Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.68 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHÚC NHÂN

CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI SẢN VĂN HÓA
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành
Mã số

: Chính sách công
: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN THỊ AN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chính sách công “Chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị các di sản văn hóa từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” là kết quả
của quá trình học tập, nghiên cứu khoa học của bản thân. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố. Các
thông tin trích dẫn trong luận văn được chỉ rõ xuất xứ, nguồn gốc rõ ràng và


được phép công bố. Tác giả xin chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu
của mình./.

Học viên

Nguyễn Phúc Nhân


LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập và nghiên cứu, được sự hướng dẫn, giúp đỡ của
quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và người thân, luận văn thạc sĩ chính sách
công với đề tài “Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” đã hoàn thành.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành đến PGS.TS. Trần Thị
An đã hướng dẫn tận tình, chu đáo, đầy trách nhiệm. Sự giúp đỡ của cô đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo ở Học viện Khoa học xã hội
đã tận tình truyền đạt các kiến thức bổ ích trong suốt khóa học.
Biết ơn Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở VHTTDL tỉnh, BQL dự án đầu tư xây
dựng các công trình dân dụng và công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi, đã cho phép
và tạo điều kiện trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu; sự giúp đỡ, cung
cấp dữ liệu của các tổ chức, cá nhân cho tôi trong quá trình nghiên cứu và
thực hiện luận văn.
Luận văn này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, bản
thân rất mong nhận được sự góp ý.
Xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Nguyễn Phúc Nhân




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA ............................................... 11
1.1. Một số khái niệm ...................................................................................... 11
1.2. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa............................. 17
1.3. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của Việt Nam ..... 22
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TỈNH QUẢNG NGÃI ... 31
2.1. Khái quát về di sản văn hóa tỉnh Quảng Ngãi ......................................... 31
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn phát huy di sản văn hóa tỉnh
Quảng Ngãi ..................................................................................................... 35
CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA TỈNH QUẢNG NGÃI ...................... 62
3.1. Quan điểm, mục tiêu xây dựng chính sách bảo tồn và phát triển di sản
văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi .......................................................................... 62
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện CSBT và phát huy DSVH tỉnh
Quảng Ngãi ..................................................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSBT

: Chính sách bảo tồn


CSC

: Chính sách công

DSVH

: Di sản văn hóa

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KTXH

: Kinh tế - xã hội

NQ

: Nghị quyết

UBND

: Ủy ban nhân dân

VHTTDL

: Văn hóa, Thể thao và Du lịch


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Di sản văn hóa “là tài sản vô giá gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi
của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa”
[7, tr. 68]. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia không chỉ quan
tâm tới việc bảo vệ độc lập, chủ quyền về mặt chính trị và vẹn toàn lãnh thổ mà
còn coi trọng việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vì vậy mà chú trọng đến
việc tìm cách bảo tồn, khai thác và phát huy các di sản văn hóa (DSVH), xem
đó như một tài sản và lợi thế nhằm tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước.
Những cơ chế, chính sách về bảo tồn, phát huy DSVH trở thành một phần cốt
lõi trong các chính sách liên kết xã hội, môi trường, văn hóa, giáo dục và lập kế
hoạch phát triển của một đất nước, một tỉnh, thành phố.
Ở Việt Nam, từ sau đổi mới (1986), công tác bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và cộng đồng. Trên
thực tế, “quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong thời
gian qua đã có tác dụng bảo tồn và phát huy DSVH, ngăn chặn tình trạng
xuống cấp của di tích LSVH, tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực phát triển
ngành du lịch, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KTXH thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giao lưu hội nhập quốc tế” [36].
Quảng Ngãi là vùng đất có bề dày truyền thống văn hóa lịch sử, có
nhiều DSVH chứa đựng những giá trị biểu trưng cho trí tuệ, tâm hồn của dân
tộc Việt Nam và nhân dân các dân tộc Quảng Ngãi. DSVH có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc cho
thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, DSVH còn là nguồn lực quan trọng để phát triển du
lịch bền vững, góp phần tăng trưởng KTXH của địa phương.
1


Bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay, cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành nhiều chính

sách nhằm bảo tồn và phát huy giá trị DSVH góp phần nâng cao đời sống văn
hóa, tinh thần của nhân dân. Việc thực hiện các chính sách này là sự kết hợp
giữa việc triển khai các chính sách của Trung ương trên địa bàn tỉnh, chính
sách riêng được tỉnh Quảng Ngãi xây dựng phù hợp với tình hình thực tiễn
của địa phương. Bên cạnh những kết quả đạt được, tỉnh cũng còn gặp nhiều
khó khăn trong quá trình thực hiện các CSBT và phát huy giá trị các DSVH.
Việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH chưa tương xứng với
tiềm năng hiện có. Nguồn kinh phí, phương tiện, con người cho hoạt động
bảo tồn, khai thác giá trị di sản còn hạn chế.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn khách quan nêu trên, cùng với quá trình
công tác nhiều năm trong lĩnh vực quản lý DSVH, mong muốn góp một phần
công sức của mình vào việc bảo vệ, gìn giữ và lưu truyền cho thế hệ sau
những giá trị đặc sắc của các DSVH tỉnh Quảng Ngãi, tác giả đã chọn đề tài:
“Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ngãi” làm đối tượng nghiên cứu với mục tiêu tìm kiếm những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong việc thực thi các chính sách
bảo tồn, phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi theo hướng bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Các công trình nghiên cứu về chính sách, CSC
Công trình Tìm hiểu về khoa học CSC của Viện Khoa học chính trị - Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã có những giới thiệu khái quát về khoa
học chính sách; phân tích các biện pháp tiếp cận đối với việc giải quyết “xung
đột giá trị” của quá trình hoạch định chính sách trên phương diện lý luận và
thực tế; Đồng thời đưa ra một số khuynh hướng phát triển và hoàn thiện lý luận
về khoa học chính sách - tức là một hệ tri thức có khả năng ứng dụng trực tiếp,
2


phổ biến, làm cơ sở cho việc ra các quyết định về chính sách [51].
Tác giả Lê Chi Mai trong công trình Những vấn đề cơ bản về chính

sách và quy trình chính sách đã có những phân tích bước đầu, giới thiệu
những vấn đề lý luận cơ bản về khoa học chính sách, làm rõ nhận thức về
chính sách và các giai đoạn của quy trình chính sách trong thực tiễn của Việt
Nam [25].
Trong tác phẩm Khoa học Chính sách phát hành năm 2011 [8], tác giả
Vũ Cao Đàm đã đưa ra những cặp khái niệm mới, như mục tiêu công bố và
mục tiêu ngầm định của chính sách, tác động dương tính và tác động âm tính
của chính sách, tác động ngoại biên và chuỗi tác động kế tiếp của chính sách,
xung đột và bất bình đẳng xã hội do chính sách, paradigm (khung mẫu) và
kiến tạo xã hội của chính sách… Cùng với những cặp khái niệm này là quy
trình/phương pháp phân tích, hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách
được tiếp cận dưới các hướng tiếp cận hiện đại của khoa học.
Hai tác giả Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa với công trình Đại cương về
CSC đã cung cấp những kiến thức đại cương về phân tích CSC như: khái quát về
phân tích CSC, đặc trưng của phân tích CSC, tiêu chuẩn nhân sự làm chuyên môn
về phân tích CSC, quy trình, nội dung và phương pháp phân tích CSC [13].
Công trình CSC - Những vấn đề cơ bản của tác giả Nguyễn Hữu Hải
[14] đã cung cấp những kiến thức lý luận chung nhất về CSC như: quá trình
phát triển khoa học chính sách; đặc điểm, vai trò và phân loại CSC; cấu trúc
nội dung và chu trình CSC; nguyên tắc, căn cứ, các bước và phương pháp,
công cụ hoạch định CSC; yêu cầu, các hình thức, phương pháp tổ chức thực
thi CSC và phân cấp quản lý CSC; nguyên tắc, tiêu chí, quy trình, nội dung và
phương pháp phân tích CSC; nội dung đánh giá CSC; tổ chức công tác phân
tích, đánh giá CSC. Đặc biệt tác giả còn chú trọng đến việc vận dụng những
kiến thức cơ bản vào thực tiễn đánh giá CSC ở Việt Nam.
3


Giáo trình Đại cương về CSC của các tác giả Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn
Đính, Đinh Trung Thành đã có những khái quát chung nhất về lý luận CSC

