Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 110 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC GIÀU

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI SẢN XUẤT,
BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC GIÀU

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI SẢN XUẤT,
BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số

: 60.38.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
không trùng lặp, không sao chép bất kỳ công trình nghiên cứu nào; những tài liệu,
số liệu, dẫn chứng sử dụng trong Luận văn là trung thực và chính xác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung cam đoan trên./.

Người cam đoan

Nguyễn Thị Ngọc Giàu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………… 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ……………………………………..7
1.1. Khái niệm, các cơ sở và nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn
bán hàng giả…………………………………………………………………..…….7
1.2. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả……… 20
1.3. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả……… 25
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI SẢN XUẤT,
BUÔN BÁN HÀNG GIẢ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH… 29
2.1. Thực trạng các cơ sở lý luận, chính trị và pháp luật của phòng ngừa tình hình

tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh………..…..29
2.2. Thực trạng tổ chức các lực lượng phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán
hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh…………………………………… 35
2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội sản xuất,
buôn bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh………………………… 42
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong công tác phòng ngừa tình hình
tội sản xuất, buôn bán hàng giả của Thành phố Hồ Chí Minh……………………. 53
2.5. Dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh…………………………………………………….. 54
Chương 3: TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI SẢN XUẤT,
BUÔN BÁN HÀNG GIẢ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH……………………………………………………………………………...58
3.1. Tăng cường hoàn thiện cơ sở lý luận, cơ sở chính trị - pháp lý của phòng ngừa
tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh… 58
3.2. Tăng cường tổ chức các lực lượng phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán
hàng giả của Thành phố Hồ Chí Minh……………………………………………..61


3.3. Tăng cường tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội sản xuất,
buôn bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ………………………... 63
3.4. Tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho công tác phòng ngừa tình hình tội sản
xuất, buôn bán hàng giả của Thành phố Hồ Chí Minh…………………………… 74
KẾT LUẬN……………………………………………………………………… 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………. 79
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt


Chữ viết đầy đủ

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

Tp.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

VKS

Viện kiểm sát


VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: So sánh số vụ án và số bị can phạm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế với số vụ án và số bị can phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên
phạm vi cả nước (từ năm 2012 đến năm 2016).
Bảng 1.2: So sánh số vụ án và số bị can phạm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế với số vụ án và số bị can phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến năm 2016).
Bảng 1.3: Tỉ lệ tăng, giảm số vụ án và số bị can phạm tội sản xuất, buôn bán hàng
giả trên cả nước (từ năm 2012 đến năm 2016).
Bảng 2.1: Thống kê trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng Cảnh sát kinh tế
Công an Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến năm 2016).
Bảng 2.2: Thống kê số vụ và số bị can phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả do Cơ
quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố, điều tra (từ năm
2012 đến năm 2016).
Bảng 2.3: Thống kê số vụ và số bị can phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả do
VKSND Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết trong giai đoạn điều
tra, truy tố (từ năm 2012 đến năm 2016).
Bảng 2.4: Thống kê trình độ, nghề nghiệp của người phạm tội sản xuất, buôn bán
hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến năm
2016).
Bảng 2.5: Thống kê địa điểm tập trung hoạt động của tội phạm sản xuất, buôn bán
hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến năm
2016).
Bảng 2.6: Thống kê về thủ đoạn phạm tội phổ biến của tội phạm sản xuất, buôn bán

hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến năm
2016).
Bảng 2.7: Thống kê tình trạng phạm tội của các bị cáo phạm tội sản xuất, buôn bán
hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến năm
2016)
Bảng 2.8: Thống kê mức hình phạt TAND Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng đối với
các bị cáo phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả (từ năm 2012 đến năm
2016).


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1: So sánh số vụ án và số bị can phạm các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế với số vụ án và số bị can phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả
trên phạm vi cả nước (từ năm 2012 đến năm 2016).
Biểu đồ 1.2: So sánh số vụ án và số bị can phạm các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế với số vụ án và số bị can phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến năm 2016).
Biểu đồ 1.3: Tỉ lệ tăng, giảm số vụ án và số bị can phạm tội sản xuất, buôn bán
hàng giả trên cả nước (từ năm 2012 đến năm 2016).
Biểu đồ 2.1: Trình độ, nghề nghiệp của người phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến năm 2016).
Biểu đồ 2.2: Thống kê địa điểm tập trung hoạt động của tội phạm sản xuất, buôn
bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến
năm 2016).
Biểu đồ 2.3: Thống kê về thủ đoạn phạm tội phổ biến của tội phạm sản xuất, buôn
bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến
năm 2016).
Biểu đồ 2.4: Tình trạng phạm tội của các bị cáo phạm tội sản xuất, buôn bán hàng
giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2012 đến năm 2016)
Biểu đồ 2.5: Tỉ lệ hình phạt TAND Thành phố Hồ Chí áp dụng đối với các bị cáo

bị Minh xét xử về tội sản xuất, buôn bán hàng giả (từ năm 2012 đến
năm 2016).


