Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Tiểu luận ảnh hưởng của ODA tới nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.53 KB, 43 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, với xu hướng chung của nền kinh tế thế giới là toàn cầu hóa đòi hỏi
mỗi quốc gia phải chủ động trong việc hội nhập quốc tế, nhằm phát huy những
tiềm năng sẵn có, tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài. Các nước đang phát
triển dường như được hưởng lợi từ các dòng vốn quốc tế, đặc biệt là FDI và ODA.
Đặc biệt, nguồn vốn ODA thật sự là nhân tố quan trọng trong các yếu tố xác định
đến tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Đối với Việt Nam, sau hơn
30 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, với trình độ phát triển kinh tế chưa cao, khả
năng tích lũy vốn còn hạn chế thì bên cạnh nguồn vốn trong nước, nguồn viện trợ
phát triển chính thức ODA đã tạo nền móng đầu tiên giúp Việt Nam xây dựng nền
tảng để thu hút các nguồn lực khác. Trong hơn 20 năm qua các nhà tài trợ đã cung
cấp cho Việt Nam một nguồn tài chính đáng kể, góp phần cải cách kinh tế và hội
nhập quốc tế. Đến nay Việt Nam có hơn 50 nhà tài trợ đa phương và song phương
đang hoạt động và cung cấp nguồn ODA và vốn vay ưu đãi cho hầu hết các ngành,
lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đây là nguồn ngoại tệ mạnh, góp phần cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá trong nhiều năm qua.
Nhận thấy tầm quan trọng của ODA, nhóm chúng em đã thực hiện đề tài ” Tác
động của vốn ODA với tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990-2016” để
nghiên cứu, tìm hiểu sâu sát hơn về thực trạng hoạt động quản lý và sử dụng nguồn
vốn ODA, đánh giá kết quả đạt được và các hạn chế của vốn ODA, phân tích
những tác động của hoạt động này tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt
1


Nam đồng thời đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa những
ảnh hưởng tích cực của nó tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

CHƯƠNG I: CÁC KHÁI NIỆM:


1.1. Vốn ODA trong nền kinh tế mở.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm vốn ODA.
 Khái niệm: ODA là tên viết tắt của Official Development Assitance -Hỗ trợ
phát triển chính thức hay Viện trợ phát triển chính thức.
(Hỗ trợ phát triển chính thức là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ
bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi
suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục
tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi
ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.)
ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín
dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành
cho các nước đang và chậm phát triển.
 Đặc điểm:
 Có tính ưu đãi của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế đối với các nước

đang và kém phát triển (Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn dài),
có thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời
gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Sự ưu đãi còn thể
hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển,
vì mục tiêu phát triển.

2


Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận
được ODA là:
-

Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người


-

thấp.
Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù
hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ

giữa bên cấp và bên nhận ODA)
 Thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định (ODA có thể ràng buộc
hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa điểm chi
tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc
khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận.
Ví dụ: Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên
Nhật.
 Có khả năng gây nợ. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể

tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng
nợ nần do không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có
khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc
trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính
sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức
mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
1.1.2.Phân loại vốn ODA
1.1.1.1 Phân loại theo phương thức hoàn trả thì có:
 Viện trợ không hoàn lại

3


Là khi bên nhận nhận được viện trợ được cung cấp mà không phải hoàn lại

để thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận giữa các bên. Viện trợ
không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
- Hỗ trợ kỹ thuật
- Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật

Trong Báo cáo quốc hội của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư ở Việt Nam
thời kì 2011-2015, vốn ODA không hoàn lại chỉ chiếm 4,52% so với tổng vốn
ODA.
 Viện trợ có hoàn lại (tín dụng ưu đãi)

Là khi bên viện trợ cho bên cần viện trợ vay một khoản tiền (tuỳ theo quy
mô và mục đích đầu tư) với một số ưu đãi nhất định. Những điều kiện ưu đãi
thường là:
-

Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay)

-

Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)

-

Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)

 ODA cho vay hỗn hợp:

Là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín
dụng thương mại theo các điều kiện của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
OECD. ODA cho vay hỗn hợp có thể kết hợp cả 3 loại hình: ODA không hoàn lại

với ODA ưu đãi và một phần tín dụng thương mại.

4


1.1.1.2

Phân loại theo nguồn cung cấp thì có:

 ODA song phương

Là các khoản viện trợ trực tiếp từ bên này bên kia kia (VD: nước phát triển
viện trợ cho nước đang và kém phát triển) thông qua hiệp định được ký kết giữa
Chính phủ;
 ODA đa phương

Là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB1...) hay tổ chức
khu vực (ADB, EU,...) hoặc của một Chính phủ của một nước dành cho Chính phủ
của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa
phương như UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhi
đồng Liên Hiệp quốc)... có thể không (thường các khoản viện trợ của các tổ chức
tài chính quốc tế được chuyển trực tiếp cho bên nhận viện trợ). Các tổ chức tài
chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
-

Ngân hàng thế giới (WB)

-

Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)


-

Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
1.1.1.3

Phân loại theo mục tiêu sử dụng

 Hỗ trợ cán cân thanh toán

Là các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách của Chính phủ, thường
được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao tiền tệ trực tiếp cho bên nhận và
hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá).
5