như: quá trình phát triển khoa học chính sách; đặc điểm, vai trò và phân loại
CSC; cấu trúc nội dung và chu trình CSC; nguyên tắc, căn cứ, các bước và
phương pháp, công cụ hoạch định CSC; yêu cầu, các hình thức, phương pháp
tổ chức thực thi CSC và phân cấp quản lý CSC; nguyên tắc, tiêu chí, quy
trình, nội dung và phương pháp phân tích SCC; nội dung đánh giá CSC; tổ
chức công tác phân tích, đánh giá CSC [15].
Ngoài ra, còn có các bài viết công bố trên các tạp chí như Nghiên cứu
đánh giá chính sách của Đặng Ngọc Dinh [5, tr.57-62]; Đánh giá CSC ở Việt
Nam - Vấn đề và giải pháp của Nguyễn Đăng Thành [35, tr.68-72]; Đỗ Phú
Hải với Khái niệm CSC [16, tr.103-105]… đã đưa ra các khái niệm, đặc điểm,
chu trình CSC và việc đánh giá CSC, tiêu chí của đánh giá CSC.
- Các công trình nghiên cứu về CSBT và phát huy giá trị DSVH
Trong cuốn Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hoá dân
tộc (1997), tác giả Hoàng Vinh đã đưa ra một hệ thống lý luận về DSVH, đề
cập đến quan niệm về CSBT và phát triển DSVH dân tộc, chính sách về bảo
tồn và phát triển DSVH dân tộc của Việt Nam, đồng thời đưa ra một số kiến
nghị về CSBT, phát triển DSVH dân tộc [52].
Công trình Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập
quốc tế của hai tác giả Phan Hồng Giang và Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên) đã đề
cập đến nhiều lĩnh vực cụ thể của hoạt động quản lý văn hóa ở nước ta hiện nay
trong đó có quản lý DSVH. Ở lĩnh vực này, các tác giả đưa ra thực trạng quản lý
di tích lịch sử văn hóa, bảo tàng và DSVH phi vật thể. Nội dung quản lý được đề
cập trên hai khía cạnh: 1/Công tác quản lý nhà nước: bao gồm việc ban hành các
văn bản pháp quy, các văn bản thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước về bảo tồn DSVH dân tộc; 2/Công tác phát triển sự nghiệp: tập trung phân
4


tích những ưu điểm trong hoạt động bảo tồn di tích như nhà nước đã đầu tư toàn
bộ kinh phí cho các di tích cách mạng kháng chiến, các di tích được đầu tư tu bổ,

chống xuống cấp đã trở thành các điểm tham quan hấp dẫn. Đồng thời nêu ra
những hạn chế, đề ra những giải pháp cụ thể cho từng lĩnh vực của di tích như:
đầu tư đồng bộ trong bảo tồn, tôn tạo, triển khai việc quy hoạch chi tiết đối với các
di tích để giải quyết hợp lý, hài hòa, bền vững [10, tr.486].
Hai công trình Bảo tồn, phát huy giá trị DSVH vật thể Thăng Long - Hà
Nội [3] và Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể ở Thăng Long - Hà
Nội [44] là kết quả nghiên cứu của chương trình Khoa học cấp Nhà nước
“Nghiên cứu phát huy điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và giá trị lịch sử văn hóa 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, phục vụ phát triển toàn diện Thủ
đô”, mã số KX.09. Các khái niệm DSVH, DSVH vật thể, DSVH phi vật thể,
quan điểm của UNESCO, Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy DSVH
đã được đề cập đến trong nội dung của hai công trình này.
Trong một bài viết của mình, tác giả Bùi Quang Thắng đã giới thiệu
quan điểm về bảo tồn của học giả Ashworth từ thực tế bảo tồn di sản ở nhiều
nước trên thế giới thành 3 quan điểm và tương ứng với nó là định hướng bảo
tồn di sản: 1. Bảo tồn nguyên vẹn là quan điểm dựa trên quan điểm bảo tồn
văn hoá vật thể của các nhà bảo tàng học. Quan điểm này cho rằng, các sản
phẩm của quá khứ nên được bảo tồn nguyên vẹn như nó vốn có để tránh tình
trạng thế hệ hiện tại làm méo mó, biến dạng di sản. 2. Bảo tồn trên cơ sở kế
thừa dựa trên cơ sở mỗi di sản cần phải thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình
ở một thời gian và không gian cụ thể. Khi di sản ấy tồn tại ở không gian và
thời gian hiện tại, di sản ấy cần phát huy giá trị VHXH phù hợp với xã hội
hiện nay và phải loại bỏ đi những gì không phù hợp với xã hội ấy. 3. Bảo tồn
- phát triển với hạt nhân là khái niệm “tính xác thực” (hay “tính chân thực”)
của di sản (Authenticity of Heritage). Chân thực hay không không phải là một
5


giá trị khách quan mà được đo bằng trải nghiệm [37, tr. 678-680].
Trong bài viết Vận dụng những quan điểm của UNESCO vào việc
hoạch định chính sách và hệ thống pháp lý về bảo tồn DSVH phi vật thể ở