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, thị
trường hàng hóa của nước ta trở nên phong phú, đa dạng nhưng cũng có nhiều đối
tượng lợi dụng sự phát triển của thị trường để sản xuất hàng giả, đưa hàng giả vào
thị trường tiêu thụ nhằm thu lợi bất chính. Tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả
hiện nay đang là một trong những tội phạm kinh tế gây nên những tác hại to lớn về
kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của nước ta. Bởi lẽ, nó không chỉ gây ra thiệt
hại về kinh tế cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng mà còn làm
ảnh hưởng đến uy tín và sự phát triển của các đơn vị sản xuất, kinh doanh chân
chính. Nguy hiểm hơn, tội phạm này còn tác động xấu đến môi trường cạnh tranh,
làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế
quốc dân. Do đó, phòng ngừa, ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn hàng giả ở Việt Nam
hiện nay trở thành yêu cầu cấp thiết mà thực tiễn đặt ra.
Những năm qua, dưới lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, công tác đấu tranh
phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả đã đạt được những kết quả
quan trọng, góp phần ổn định, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, bảo đảm an ninh trật
tự, bảo vệ quyền lợi của người dân. Tuy nhiên, theo đánh giá của Chính phủ tại
Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09/6/2015 về việc đẩy mạnh công tác đấu tranh
phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới, thì:
“…công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả chưa tạo được
chuyển biến căn bản; tình hình buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới, gian lận thương mại và hàng giả vẫn diễn biến phức tạp, với thủ đoạn tinh vi
và gắn với tệ nạn tham nhũng, làm thất thu ngân sách, thất thoát tài nguyên, tác
động xấu đến môi trường đầu tư, kinh doanh và hội nhập quốc tế”. Do đó, cần phải
có sự đầu tư nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn công tác phòng, chống buôn

lậu, gian lận thương mại, hàng giả trên cả nước, nhất là đối với các đô thị lớn để đề
ra giải pháp đấu tranh, phòng ngừa hiệu quả hơn đối với các tội phạm này.

1


Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) là một đô thị loại đặc biệt, là trung tâm
kinh tế lớn nhất của nước ta. Sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần cùng
với những chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài làm cho Thành phố trở
thành một địa bàn năng động với nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các ngành
nghề truyền thống cùng với những sản phẩm mới đã tạo nên một thị trường hàng
hóa hết sức đa dạng. Với số dân cư đông đúc, lại là địa bàn nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam của Tổ quốc, Tp.HCM là một thị trường tiêu thụ hàng hóa sôi
động nhất cả nước. Tuy nhiên, là một thị trường tiêu thụ rộng lớn nên Tp. HCM
không tránh khỏi việc bị các đối tượng phạm tội lợi dụng những “kẽ hở” trong
chính sách kinh tế, những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý kinh tế để tổ
chức sản xuất và đưa vào lưu thông nhiều loại hàng giả với đủ các chủng loại, từ
mặt hàng ngoại nhập đến mặt hàng sản xuất trong nước, từ hàng hóa cao cấp, đắt
tiền đến hàng hóa tiêu dùng bình thường… Thực trạng này đã gây nên tác hại rất
xấu đến đời sống kinh tế, xã hội của Tp. HCM nói riêng và cả nước nói chung.
Thời gian qua, các cơ quan chức năng của Tp.HCM đã phát hiện, xử lý nhiều
vụ sản xuất, buôn bán hàng giả và đã thu được những kết quả nhất định. Theo thống
kê tội phạm của VKS Tp.HCM, trong 5 năm (từ 2012 đến 2016), toàn Thành phố đã
có 108 vụ án với 134 đối tượng bị điều tra, truy tố, xét xử về tội sản xuất, buôn bán
hàng giả. Tuy nhiên, thực tế còn tiềm ẩn một số lượng lớn các vụ sản xuất, buôn
bán hàng giả đã hoặc đang xảy ra nhưng chưa bị phát hiện và xử lý. Điều đó cho
thấy công tác đấu tranh, phòng chống tội sản xuất, buôn bán hàng giả cũng còn
nhiều mặt hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Tình hình trên đòi hỏi công tác phòng, chống tội phạm sản xuất, buôn bán
hàng giả của Tp.HCM phải có những chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức và cả