 Tín dụng thương nghiệp

Tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo các điều kiện ràng buộc.
VD: một nước cung cấp ODA yêu cầu nước nhận vốn phải dùng phần lớn hoặc hầu
hết vốn viện trợ để mua hàng ở nước cung cấp.
 Viện trợ dự án (thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn ODA)

Điều kiện để được nhận viện trợ vốn ODA dự án là phải có dự án cụ thể, chi
tiết về các hạng mục sẽ sử dụng ODA.
 Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án)

Là khi bên viện trợ và bên nhận viện trợ ký hiệp định cho một mục đích tổng
quát mà không cần xác định chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
Ngoài ra, phân loại theo mục đích sử dụng có thể chia nguồn vốn ODA

thành các loại chi tiết hơn gồm 8 loại: Hỗ trợ đầu tư phát triển, Hỗ trợ cán cân
thanh toán, Hỗ trợ nhập khẩu, Hỗ trợ theo chương trình, Hỗ trợ theo dự án, Hỗ
trợ kĩ thuật, Viện trợ nhân đạo và cứu trợ và Viện trợ quân sự
1.2. Tác động của vốn ODA tới tăng trưởng kinh tế.
1.2.1. ODA là đóng vai trò quan trọng trong cải thiện các chỉ tiêu kinh tế
xã hội.
- Dòng vốn ngoại luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế tại các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Nguồn ODA
thật sự là nhân tố quan trọng trong các yếu tố xác định đến tăng trưởng kinh tế của
các nước đang phát triển. Giúp tăng trưởng nhanh hơn, giảm tình trạng đói nghèo
và đạt được những chỉ tiêu kinh tế - xã hội. ODA bình quân đầu người các nước
đang phát triển thu nhập bình quân đầu người tăng 1% dẫn tới tỷ lệ đói nghèo giảm
2%, tức là nếu có cơ chế quản lý tốt thì viện trợ tăng lên 1% GDP sẽ làm giảm 1%
tỷ lệ đói nghèo và giảm 0,9% tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Viện trợ tác động tới tăng
6


trưởng, từ đó tác động mục đích nâng cao mức sống. Điều đó thể hiện tính nhân
đạo của ODA.
- ODA tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng
lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp cải thiện
điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường. Đồng thời nguồn
ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, phát
triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo...
- Mặc dù các nước viện trợ không muốn chuyển giao công nghệ cao nhưng thực tế
cũng có chuyển giao công nghệ tương đối cao làm tăng thêm tiềm lực khoa học
công nghệ của nước đang phát triển. Thường các nguồn vốn ODA được dùng để
xây dựng, nâng cấp các cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả cho nguồn nhân lực.
- ODA giúp các nước đang phát triển hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Đối với các nước

đang phát triển khó khăn kinh tế là điều khó tránh khỏi; vì vậy, ODA là nguồn bổ
sung ngoại tệ và làm lánh cán cân thanh toán quốc tế của các nước đang phát triển.
Việc chuyển chính sách kinh tế nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách
khuyến khích nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư
nhân cần phải có một lượng vốn lớn, do vậy các chính phủ phần lớn dựa vào nguồn
vốn ODA.
1.2.2. ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển.
- ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước đang phát triển đảm bảo chi đầu tư
phát triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA có đặc điểm là thời
hạn cho vay dài thường là 10-30 năm, lãi suất thấp khoảng từ 0,25% đến 2%/ năm.
Và đặc biệt chỉ trả lãi trước và gốc trả đều trong vòng 10-30 năm; từ đó Chính phủ
các nước có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như
đường sá, điện, nước, thủy lợi và cơ sở hạ tầng cho giáo dục. Chính vì vậy vốn
ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát
triển. Theo WB, đối với các nước đang phát triển có cơ chế quản lý tốt khi ODA
tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng trưởng tăng thêm 0,5%.
- Thông qua nước cung cấp ODA nước nhận viện trợ có thêm nhiều cơ hội mới để
tham gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ
các tổ chức này.
7


1.2.3. ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện mở
rộng để đầu tư phát triển kinh tế trong nước.
- Đối với các nước ĐPT thì nguồn vốn ODA được sử dụng chủ yếu vào các lĩnh
vực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Đây là lĩnh vực có nhu cầu vốn đầu
tư lớn song khả năng sinh lời lại thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Với mục đích là tìm kiếm lợi nhuận, các nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài sẽ quan tâm đến những nước có môi trường đầu tư thuận lợi nhằm giảm chi
phí. Vì vậy khi nguồn vốn ODA đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo cho các nước