Việt Nam, tác giả Trương Quốc Bình đã phân tích những quan điểm của
UNESCO về DSVH và Công ước 2003 tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch
định chính sách và hệ thống pháp lý về DSVH phi vật thể.
Nhiều bài báo, tạp chí có giá trị bàn về bảo tồn và phát huy DSVH cũng
đã được công bố như bài viết Bảo tồn, phát huy giá trị các DSVH - thiên nhiên
thế giới phục vụ phát triển ở nước ta của tác giả Nguyễn Quốc Hùng nhấn
mạnh nhiệm vụ của ngành văn hóa và chính quyền địa phương cần tập trung
hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thống nhất tổ chức bộ máy
quản lý, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ bảo tồn, phát
huy giá trị DSVH và thiên nhiên thế giới nói riêng, DSVH nói chung [19, tr.
18-24].
Ngoài ra còn có các nghiên cứu khác đề cập đến công tác bảo tồn, phát
huy DSVH như: Về một cách tiếp cận mới trong bảo tồn và phát huy giá trị di
sản (Qua nghiên cứu trường hợp khu di sản Hội An) [47, tr. 53-58], Một số
quan điểm về bảo tồn và phát huy DSVH Hội An [48] của tác giả Đỗ Thị Ngọc
Uyển; Nhận thức về DSVH ở Việt Nam qua một số văn bản của Đảng và Nhà
nước của Nguyễn Hữu Thức [41, tr. 6-9]; Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH và
thiên nhiên trong quá trình hội nhập và phát triển của Nguyễn Quốc Hùng [20,
tr. 3-7]; Hoàng Tuấn Anh với bài viết Bảo vệ và phát huy giá trị DSVH - Cơ hội
mới, thách thức mới [1, tr. 3-5], Mấy suy nghĩ về phạm vi điều chỉnh chính sách
phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay của tác giả Đỗ Huy [22, tr.10-14]…
Ở Việt Nam, trong những năm qua, nhiều hội thảo đã được tổ chức
nhằm góp tiếng nói vào công tác bảo tồn, phát huy DSVH như Hội thảo Bảo
tồn và phát huy DSVH trong quá trình hiện đại hóa tổ chức ở Hà Nội (tháng
6


3-2012); Hội thảo quốc tế với chủ đề Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long - Tầm nhìn mới được tổ chức tại thành phố
Hạ Long (tháng 7-2012); Hội thảo khoa học với chủ đề DSVH với chiến lược

phát triển bền vững tổ chức tại Hà Nội (tháng 3-2017). Các vấn đề lý luận và
thực tiễn về DSVH nói chung, bảo tồn và phát huy DSVH ở một số địa
phương có di sản đã được vinh danh nói riêng đã được đưa ra thảo luận.
- Các công trình nghiên cứu về DSVH, CSBT, phát huy DSVH tỉnh Quảng
Ngãi
Công trình Địa chí Quảng Ngãi được xuất bản năm 2008 được xem là
“bách khoa toàn thư” về mảnh đất và con người Quảng Ngãi, trong đó các
DSVH của tỉnh được trình bày ở phần IV đã giới thiệu khái quát về các di
tích, danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh
Nghiên cứu về DSVH tỉnh Quảng Ngãi, tác giả Nguyễn Đăng Vũ đã có
nhiều công trình, bài viết có giá trị như: Văn hóa dân gian của cư dân ven biển
Quảng Ngãi [53], Quảng Ngãi một số vấn đề lịch sử, văn hóaTừ việc xác lập
nguồn gốc đội Hoàng Sa nghĩ về việc tôn tạo các di tích liên quan trên đất
Quảng Ngãi [53, tr.31-33], Văn hóa truyền thống Ca dong [54]…
Phân tích về tiềm năng DSVH của huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi,
Phạm Quốc Quân có bài viết Di sản với du lịch ở huyện đảo Lý Sơn - Tiềm
năng, thách thức và giải pháp [30, tr.11-15]; Nguyễn Thế Hùng - Nguyễn
Hữu Toàn có nghiên cứu Bảo vệ và phát huy giá trị DSVH biển đảo [21, tr.
17-20], Vũ Minh Giang với Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa biển đảo Việt
Nam - Thực trạng và một số vấn đề đang đặt ra [11, tr. 21-23], trong đó có đề
cập đến việc bảo tồn, phát huy DSVH huyện đảo Lý Sơn. Tác giả Trịnh Xuân
Hạnh có bài viết Một số vấn đề về các yếu tố văn hóa phi vật thể trên đảo Lý
Sơn liên quan đến đội Hoàng Sa - Bắc Hải trong lịch sử [17, tr. 84-88]…
Ngoài ra, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi cũng đã
7


cho xuất bản một số ấn phấm như Quảng Ngãi đất nước - con người - văn
hóa [33], Văn hóa cư dân đảo Lý Sơn [34]…
Những nghiên cứu trên góp phần cung cấp cơ sở lý thuyết về thực hiện