về hành động để có thể ngăn chặn và đẩy lùi loại tội phạm nguy hiểm này, trong đó
việc chủ động phòng ngừa có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng để góp phần thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ và giải pháp mà Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày
09/6/2015 của Chính phủ đã đề ra.

2


Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống và khoa học những vấn đề lý
luận về tội sản xuất, buôn bán hàng giả cũng như thực trạng tình hình tội phạm và
công tác phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả của Tp.HCM để tìm
ra những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này là một việc làm cần thiết và có ý
nghĩa quan trọng.
Với nhận thức trên, tác giả chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình tội sản xuất,
buôn bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sĩ
nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết về nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong công tác
phòng, chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả của Tp.HCM nói riêng và cả
nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường của nước ta,
đấu tranh phòng, chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả là một vấn đề phức
tạp và luôn mang tính thời sự nên được nhiều nhà nghiên cứu lý luận và nhiều cán
bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Điều này được thể hiện qua một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu đã được công bố sau đây:
- GS. TS Nguyễn Xuân Yêm và PGS. TS Nguyễn Hòa Bình (đồng chủ biên 2003), Tội phạm kinh tế thời mở cửa, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Công an
nhân dân, Hà Nội;
- Mai Thị Lan (2008), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo pháp luật hình sự
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Vũ Anh Tuấn (2013), Hoạt động của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm
về Trật tư quản lý kinh tế và Chức vụ Công an Thành phố Hồ Chí Minh trong

phòng ngừa tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Cảnh
sát nhân dân;
- Trương Văn Út (2013), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo hình sự Việt
Nam (trên cơ sở số liệu của địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh), Luận văn Thạc sĩ,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;

3


- Nguyễn Thị Tố Uyên (2014), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156
BLHS năm 1999, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các công trình khoa học nêu trên đã đóng góp vào hệ thống khoa học pháp lý
những giá trị lý luận và thực tiễn nhất định. Nhiều công trình nghiên cứu khá sâu
sắc, toàn diện về tội sản xuất, buôn bán hàng giả dưới góc độ khoa học luật hình sự.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về phòng ngừa tình hình
tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Tp.HCM dưới góc độ tội phạm học. Do
vậy, về phương diện lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu đề tài:“Phòng ngừa tình
hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” là
rất cần thiết và không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực trạng phòng ngừa tình
hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Tp.HCM; nguyên nhân của những
hạn chế, bất cập trong công tác phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng
giả của Tp.HCM, Luận văn đề xuất những giải pháp tăng cường phòng ngừa tình
hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Tp.HCM trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội sản xuất, sản
xuất, buôn bán hàng giả;

- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác phòng ngừa tình hình tội sản xuất,
buôn bán hàng giả trên địa bàn Tp.HCM trong những năm gần đây; những nguyên
nhân hạn chế, bất cập trong công tác này;
- Dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên
địa bàn Tp.HCM;
- Xây dựng các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn
bán hàng giả ở địa bàn Tp.HCM trong thời gian tới.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn phòng ngừa
tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Tp.HCM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Dưới góc độ Tội phạm học và dựa trên các quan điểm khoa học về tình hình
tội phạm và phòng ngừa tình hình tội phạm, Luận văn nghiên cứu về thực trạng
phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Tp.HCM.
- Các số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài được thu thập trên địa bàn Tp.HCM
trong thời gian 5 năm (từ 2012 – 2016).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về tội phạm và phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, kế thừa thông tin, ý tưởng, số liệu: các
công trình khoa học, văn bản pháp lý, bản án, hồ sơ vụ án, báo cáo sơ kết, tổng kết