nhận viện trợ một lợi thế lớn nhằm thu hút đầu tư FDI. Ở những quốc gia có cơ chế
quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm thu hút đầu tư tư nhân xấp xỉ
2 USD trên 1 USD. Hơn thế nữa, ODA còn tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong
nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại
lợi nhuận.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ODA TỚI
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM ( giai đoạn 1990-2016).
2.1 Tổng quan ODA ở Việt Nam giai đoạn 1990-2016
2.1.1 Thực trạng thu hút vốn ODA và tỷ trọng ODA trong vốn đầu tư
2.1.1.1 Thực trạng thu hút vốn ODA
Với một quốc gia đang phát triển rất nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất
lớn. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA là một trong những nguồn
vốn đầu tư phát triển quan trọng đối với Việt Nam. Trước đây,Việt Nam nhận
được hai nguồn vốn ODA song phương chủ yếu, một từ các nước thuộc tổ
chức SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế), trong đó chủ yếu là từ Liên Xô (cũ).
Đây là một nguồn viện trợ không nhỏ và có ý nghĩa quan trọng nhất cả về nội
dung, quy mô và chất lượng, cũng như giá cả, điều kiện tín dụng… Khoản
viện trợ này đã giúp chúng ta xây dựng một số ngành quan trọng nhất của sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế.
Nguồn viện trợ ODA thứ hai là từ các nước DAC và một số nước khác, chủ
yếu là Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy, Pháp, Ấn Độ… Nguồn ODA
này đã có ý nghĩa tích cực trên một số mặt trong sự nghiệp phát triển kinh tế
và xã hội của Việt Nam.

8


Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ (từ tháng 11-1993), Việt Nam
đã đón nhận được sự cam kết và viện trợ vốn ODA của nhiều quốc gia và tổ

chức quốc tế, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với ODA cho phát triển kinh tế
xã hội.
Trên cơ sở kết quả các hội nghị CG/VDPF, tổng vốn ODA cam kết của các nhà tài
trợ giai đoạn 1993 - 2014 đạt 85,195 tỷ USD với mức cam kết kỷ lục trong các
năm gần đây.
Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ đã ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về
ODA từ năm 1993 đến nay, đạt trên 69,189 tỷ USD, bằng 81,21% tổng vốn ODA
cam kết, trong đó vốn ODA và vốn vay ưu đãi đạt 62,012 tỷ USD, chiếm khoảng
89,62%, vốn ODA không hoàn lại đạt 7,176 tỷ USD và chiếm khoảng 10,38%.
Phần lớn các khoản vay ODA và vay ưu đãi quy mô lớn có lãi suất thấp, thời gian
vay và ân hạn dài. Khoảng 45% khoản vay có lãi suất dưới 1%/năm, thời hạn vay
từ 30 - 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn; khoảng 40% các khoản vay ODA còn
lại có lãi suất từ 1 - 3%/năm, thời hạn vay từ 12 - 30 năm, trong đó có 5 - 10 năm
ân hạn và còn lại là các khoản vay có điều kiện ưu đã kém hơn.
Tổng vốn ODA giải ngân tính đến hết năm 2014 dự kiến đạt 48,23 tỷ USD, chiếm
trên 69,71% tổng vốn ODA ký kết. Riêng hai năm trở lại đây, nhờ quyết tâm cao
của Chính phủ, nỗ lực của các ngành, các cấp và nhà tài trợ, giải ngân của một số
nhà tài trợ quy mô lớn như Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới (WB) đã có tiến bộ vượt
bậc: Tỷ lệ giải ngân của Nhật Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ hai và năm
2012 đứng thứ nhất thế giới; tỷ lệ giải ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm
2011 lên 19% năm 2012.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 9/2016, tổng vốn
ODA và vốn vay ưu đãi đạt trên 4,9 tỷ USD, cao gấp 1,8 lần so cùng kỳ năm 2015.
Tổng giá trị giải ngân đạt 2,68 tỷ USD, bằng 81,4% mức giải ngân cùng kỳ năm
2015. Các dự án ký kết tập trung nhiều ở lĩnh vực giao thông vận tải (trên 45%);
cấp thoát nước, vệ sinh môi trường; phát triển đô thị và thích ứng với biến đổi khí
hậu (trên 24%). Trong năm 2016 huy động vốn ODA và vay ưu đãi tăng 1,4 lần so
với 2015 nhưng sử dụng và giải ngân chưa thực sự hiệu quả, giải ngân vốn rất
chậm, chỉ bằng 80% của năm 2015 với 9 bộ ngành, 26 tỉnh thành giải ngân dưới
50% và sẽ làm phí của các dự án tăng lên rất nhanh.


9


Qua các thời kỳ, mức cam kết, ký kết và giải ngân đã có những tiến bộ nhất định,
tăng dần qua các năm. Tuy nhiên, riêng giai đoạn 2011 - 2014, số cam kết thấp hơn
so với giai đoạn 2006 - 2010 nhưng số ký kết lại cao hơn giai đoạn 2006 - 2010 và
cao hơn số cam kết trong cùng giai đoạn. Điều này thể hiện những cố gắng to lớn
của Việt Nam và các nhà tài trợ trong việc cải tiến và hài hòa hóa quy trình, thủ
tục, hoàn thiện thể chế, tăng cường năng lực ở tất cả các khâu trong huy động
nguồn lực (xây dựng văn kiện dự án; thẩm định và phê duyệt dự án; đàm phán và
ký kết hiệp định; tổ chức, quản lý và thực hiện dự án) cũng như sự tin tưởng của
các nhà tài trợ đối với Việt Nam.
Quy mô dự án được ký kết tăng dần qua các thời kỳ
Số lượng hiệp định ký kết thời kỳ 2006 - 2010 ít hơn, chỉ bằng 58,5% so với thời
kỳ 2001 - 2005, song quy mô trung bình của các chương trình, dự án trong thời kỳ
này lại cao gấp gần 2 lần. Điều này cho thấy đã có sự thay đổi trong cách tiếp cận
và sử dụng nguồn vốn ODA: (i) Tập trung ưu tiên ODA cho dự án đầu tư phát triển
10