CSBT và phát huy giá trị DSVH. Tuy nhiên, cho đến hiện nay chưa có công
trình nào nghiên cứu về thực hiện CSBT và phát huy DSVH từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ngãi, cũng như đánh giá khái quát những tác động của CSBT, phát
huy DSVH trong phát triển KTXH của địa phương. Những vấn đề này sẽ
được đi sâu nghiên cứu và làm rõ trong nội dung luận văn này của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về CSBT và phát huy giá trị
DSVH nói chung, luận văn sẽ nghiên cứu thực trạng ban hành chính sách và
việc thực hiện CSBT, phát huy giá trị DSVH tại tỉnh Quảng Ngãi. Từ đó đề
xuất hoàn thiện, bổ sung chính sách về phương hướng và các giải pháp bảo
tồn, phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về CSC, CSBT, phát huy giá trị DSVH của
Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng và công cụ thực hiện CSBT, phát huy giá trị
DSVH tỉnh Quảng Ngãi. Đánh giá thành công và hạn chế của việc thực hiện
các chính sách đó.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện, bổ sung CSBT,
phát huy giá trị DSVH phù hợp với điều kiện thực tế tại tỉnh Quảng Ngãi
trong thời gian đến.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học CSC, đề tài luận văn tập trung nghiên cứu việc
8


ban hành và thực hiện CSBT, phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: CSBT và phát huy giá trị DSVH trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2003-2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
chính sách văn hóa nói chung, chính sách đối với DSVH nói riêng, về khoa
học CSC, khoa học quản lý công.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích
các nguồn tư liệu có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn
kiện, tài liệu, NQ, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và
địa phương; các công trình nghiên cứu, sách báo, các báo cáo, tài liệu thống
kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp tới vấn đề CSBT DSVH ở Việt Nam nói chung, tỉnh Quảng
Ngãi nói riêng. Đồng thời, thu thập các số liệu, sách báo của các tổ chức và
học giả liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp điền dã, thực địa: Tiến hành đi cơ sở khảo sát thực tế
các DSVH ở tỉnh Quảng Ngãi, kết hợp với việc tiếp xúc phỏng vấn những
người đang trực tiếp làm công tác quản lý văn hóa, quản lý di sản, người dân
có liên quan để thu thập thông tin.
- Phương pháp phân tích: Trên cơ sở những thông tin thu thập được,
bằng phương pháp phân tích, suy luận, lôgic, luận văn sẽ đi đến các nhận định
9


và kết luận về thực tiễn thi hành chính sách về bảo tồn và phát huy DSVH của
tỉnh Quảng Ngãi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả đánh giá làm sáng tỏ, minh chứng cho các lý thuyết liên quan
đến CSC, từ đó đề xuất các giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả chính sách được ban hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc vận
dụng các lý thuyết về CSC để xem xét giữa lý thuyết về chính sách và thực
tiễn về CSBT và phát huy giá trị DSVH ở tỉnh Quảng Ngãi, từ đó nâng cao
hiệu quả chất lượng của chính sách trong những năm tiếp theo.
Luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các ban
ngành có liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện cũng như hoạch định các
chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Hoàn thiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa tỉnh Quảng Ngãi.

10


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Di sản văn hóa

DSVH được Công ước Bảo vệ DSVH và thiên nhiên của thế giới của
UNESCO xác định bao gồm các di tích, quần thể kiến trúc và thắng cảnh [46, tr. 3].
Trong công trình Bản thảo DSVH và các vấn đề liên quan thuật ngữ và
định nghĩa, định nghĩa “DSVH là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, nó bao
gồm DSVH phi vật thể và DSVH vật thể” [43, tr.8].
Luật DSVH số 28/2001/QH10, Điều 1 ghi rõ: “DSVH quy định tại luật
này bao gồm DSVH phi vật thể và DSVH vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua
thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [31, tr.11].
Theo Luật DSVH Việt Nam số 28/2001/QH10 (Điều 4, Chương 1),
DSVH vật thể cần được hiểu là “sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia” [31, tr.11].
Theo Điều 1, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật DSVH số
32/2009/QH12 (Điều 1), DSVH phi vật thể được quy định là “sản phẩm tinh
thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên
quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng,
không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác” [24, tr.43].
Như vậy, ở Việt Nam, DSVH được thống nhất chia thành hai nhóm: vật
11


thể và phi vật thể, tương đồng với cách phân nhóm DSVH của UNESCO và
nhiều tổ chức văn hóa khác trên thế giới.
1.1.2. Chính sách, chính sách công và chính sách văn hóa
- Chính sách
Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi trong đời sống xã
hội. Mỗi khi có vấn đề gì nổi cộm trong xã hội, công chúng trông chờ vào những