các ban ngành có liên quan để làm rõ những vấn đề lý luận phòng ngừa tội sản xuất,
buôn bán hàng giả.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống, đối chiếu,
biểu đồ, quy nạp, diễn dịch, suy luận logic: đánh giá thực trạng, tổ chức thực hiện
các biện pháp phòng ngừa và dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội sản xuất,
buôn bán hàng giả.
- Phương pháp suy luận logic, phân tích, tổng kết kinh nghiệm: từ thực tiễn
đấu tranh phòng, chống tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Tp. Hồ Chí
Minh từ năm 2012 đến 2016, đưa ra các giải pháp phòng ngừa tình hình tội này.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình
tội phạm và thực tiễn phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa
bàn TP. HCM, Luận văn góp phần bổ sung cơ sở lý luận về phòng ngừa tình hình
tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả nói
riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả đạt được của Luận văn là tài liệu tham khảo để các cơ quan có
thẩm quyền nghiên cứu, áp dụng những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong thực tiễn hiện nay.
Đồng thời, Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu khoa
học về phòng ngừa tội phạm và phòng ngừa tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả.
7. Cơ cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
cấu trúc thành ba chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn

bán hàng giả.
- Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình tội sản xuất và buôn bán hàng
giả trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
1.1. Khái niệm, các cơ sở và nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội sản
xuất, buôn bán hàng giả
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán
hàng giả
1.1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả là một bộ phận của công
tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung. Vì vậy, để nhận thức đúng khái niệm
phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả, trước tiên cần phải làm rõ
khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm.
Cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về phòng ngừa tội phạm.
Theo quan điểm của đa số các nhà nghiên cứu lý luận về Tội phạm học ở Việt Nam
hiện nay thì: “Phòng ngừa tình hình tội phạm được hiểu là việc áp dụng các biện
pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức và công
dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các
nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm
và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội” [39, tr.
210]. Như vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm sẽ bao gồm cả hoạt động phòng và
chống tội phạm. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, phòng ngừa tình hình tội

phạm nên hiểu theo nghĩa hẹp. Theo quan điểm này, phòng ngừa tình hình tội phạm
chỉ bao gồm hoạt động tác động vào nguyên nhân, điều kiện của tội phạm nhằm
ngăn ngừa trước không để tội phạm xảy ra và loại trừ nguyên nhân phát sinh tội
phạm [23, tr.31]. Mặc dù còn có nhận thức khác nhau về khái niệm phòng ngừa tội
phạm nhưng tựu chung lại, các quan điểm đều thống nhất xác định: Phòng ngừa tình
hình tội phạm không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan, tổ chức mà chính là nhiệm
vụ chung của toàn xã hội; phòng ngừa tình hình tội phạm là việc sử dụng tổng thể
các biện pháp mang tính xã hội và các biện pháp mang tính cưỡng chế Nhà nước và

7


suy cho cùng chính là những giải pháp mang tính chủ động, tích cực và hiệu quả
hơn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phòng ngừa tình hình tội
phạm mang tính hệ thống, đồng bộ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và công dân. Chủ thể chính của hoạt động phòng ngừa tội
phạm bao gồm: Các cơ quan Nhà nước; các tổ chức xã hội và cá nhân công dân.
Với nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm như vậy, theo chúng tôi, khái niệm
phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả có thể được hiểu như sau:
“Phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả là hoạt động của các
cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và của mọi công dân áp dụng tổng hợp các biện
pháp khác nhau hướng đến việc thủ tiêu những nguyên nhân, điều kiện phạm tội sản
xuất, buôn bán hàng giả nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm tình hình tội phạm và
tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả ra khỏi
đời sống xã hội”.
Chủ thể của hoạt động phòng ngừa tội phạm bao gồm các cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, các tập thể lao động, cá nhân công dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Căn cứ vào phạm vi, đối tượng tác động của các hoạt động phòng ngừa, có thể
xác định nội dung hoạt động phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả
bao gồm: Phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và phòng ngừa riêng (phòng ngừa

nghiệp vụ).
Phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) là hệ thống các biện pháp của Nhà
nước và xã hội nhằm khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển tội sản
xuất, buôn bán hàng giả. Phòng ngừa xã hội huy động sức mạnh của toàn xã hội, sử
dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, giáo dục, văn hóa, tư tưởng, hành chính, pháp
luật… dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Phòng ngừa riêng (phòng ngừa nghiệp vụ) là hoạt động của các cơ quan chức
năng sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ nhằm khắc phục những nguyên
nhân, điều kiện cụ thể dẫn đến phạm tội về sản xuất, buôn bán hàng giả, phát hiện,
ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội này, quản lý, giáo dục các đối tượng phạm tội
tiến bộ hòa nhập với cộng đồng. Chủ thể tham gia phòng ngừa nghiệp vụ gồm các