hạ tầng đồng bộ, quy mô tương đối lớn, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông, năng
lượng và công nghiệp, thông tin liên lạc, phát triển hạ tầng đô thị; (ii) Áp dụng
cách tiếp cận theo chương trình, ngành thông qua các chương trình mục tiêu quốc
gia hoặc các chương trình ngành thực hiện ở nhiều địa phương như trong ngành
giao thông (Dự án Giao thông nông thôn III), nông nghiệp và phát triển nông thôn
kết hợp với xóa đói giảm nghèo (chương trình lâm nghiệp, Chương trình 135 giai
đoạn II, chương trình cấp nước nông thôn...), y tế (xây dựng hệ thống bệnh viện
theo vùng lãnh thổ), giáo dục và đào tạo (Dự án Giáo dục cho tất cả mọi người,
giáo dục trẻ em có hoàn cảnh khó khăn...).

Tỷ lệ vốn vay trong tổng vốn ODA có xu hướng tăng từ 80% (1993 - 2000) lên
81% (2001 - 2005), 93% (2006 - 2010) và hiện ở mức 96% (2011 - 2014). Trong
thời gian gần đây, đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình
thấp vào năm 2010, chi phí vốn vay có xu hướng tăng, nhiều khoản vay ODA có
điều kiện ràng buộc từ bên ngoài, làm chi phí đầu vào cao, ảnh hưởng đến hiệu quả
đầu tư và khả năng trả nợ các dự án được vay lại nguồn vốn ODA của Chính phủ.
Thực tế này đòi hỏi việc sử dụng vốn vay trong thời gian tới phải đảm bảo hiệu quả
kinh tế, vay và trả nợ nước ngoài bền vững.
Tỷ trọng ODA so với GDP ngày càng cao
Mức đóng góp của ODA vào tăng trưởng GDP đã có xu hướng tăng dần theo các
năm và thường tăng cao vào những thời kỳ kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn,
thách thức (như trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế châu Á 1997 - 1998 và khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008 - 2009). Trong giai đoạn 2004 2014, ODA chiếm trung bình khoảng 3,25% GDP, một tỷ trọng không lớn, song có
thể thấy tác động tích cực của nó trong việc kích cầu đầu tư, góp phần vào việc duy
trì đà tăng trưởng kinh tế.

11


Nhìn chung, công tác vận động, thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam đã
đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu gồm vốn ODA
cam kết, vốn ODA ký kết và vốn ODA giải ngân. Hiện có khoảng 50 nhà tài trợ
song phương và đa phương đang hoạt động, cung cấp nguồn ODA và vốn vay ưu
đãi cho nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội của Việt Nam.
2.1.1.2 Tỷ trọng ODA trong tổng vốn đầu tư tại
Việt Nam.
Tỷ trọng ODA theo ngành lĩnh vực:

12



Lĩnh vực giao thông vận tải và bưu chính viễn thông được ưu tiên tiếp nhận và sử
dụng nguồn vốn ODA lớn nhất trong tổng số 7 lĩnh vực khoảng 16,47 tỷ USD,
trong đó 15,9 tỷ USD là ODA vốn vay.
Trong thời kỳ 1993-2012, ngành giao thông vận tải đã hoàn thành và đang thực
hiện 132 dự án, trong đó đã hoàn thành 83 dự án với vốn ODA đạt 5 tỷ USD và
đang thực hiện 49 dự án với số vốn ODA khoảng 12 tỷ USD.

Ngành năng lượng và công nghiệp có tổng vốn ODA được ký kết trong thời kỳ
1993-2012 đạt khoảng 10 tỷ USD, trong đó viện trợ không hoàn lại không đáng kể,
khoảng 0,1%. Tổng số nhà tài trợ là 32, trong đó có 26 nhà tài trợ song phương và
6 nhà tài trợ đa phương.
13


Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo nhận
được nguồn vốn ODA đứng thứ ba với tổng trị giá ký kết khoảng 8,85 tỷ USD
(ODA vốn vay: 7,43 tỷ USD, ODA viện trợ không hoàn lại: 1,42 tỷ USD).
2.1.2. Thực trạng quản lý và sử dụng vốn ODA giai đoạn 1990-2016.
2.1.2.1. Thực trạng quản lý vốn ODA của Việt Nam.
Trong vấn đề quản lý ODA có thể đúc kết được những thành công cơ bản:
− Mục tiêu quản lý nợ nước ngoài trong đó có nguồn nợ ODA đã được
Chính phủ xác định một cách cụ thể và rõ ràng. Đó là: đáp ứng được các yêu cầu
về huy động vốn với chi phí thấp nhất cho đầu tư phát triển và cơ cấu lại nền kinh
tế theo định hướng, chiến lược phát triển kinh tế xã hội; đảm bảo quản lý phân bổ
và sử dụng vốn có hiệu quả, giảm thiểu rủi ro và áp lực đối với các nguồn lực quốc
gia, đảm bảo an toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia; tạo điều kiện tăng cường hội
nhập kinh tế quốc tế.
− Về tổng thể đã có sự phân công tương đối rõ ràng giữa các cấp bộ, ngành
trong vấn đê quản lý ODA Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối trong việc