phản ứng của chính quyền. Những phản ứng đó khi định hình và thể hiện một
cách chính thức được gọi dưới cái tên “chính sách”. “Mọi tổ chức, mọi cấp quản
lý đều phải sử dụng các công cụ quản lý để tác động lên đối tượng quản lý theo
một cách thức nào đó nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn” [9, tr.6].
Mặc dù chính sách của nhà nước là vấn đề nghiên cứu từ rất lâu, nhưng
chỉ trở thành vấn đề được xem xét có tính hệ thống từ vài thập kỷ gần đây. Sự
phát triển của nó gắn với một số (không nhiều) sự kiện lớn trên thế giới, đánh
dấu sự thay đổi từ khi kết thúc thế chiến thứ hai. Khái niệm khoa học chính
sách được Lasswell đề cập lần đầu tiên từ năm 1951. Đến nay, khoa học chính
sách đã có những phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những nội dung
trọng tâm của khoa học xã hội.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề chính sách, mỗi cách tiếp
cận liên quan trực tiếp tới tính đặc thù của từng lĩnh vực, như: chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hóa… Mỗi cách tiếp cận giúp người chuẩn bị quyết định chính
sách một hướng tư duy. Từ thực tế chính sách của các ngành, các địa phương
và các quốc gia, cũng như qua những cuộc thảo luận trên các diễn đàn nghiên
cứu chính sách, dưới đây là một số định nghĩa khác nhau về chính sách:
- Nhà chính trị học Mỹ - Theodore Lowi cho rằng: “Chính sách là cái
biểu hiện của chính trị” [39, tr.677].
- Theo Từ điển tiếng Việt “chính sách” được hiểu là “sách lược và kế
hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị
12


chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…” [28, tr.157].
- “Chính sách là hệ thống các thể chế, các định hướng, các quy định tạo
nên những thực hành của Nhà nước vào một đối tượng quản lý nào đó. Công
cụ thực hành chính của các chính sách là luật pháp và phương pháp hành
chính, ngân sách và hệ thống thuế. Các dạng tồn tại của chính sách gồm có
các định hướng mang tính nguyên tắc, các văn bản thể chế, các chính sách

đầu tư và thuế, các phương pháp hành chính khác” [18, tr.19].
- Trong một nghiên cứu về mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật,
tác giả Đinh Dũng Sỹ cho rằng: “Chính sách được hiểu là những tư tưởng,
những định hướng, những mong muốn cần hướng tới, cần đạt được. Còn
chiến lược hay kế hoạch, thậm chí pháp luật chẳng qua chỉ là hình thức, là
phương tiện để chuyển tải, để thể hiện chính sách” [32].
- Các tác giả Nguyễn Thanh Tuyền, Nguyễn Lê Anh định nghĩa chính
sách “là những chủ trương thích ứng với các đặc điểm và điều kiện KTXH
của từng giai đoạn phát triển và nhằm vào việc bảo đảm cho sự vận hành
đúng hướng và tích cực của cơ chế kinh tế” [45, tr.5].
Tóm lại, chính sách được hiểu là tập hợp các biện pháp do các nhà lãnh
đạo/nhà quản lý đề ra để giải quyết các vấn đề trong đời sống xã hội, là khung
thể chế cho các hoạt động trong thực tiễn.
- Chính sách công
Cụm từ “chính sách” khi gắn với vai trò, chức năng của “khu vực công”
được gọi là CSC. Đây không chỉ đơn giản là sự ghép từ thuần túy, mà đã có
sự thay đổi cơ bản về nghĩa, bởi nó có sự khác biệt về chủ thể ban hành chính
sách, về mục đích tác động của chính sách và vấn đề mà chính sách hướng tới
giải quyết.
CSC là chính sách của nhà nước, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với
sự ra đời, tồn tại, phát triển của nhà nước. CSC có vai trò quan trọng trong sự
13


nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đến nay, đã có nhiều định nghĩa về
CSC, Thomas Dye cho rằng CSC là “tất cả những gì Nhà nước lựa chọn làm
hoặc không làm” [40, tr.1].
William Jenkins đưa ra định nghĩa: “CSC là một tập hợp các quyết định
có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn
liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu

đó” [26, tr.5]. Theo tác giả, CSC là một quá trình chứ không chỉ đơn giản là
một sự lựa chọn; đồng thời, định nghĩa này cũng cho thấy một cách rõ ràng
CSC là “một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau” và quá trình chính
sách là hành vi định hướng mục tiêu của nhà nước.
Guy Peter cho rằng: “CSC là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có
ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân” [12, tr.
6]. Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi CSC là nhà nước,
đồng thời nhấn mạnh một khía cạnh quan trọng của CSC, đó là tác động của
CSC đến đời sống của mọi người dân hay cộng đồng xã hội, thay vì tác động
lên một cá nhân hoặc một tổ chức cụ thể.
CSC theo Nguyễn Duy Gia “là một tập hợp các quyết định hành động
của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế xã hội theo mục tiêu xác định. CSC do Nhà nước đề ra và tổ chức thực thi nên
CSC phản ánh bản chất của Nhà nước đó” [9, tr.7].
Theo tác giả Lê Chi Mai: “CSC là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các
quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang
đặt ra trong đời sống KTXH theo mục tiêu xác định” [25, tr.38]. Đồng thời
tác giả cũng nhấn những đặc trưng cơ bản của CSC như sau: Thứ nhất, chủ
thể ban hành CSC là Nhà nước; Thứ hai, các quyết định trong CSC này là
những quyết định hành động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi
thực tiễn; Thứ ba, CSC được ban hành nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra
14


