban đầu thường gặp nhất
của UTDD.

-

Khó nuốt cũng là triệu chứng ban đầu thường gặp ở bệnh nhân ung thư xuất
phát từ đoạn gần dạ dày hoặc ung thư tâm vị.

-

Thiếu máu là triệu chứng toàn thân thường gặp trong UTDD, với tỷ lệ
thường dao động trong khoảng 20-40%.

-

Xuất huyết tiêu hóa xuất hiện ở một số bệnh nhân trong giai đoạn đầu của
UTDD.


Hầu hết các triệu chứng cơ năng và toàn thân của UTDD là không đặc hiệu và
có thể gặp trong nhiều bệnh lý ống tiêu hóa khác. Trên thực tế lâm sàng, đa số bệnh
nhân khi có các triệu chứng này thì UTDD đã ở giai đoạn tiến triển.
Cận lâm sàng: Chụp dạ dày hàng loạt có thuốc cản quang; nội soi dạ dày ống
mềm và sinh thiết; phương pháp tế bào học; phương pháp mô bệnh học; chụp cắt
lớp vi tính; chụp cộng hưởng từ; siêu âm nội soi.
1.5.2. Các phương pháp nghiên cứu độc tính trên tế bào và mô hình gây ung
thư dạ dày trên chuột nhắt trắng bằng 7,12-dimetyl benz(a)anthracen (DMBA)
1.5.2.1. Các phương pháp nghiên cứu độc tính trên tế bào
Khái niệm độc tính tế bào
Độc tính tế bào là kết quả của những tác động lên cấu trúc và/hoặc hoạt động
cần thiết cho sự sống, tăng sinh và/hoặc chức năng của tế bào dẫn đến tác dụng lên
chức năng của các cơ quan cụ thể và/hoặc gây tử vong.
Các chất có hoạt tính độc tính tế bào có thể tác động lên sự toàn vẹn của màng tế
bào và/hoặc màng bào quan, khung tế bào, quá trình phân chia, chuyển hóa của tế
bào, điều hòa ion, sinh tổng hợp hoặc phân giải, phóng thích chất nội bào hoặc các
thành phần của tế bào dẫn đến ức chế sự tăng trưởng của tế bào và/hoặc gây chết tế
bào

[62], [127]

.


×