thu hút, điều phối và quản lý ODA. Bộ Tài chính là đại diện chính thức cho “người
vay” là Nhà nước hoặc Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài nói chung và
nguồn vay nợ ODA nói riêng. Bộ Tài chính cũng chính là tổ chức cho vay lại, hoặc
ký hợp đồng ủy quyền cho vay lại với cơ quan cho vay lại và thu hồi phần vốn cho
vay lại của các chương trình, dự án cho vay lại từ NSNN, quản lý tài chính đối với
các chương trình, dự án … Ngân hàng nhà nước chịu trách nhiệm tiến hành đàm
phán và ký các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 2(31).2009 4 WB, RMF và ADB
v..v…

14


− Các khoản nợ nước ngoài nói chung và nguồn vay nợ ODA nói riêng hiện
tại đảm bảo trong giới hạn an toàn cho phép; có lãi suất, thời hạn và đồng tiền vay
hợp lí.
− Nguồn vay nợ nước ngoài trong đó có ODA là nguồn tài chính quan trọng
bổ sung cho ngân sách nhà nước, đảm bảo cho đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh
tế, đầu tư cơ sở hạ tầng, giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội, đặc biệt là vấn đề
xóa đói giảm nghèo, tăng cường và củng cố thể chế pháp lý, pháp triển quan hệ đối
tác chặt chẽ với nước ngoài.
Nhưng thực tiễn quản lý ODA của Việt Nam còn nhiều điều bất ổn:
− Tình hình thực hiện các dự án (DA) thường bị chậm ở nhiều khâu: chậm
thủ tục, chậm triển khai, giải ngân chậm, tỷ lệ giải ngân thấp. Do vậy, thời gian
hoàn thành dự án kéo dài làm phát sinh các khó khăn, đặc biệt là vốn đầu tư thực tế
thường tăng hơn so với dự kiến và cam kết; đồng thời cũng làm giảm tính hiệu quả
của DA khi đi vào vận hành khai thác.
− Công tác theo dõi, đánh giá tình hình đầu tư ODA chưa đầy đủ, còn nhiều
hạn chế. Đặc biệt là công tác theo dõi, thống kê, kiểm tra và đánh giá hiệu quả của
công trình sau đầu tư còn bỏ ngõ, ngoại trừ các DA vay lại và đang trong thời gian

trả nợ. Kết quả quản lý thường được đánh giá chỉ bằng công trình (mức độ hoàn
thành, tiến độ thực hiện) mà chưa xem xét đến hiệu quả sau đầu tư một khi công
trình được đưa vào vận hành khai thác. Quan điểm và cách làm này gây khó khăn
cho việc đánh giá, định hướng đầu tư từ nguồn ODA tạo nên sự lãng phí và né
tránh trách nhiệm của những bộ phận liên quan.

15


− Có sự chồng chéo trong thủ tục chuẩn bị và triển khai đầu tư. Theo Bộ Tài
chính, chỉ có 4% lượng vốn ODA áp dụng các quy định về đấu thầu và 3% sử dụng
hệ thống quản lý tài chính công của Việt Nam, còn lại là theo cách thức của nhà tài
trợ. Vì vậy, nhiều dự án cùng một lúc phải thực hiện 2 hệ thống thủ tục, một thủ tục
để giải quyết vấn đề nội bộ trong nước, một thủ tục với nhà tài trợ. Như ông
Dương Đức Ưng - Cố vấn cao cấp của Chương trình nâng cao năng lực toàn diện
về quản lý ODA tại Việt Nam – đã nêu: điều này làm kéo dài thời gian thực hiện
dự án, gia tăng chi phí (chi phí chuẩn bị DA, tăng chi phí đầu tư do lạm pháp bởi
thời gian kéo dài) tăng khả năng rủi ro vì có thể bị lợi dụng cho các hoạt động phi
pháp.
− Vấn đề quản lý nguồn vốn ODA tránh thất thoát và lãng phí cũng là điều
phải đặc biệt quan tâm, một số trường hợp như PMU18 và gần đây là DA Đại lộ
Đông Tây v.v… khiến cho công luận và Quốc hội đặc biệt quan ngại về việc quản
lý chặt chẽ đồng vốn ODA và hiệu quả của nguồn tài trợ này, đòi hỏi Chính phủ
cần phải có ngay những giải pháp triệt để.
2.1.2.2. Tình hình sử dụng vốn ODA của Việt Nam giai đoạn 1990-2016
Trải qua hơn 15 năm vận động và thực hiện ODA, đã có những kết quả
không thể phủ nhận theo hướng phát triển bền vững, đó là:
Thứ nhất, bổ sung nguồn vốn và tăng cường cơ sở hạ tầng: Nguồn vốn ODA
đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển.
Những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đa góp phần cả i thiện

cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải
và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Trong năm 2014, một số công trình, dự án trọng điểm quốc gia như cầu Nhật Tân,
16