trong đời sống KTXH theo những mục tiêu xác định; Thứ tư, CSC gồm nhiều
quyết định có liên quan đến nhau.
Như vậy có rất nhiều định nghĩa về “CSC” tùy theo những góc độ tiếp
cận khác nhau. Tựu chung lại, có thể hiểu “CSC là tập hợp các quyết định của
Nhà nước để giải quyết các vấn đề đặt ra trong đời sống của cộng đồng, người
dân nhằm hướng tới mục tiêu phát triển KTXH”.
CSC thường có thể được phân biệt dựa theo các tiêu chí khác nhau.

Theo chủ thể ban hành, CSC có chính sách do Trung ương ban hành và chính
sách do địa phương ban hành. Theo lĩnh vực, có chính sách kinh tế, chính
sách xã hội, chính sách đối nội, chính sách đối ngoại... Theo thời gian tồn tại
của chính sách gồm có chính sách dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Đối với
CSBT và phát huy giá trị DSVH tỉnh Quảng Ngãi mà Luận văn này chọn làm
chủ đề nghiên cứu thì chủ thể chính sách là cơ quan Trung ương và cấp tỉnh,
huyện ban hành, còn lĩnh vực đây là chính sách văn hóa, bao gồm các chính
sách dài hạn, trung hạn và ngắn hạn về bảo tồn, phát huy DSVH.
- Chính sách văn hóa
Đa phần các nước trên thế giới đều có chính sách văn hóa quốc gia
chính thức cho riêng mình. Đó là “văn bản thể hiện các ý chí chính trị, quan
điểm về văn hóa nghệ thuật, về vai trò của chúng trong tiến trình phát triển
của mỗi quốc gia, về cách thức điều hành và tổ chức đời sống văn hóa nghệ
thuật, về các thể chế điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này. Các
nhà nước và chính quyền địa phương (bang, vùng, tỉnh) đều có các chính sách
văn hóa theo quan điểm riêng của họ, song đều thống nhất trên một số nguyên
tắc cơ bản và đường hướng phát triển văn hóa trong tổng thể chính sách phát
triển của quốc gia, bang, vùng, lãnh thổ” [18, tr.11].
Chính sách văn hóa bao gồm những cơ chế ưu tiên của Nhà nước để
phát triển một lĩnh vực văn hóa hay một đối tượng văn hóa nào đó trong xã
15


hội (ví dụ chính sách phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiếu số, vùng
sâu, vùng xa; chính sách ưu tiên cho văn nghệ sĩ, CSBT văn hóa truyền
thống…). Chính sách văn hóa thể hiện sự quan tâm của Nhà nước tới phát
triển văn hóa.
Chính sách văn hóa “là hệ thống các nguyên tắc, các thực hành của nhà
nước trong lĩnh vực văn hóa nhằm phát triển và quản lý thực tiễn đời sống
văn hóa theo những quan điểm phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng

nhu cầu phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận
dụng các điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội” [18, tr.21].
1.1.3. Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH
Bảo tồn DSVH là bảo vệ sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức
vốn có của nó. Bảo tồn DSVH là không để DSVH bị mai một, “không để bị thay
đổi, biến hóa hay biến thái”. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, không
có khái niệm “cải biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển” [23, tr.267-277].
Còn “phát huy” có nghĩa là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp
tục nảy nở thêm” [29, tr.39]. Nói một cách đơn giản “phát huy DSVH chính
là việc khai thác, sử dụng di sản một cách có hiệu quả. Phát huy DSVH là một
hoạt động có tính liên ngành, có tiêu chí chung, mục đích là phục vụ cho sự
tiến bộ của xã hội, cho việc phát triển du lịch bền vững và góp phần quan
trọng trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc đồng thời là nhịp cầu nối với bạn bè năm châu” [27, tr.33].
DSVH là tài sản văn hóa của các thế hệ trước để lại và trở thành nguồn
lực phi vật thể đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển KTXH ở nước ta. Vì
vậy, DSVH cần được bảo vệ và phát huy bằng sức mạnh và trách nhiệm của
từng người dân, của cộng đồng, của cấp ủy Đảng, của chính quyền Trung
ương và địa phương; bằng các hoạt động quản lý và nghiệp vụ, bằng cơ chế,
chính sách tương ứng.
16