đường nối Nhật Tân – sân bay Nội Bài, Nhà ga hành khách T2 – Cảng hàng không
quốc tế Nội Bài, đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đã được hoàn thành, đưa vào
khai thác sử dụng, góp phần hoàn chỉnh, hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng, thúc
đẩy liên kết vùng trong tiến trình phát triển khu vực phía Bắc. Dấu ấn nguồn vốn
ODA cũng đã để lại trên nhiều công trình trọng điểm trên nhiều vùng miền đất
nước như: Nhiều cây cầu trên quốc lộ 1 và hầm đường bộ Hải Vân; cầu Cần Thơ; 3
cảng quốc tế quan trọng là cảng quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng), cảng Cái Mép
Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu); cảng Đà Nẵng; đường cao tốc TP Hồ Chí Minh Long Thành - Dầu Giây; đường xuyên Á TP Hồ Chí Minh - Mộc Bài kết nối với hệ
thống đường bộ Campuchia và Thái Lan trong khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mê
Kông...
Thứ hai, xoá đói giảm nghèo, phát triển xã hội: ODA đã góp phần quan
trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm
nghèo. Số liệu các cuộc điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ
hộ nghèo đã giảm từ mức 58% vào năm 1983 xuống còn 37% năm 1998; 28,9%
năm 2002 và xuống dưới 20% những năm gần đây. Kết quả này cho thấy Việt
Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) về giảm nghèo mà
nước ta đã cam kết với thế giới, giảm 50% hộ nghèo trong thời gian 1990-2015.
Những kết quả này có sự góp phần quan trọng của ODA. Điều này được thể hiện
rõ nét thông qua các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xoá đói
giảm nghèo. Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ phát triển các tỉnh và thành phố, nhất là hỗ
trợ xoá đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng nông thôn miền
núi; ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tác động tích cực đến
việc cải thiện đời sống, nâng cao các chỉ số về giáo dục, y tế, văn hoá,… tăng

cường chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA cho giáo dục
và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo.
17


Thứ ba, tăng cường bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Nhiều dự án
ODA hỗ trợ bảo vệ môi trường ở các thành phố lớn. Nhiều dự án ODA đã dành
cho việc tăng cường hệ thống cấp nước sạch ở đô thị và nông thôn; cải thiện hệ
thống thoát nước thải ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, và các đô thị,
khu kinh tế quan trọng. Các nghiên cứu bảo vệ các di sản thiên nhiên như Vịnh Hạ
Long, Mỹ Sơn, Hội An, Cố đô Huế,… bảo đảm đa dạng sinh học đã được thực
hiện có kết quả.
Thứ tư, tăng cường thể chế: ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể
chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải
cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và lộ trình chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, tăng cường năng lực con người... Thông qua các dự án ODA, hàng ngàn
cán bộ Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công nghệ sản xuất, kỹ năng
quản lý hiện đại được chuyển giao.
Thứ năm, quan hệ đối tác chặt chẽ: Quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà
tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên
tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ
tục ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ
đối tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ... nghiên cứu áp dụng
các mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành,...), hài hoà quá
trình chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm,
tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA.
Bên cạnh những mặt tích cực của ODA cho sự phát triển kinh tế của Việt
Nam, đến từ các dự án trong thời gian qua thì vẫn còn tồn tại khá nhiều vấn đề
trong công tác sử dụng:

18


Vấn đề công khai minh trong các dự án ODA được đặt ra. Nổi cộm nhất
trong thời gian vừa qua là những bê bối tiêu cực, gian lận, tham nhũng tại các dự
án ODA. Điển hình như vụ PMU 18( 2006) , vụ Huỳnh Ngọc Sỹ( 2011), vụ nghi
vấn tiêu cực tại dự án Daniza Đan Mạch( 2012), Dự án cải tạo và nâng cấp cảng
Hải Phòng, vụ JTC liên quan đến ngành đường sắt( 2014) và nhiều dự án quan
trọng thuộc ngành dầu khí v.v... Điểm chung của những vụ bên bối lớn này đều bị
phát giác nhờ phía nước ngoài!? Đây là thực trạng đáng lo ngại đối với các cơ quan
quản lý của Việt Nam cũng như đối với các nhà tài trợ. Tham nhũng, hối lộ đã ảnh
hưởng đến lòng tin của nước tài trợ, điển hình năm 2012 Thụy Sỹ đã có ý định
ngừng viện trợ và gần đây là Nhật Bản.
Tình hình thực hiện và giải ngân các chương trình, dự án ODA và vốn vay
ưu đãi đã có những chuyển biến tích cực (Tổng giá trị giải ngân vốn ODA trong 10
tháng đầu năm 2014 của cả nước ước đạt 4.460 triệu USD, cao hơn 10% so với
mức giải ngân của cùng kỳ năm ngoái) song vẫn còn chậm hơn so với tiến độ đã
cam kết theo hiệp định. Giải ngân giữa các ngành, lĩnh vực và giữa các địa phương
còn chưa đồng đều. Những chương trình, dự án trong các lĩnh vực như giao thông,
năng lượng điện, phát triển đô thị có mức giải ngân cao hơn so với các lĩnh vực
khác như y tế, giáo dục và đào tạo, thông tin truyền thông, lao động… Giải ngân
của các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có mức cao hơn nhiều
so với các địa phương khác.
Chậm giải phóng mặt bằng dẫn tới đình trệ trong thực hiện dự án; điều
chỉnh, thay đổi trong quá trình thực hiện dự án làm phát sinh chi phí và kéo dài
thời gian thực hiện. Trong đó, dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông tăng từ 435,7
triệu USD lên gần 892 triệu USD (tăng hơn 339 triệu USD), tuyến Nhổn - Ga Hà
Nội tăng từ 783 triệu Euro lên 1,275 tỷ Euro (tăng thêm khoảng 492 triệu Euro); tại
TP Hồ Chí Minh, mới đây dự án tuyến đường sắt Bến Thành - Suối Tiên đã điều
19



chỉnh tăng vốn từ 47.325 tỷ đồng lên 54.006 tỷ đồng (năm 2011, tuyến này đã điều
chỉnh tăng một lần từ 14.415 tỷ đồng lên 47.325 tỷ đồng)…
Các Ban quản lý còn yếu, thiếu chuyên nghiệp đặc biệt là các dự án do nhà
thầu Trung Quốc thực hiện.

Tỷ trọng ODA theo vùng

20


Hiện vẫn tồn tại tình trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA không đồng đều
giữa các tỉnh trên địa bàn các vùng trong cả nước trong đó vùng đồng bằng sông
Hồng tiếp nhận nguồn vốn ODA lớn nhất với 10,42 tỷ USD và vùng Tây Nguyên
tiếp nhận nguồn vốn ODA thấp nhất với 1,36 tỷ USD.

Chính phủ Việt Nam có chính sách sử dụng ODA để hỗ trợ các ngành, lĩnh vực và
địa phương ưu tiên, nhất là đối với những địa bàn có nhiều khó khăn trong từng
thời kỳ phát triển.
2.2. Tác động 2 mặt của ODA tới phát triển kinh tế ở Việt Nam
2.2.1. Tác động tích cực
2.2.1.1. ODA làm tăng tổng vốn đầu tư xã hội, từ đó hỗ
trợ phát triển kinh tế xã hội
Trong thời kỳ 1990-2016, nguồn vốn ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan
trọng cho đầu tư phát triển, góp phần cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển trong các
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nguồn vốn ODA đã bổ sung
khoảng 11.4% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trung bình khoảng 50% trong
tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. ODA đã thực sự trở thành kênh vốn bổ
sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Trong thời gian gần đây

vốn ODA giải ngân qua các năm không ngừng tăng (năm 2006 giải ngân gần 1,8 tỷ
USD, năm 2007 đạt gần 2 tỷ USD và năm 2008 là 2,2 tỷ USD)

21


Nhờ có sự hỗ trợ bởi các khoản vốn và những kinh nghiệm phát triển quý
báu từ nguồn ODA, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của Việt Nam đã được cải thiện
và Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực như xã hội, y tế, giáo
dục, tăng cường thể chế, bảo vệ môi trường, phát triển nông thôn, đặc biệt là trong
công tác xóa đói giảm nghèo... Kể từ năm 1993 đến nay, đã có tới 22 tỉ USD được
giải ngân trong tổng số 42,5 tỉ USD vốn ODA cam kết. Cho đến gần đây, Việt Nam
luôn được coi là một trong những quốc gia sử dụng hiệu quả vốn ODA nhất trên
thế giới, đưa tỷ lệ đói nghèo giảm từ khoảng 58% năm 1992 xuống khoảng 15%
năm 2007. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn tăng cao và ổn định so
với các nước trong khu vực và trên Thế giới trong những năm gần đây
2.2.1.2. ODA hỗ trợ phát triển hệ thống cơ sở hạ
tầng
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, Việt Nam thường được nhận
nhiều ODA nhằm mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong lĩnh vực giao
thông vận tải, truyền thông và năng lượng.
Hơn 4,5 tỷ USD vốn ODA với 101 dự án do Trung ương quản lý đã và đang
được thực hiện để phát triển ngành giao thông vận tải, chủ yếu tập trung cho đường
bộ, đường biển và giao thông nông thôn.
Vốn ODA đã được sử dụng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới 3.676 km
đường quốc lộ; khôi phục và cải tạo khoảng 1.000 km đường tỉnh lộ; Quốc lộ 5, quốc
lộ 1A (đoạn Hà Nội-Vinh; đoạn TP. Hồ Chí Minh-Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh-Nha
Trang); làm mới và khôi phục 188 cầu, chủ yếu trên các Quốc lộ 1, Quốc lộ 10, Quốc
lộ 18 với tổng chiều dài 33,7 km; cải tạo và nâng cấp 10.000 km đường nông thôn và
khoảng 31 km cầu nông thôn quy mô nhỏ; Cầu Mỹ Thuận; xây dựng mới 111 cầu

nông thôn với tổng chiều dài 7,62 km (khẩu độ bình quân khoảng 25 – 100 m).