1.2. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
1.2.1. Nội dung CSBT và phát huy giá trị di sản văn hóa
CSBT và phát huy giá trị DSVH là một tổng thể hữu cơ các thực hành
xã hội dựa trên những nguyên tắc chung đã được Đảng và Nhà nước cân nhắc,
tính toán kỹ và một hệ thống các biện pháp của Nhà nước tác động vào các
hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển DSVH của dân tộc. Chính sách
là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức

năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về DSVH.
Mục tiêu chính của CSBT và phát huy DSVH dân tộc là sử dụng tối ưu
các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực mà nhà nước và xã hội có để không ngừng
làm phong phú, giàu có thêm vốn di sản đồ sộ của dân tộc quốc gia đa tộc
người của Việt Nam, đáp ứng cao nhất nhu cầu văn hóa của nhân dân, đáp
ứng nhu cầu phát triển bền vững.
Nội dung của chính sách này bao gồm:
- Thể chế về pháp luật bảo tồn và phát huy DSVH;
- Thể chế về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn
phát huy DSVH;
- Thể chế về ngân sách;
- Thể chế về xây dựng các thiết chế, cơ sở vật chất.
Như vậy CSBT và phát huy DSVH dân tộc không chỉ là các định
hướng chung mà còn phải là các thực hành xã hội thực tiễn và các biện pháp
tác động lên việc thực thi các công việc, nhiệm vụ trong thực tế.
1.2.2. Chu trình CSBT và phát huy giá trị DSVH
Chu trình CSBT và phát huy DSVH ở Việt Nam được nhìn nhận như
một quá trình từ hoạch định đến thực hiện cho ra kết quả cuối cùng. Có nhiều
cách thức để nhìn nhận các giai đoạn của một quá trình CSC nói chung, chính
sách về DSVH nói riêng. Về tổng thể, Luận văn này phân tích chu trình
17


CSBT và phát huy DSVH gồm các giai đoạn sau :
Hoạch định và ban hành chính sách: Đây được xem như là bước khởi
đầu trong chu trình CSBT và phát huy DSVH. Đây là bước đặc biệt quan
trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học sẽ xây dựng được chính
sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả
cao. Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực
tế, thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình

quản lý các DSVH. Những tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ, mà nó ảnh
hưởng lâu dài đến việc bảo tồn, phát huy các DSVH.
Quy trình hoạch định và ban hành chính sách về DSVH ở nước ta được
thực hiện tuần tự theo các bước như sau: Thứ nhất, nêu lý do hoạch định
chính sách dựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ sở những
mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước; Thứ hai, xây dựng dự thảo
các phương án chính sách và lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất; Thứ ba,
hoàn thiện phương án lựa chọn và thẩm định phương án chính sách; Thứ tư,
quyết nghị ban hành chính sách, công bố chính sách trong thực tiễn.
Tổ chức thực thi chính sách: Sau khi bản kế hoạch tổ chức thực hiện
CSBT, phát huy giá trị DSVH được thông qua, các cơ quan nhà nước tiến
hành tổ chức triển khai thực hiện theo kế hoạch trong thực tiễn. Đây được
xem là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một chính sách.
Việc thực thi các CSC nói chung, chính sách về DSVH nói riêng được
thực hiện theo các bước sau: Bước 1: xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện
chính sách, đây là bước cần thiết quan trọng vì tổ chức thực thi chính sách là
quá trình phức tạp, lại diễn ra trong thời gian dài do đó phải có kế hoạch. Kế
hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống và
gồm các bước sau đây: Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ
quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi; kế hoạch cung cấp nguồn vật
18


lực như tài chính, trang thiết bị; kế hoạch thời gian triển khai thực hiện; kế
hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách; dự kiến về quy chế, nội quy về tổ
chức và điều hành thực thi chính sách. Bước 2: Phổ biến tuyên truyền chính
sách: Đây là công đoạn tiếp theo sau khi chính sách đã được thông qua. Nó
giúp cho nhân dân, các cấp chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho
chính sách được triển khai thuận lợi và có hiệu quả. Việc tuyên truyền này
cần phải được thực hiện thường xuyên liên tục, ngay cả khi chính sách đang

được thực thi và với mọi đối tượng. Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện
chính sách: Một chính sách thường được thực hiện trên một địa bàn rộng lớn
và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bước 4: Duy trì chính sách: đây là bước làm cho
chính sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Để duy
trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố,
như Nhà nước là người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và môi
trường để chính sách được thực thi tốt. Đối với người chấp hành chính sách
phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào thực thi chính sách. Bước 5: Điều
chỉnh chính sách, việc làm này là cần thiết, diễn ra thường xuyên trong quá
trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền (thông thường cơ quan nào lập chính sách thì có quyền điều
chỉnh). Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu
của chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt
động này phải hết sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách
ban đầu. Bước 6: Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách: Bất
cứ triển khai chính sách nào thì cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các
chính sách được thực hiện đúng, và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Các
cơ quan Nhà nước thực hiện việc kiểm tra này, và nếu tiến hành thường xuyên
thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách từ đó có
19


×