22


Vốn ODA đã đầu tư nâng cấp giai đoạn 1 cho cảng Hải Pḥng để có thể bốc
xếp được 250.000 TEV/năm; nâng cấp cảng Sài Gòn có công suất bốc xếp từ 6,8
triệu tấn/năm lên 8,5 triệu tấn/năm; xây dựng mới cảng nước sâu Cái Lân; cải tạo
cảng Tiên Sa, Đà Nẵng.
Nguồn vốn ODA đầu tư cho việc phát triển ngành điện với tổng cam kết cho
đến năm 2003 là 3,7 tỷ USD, hiện chiếm 40,3% trong tổng vốn đầu tư với 7 nhà
máy điện lớn (Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm Thuận - Đa Mi, Sông Hinh, Đa Nhim,
Phả Lại 2, Trà Nóc) có công suất thiết kế chiếm 40% tổng công suất của các nhà
máy điện ở Việt Nam xây dựng trong kế hoạch 5 năm 1996 – 2000. Tổng công suất
phát điện tăng thêm do đầu tư bằng nguồn vốn ODA là 3.403 MW, bằng tổng công
suất điện từ trước cho tới năm 1995. Trong ngành năng lượng điện, vốn ODA còn
đầu tư để phát triển hệ thông đường dây và mạng lưới điện phân phối điện, bao
gồm các dự án đường dây 500 KV Plâyku – Phú Lâm, đường dây 220 KV Tao Đàn
– Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành
thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và thành phố.
2.2.1.3. ODA đã có tác dụng tích cực trong tăng
cường năng lực, phát triển thể chế trên nhiều lĩnh
vực, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật,
cải cách hành chính.
Nhiều cơ quan đã được tăng cường năng lực với một lượng lớn các cán bộ
được đào tạo và tái đào tạo về khoa học, công nghệ và kinh tế. ODA cũng mang lại
những kinh nghiệm quốc tế có giá trị đối với sự nghiệp phát triển của nhiều lĩnh vực
kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, quản lý nhà nước, pháp
luật.
Với sự hỗ trợ kỹ thuật của ODA, một số bộ luật quan trọng đã được chuẩn bị

đúng hạn và được Chính phủ trình Quốc hộ thông qua góp phần đáp ứng yêu cầu
cải cách thể chế trong tiến trình của Việt Nam gia nhập WTO như Luật Đầu tư, Luật
23


Đấu thầu, Luật Phòng chống tham nhũng...; ODA có vai trò quan trọng hỗ trợ Việt
Nam xây dựng và hoàn thiện khung thể chế, pháp lý (xây dựng và hoàn thiện các
Luật, các văn bản dưới Luật) thông qua việc cung cấp chuyên gia quốc tế, những kinh
nghiệm và tập quán tốt của quốc tế và khu vực trong lĩnh vực pháp luật đặc biệt trong
bối cảnh Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Việc cải thiện và nâng cao chất lượng trang thiết bị cũng như trình độ khám
chữa bệnh thông qua các dự án viện trợ không hoàn lại tại hai bệnh viện lớn là Chợ
Rẫy và Bạch Mai và các dự án hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản trong lĩnh vực y tế
cũng đã góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ y bác sỹ cũng như trang
thiết bị khám chữa bệnh, qua đó cải thiện đời sống của nhân dân, đặc biệt là dân
nghèo thành thị.
Thông qua chương trình tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 1 do Nhật
Bản tài trợ, Ngân hàng Nhà nước đã hỗ trợ phát triển sản xuất cho 105 doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tạo nhiều công ăn việc làm ổn định. Ngoài số vốn 216 tỷ VND
cho vay lại, các Ngân hàng thực hiện tham gia đóng góp khoảng 130 tỷ VND và
người vay cuối cùng góp khoảng 256 tỷ VND, nâng tổng số vốn đầu tư cho nền
kinh tế lên khoảng 602 tỷ VND.
Nguồn vốn ODA có vai trò tích cực hỗ trợ phát triển năng lực con người
trong việc đào tạo và đào tạo lại hàng vạn cán bộ Việt Nam trong thời gian qua trên
rất nhiều lĩnh vực. Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục và đào tạo ước khoảng
550 triệu USD, chiếm khoảng 8,5 – 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp
phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng cường
một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như dự
án giáo dục tiểu học, trung học và đại học, dự án đào tạo nghề...


24


2.2.1.4. ODA góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ODA đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
hiện đại hóa, cải thiện các dịch vụ kinh tế xã hội
BIỂU ĐỒ CƠ CẤU ODA THEO NGÀNH VÀ LĨNH VỰC THỜI KỲ 1993-2008

Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
2.2.1.5. ODA góp phần quan trọng thúc đẩy phát
triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm
nghèo
Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA, Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án ODA ký kết
trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USDvà được sử dụng cho
phát triển lâm nghiệp, thủy lợi và nông nghiệp. Từ năm 1995 đến 2000, lượng vốn
này chưa nhiều, chỉ chiếm 20% tổng vốn đầu tư của ngành. Tuy nhiên, từ năm 200
đến năm 2008, lượng vốn này chiếm tỷ trọng khá lớn, thường chiểm khoảng
35_40% tổng vốn đầu tư của ngành. (Năm 2005 vốn ODA của ngành nông nghiệp
là 714 tỷ đồng, năm 2006 là 876 tỷ)
25


×