8


cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Tòa án, VKS và các cơ quan chức năng
khác như Quản lý thị trường, Hải quan… Phòng ngừa nghiệp vụ có vị trí rất quan
trọng, góp phần làm giảm tội phạm sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả.
1.1.1.2. Ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Thực tiễn đã khẳng định, phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả
có nhiều ý nghĩa to lớn, đó là:
- Phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả có ý nghĩa nhân văn
sâu sắc trong việc bảo vệ người tiêu dùng, bảo đảm quyền con người, bảo vệ lợi ích
chính đáng của các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính.
- Phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả còn có ý nghĩa chiến
lược vì đã ngăn chặn, làm hạn chế và loại trừ nguyên nhân, điều kiện nảy sinh tội
phạm sản xuất, buôn bán hàng giả, tiến tới loại trừ tình hình tội phạm này ra khỏi
đời sống xã hội. Do đó, sẽ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thuận lợi cho viêc
đầu tư, từ đó giúp cho nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển bền vững.
- Phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả có ý nghĩa to lớn về

mặt kinh tế - xã hội: Khi phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả có
hiệu quả sẽ làm hạn chế thấp nhất những thiệt hại do tội phạm này gây ra, nhất là
những thiệt hại về kinh tế đối với các cơ quan, tổ chức và mỗi cá nhân, từ đó đảm
bảo an ninh, trật tự xã hội và tạo nên một xã hội lành mạnh, văn minh.
- Phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả góp phần nâng cao uy
tín của Đảng và Nhà nước ta trong việc lãnh đạo, quản lý đất nước cũng như trong
quan hệ đối ngoại với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2. Các cơ sở của phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả xét về bản chất là hoạt
động tác động vào nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm nhằm kịp thời
phát hiện và xử lý tội phạm. Vì vậy, để đạt được mục tiêu đã đề ra, phòng ngừa tình
hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả cần thiết phải được tiến hành dựa trên những
cơ sở nhất định, đó là: Cơ sở lý luận; cơ sở chính trị - pháp lý và cơ sở thực tiễn.

9


1.1.2.1. Cơ sở lý luận của phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả ở nước ta được xây dựng
trên nền tảng cơ sở lý luận của Tội phạm học. Là một ngành khoa học độc lập trong
hệ thống các ngành khoa học pháp lý, những lĩnh vực mà Tội phạm học nghiên cứu
bao gồm: Tình hình tội phạm; nhân thân người phạm tội; nguyên nhân và điều kiện
làm phát sinh tội phạm; những biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trong xã
hội. Quá trình hình thành và phát triển của Tội phạm học Việt Nam được bắt nguồn
từ việc nghiên cứu các hiện tượng xã hội và quá trình xã hội dựa trên những luận
điểm khoa học của học thuyết Mác - Lênin về tội phạm học. Theo đó, tình hình tội
phạm được nghiên cứu với tư cách là một hiện tượng tiêu cực xã hội và là hiện
tượng cụ thể, từ đó đã rút ra kết luận: Tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội
sản xuất, buôn bán hàng giả nói riêng là một hiện tượng xã hội tiêu cực chỉ xuất

hiện trong điều kiện xã hội nhất định và sẽ mất đi khi các nguyên nhân, điều kiện
làm phát sinh ra nó không còn nữa. Chính vì vậy, phòng ngừa tình hình tội sản xuất,
buôn bán hàng giả là hoạt động hoàn toàn có thể thực hiện được nếu như xác định
đúng nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm.
Trên cơ sở những luận giải khoa học của Tội phạm học về nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm nói chung, kết hợp với việc phân tích, đánh giá
những điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam giúp chúng ta lý giải nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả ở các góc độ khác nhau.
Dưới góc độ tâm lý - xã hội, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội sản xuất,
buôn bán hàng giả được xem là hệ quả của lối sống ích kỷ, vụ lợi cá nhân, tham
vọng làm giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp luật. Dưới góc độ kinh tế - xã hội,
nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả được lý giải là
do trong xã hội hiện nay còn tồn tại những mâu thuẫn cần được giải quyết xuất phát
từ vấn đề có khó khăn về kinh tế, xã hội. Dưới góc độ quản lý nhà nước thì nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả là do những
hạn chế, yếu kém của các cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế, xã hội; trong xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật; trong tổ chức đấu

10


tranh phòng, chống tội phạm… Nhận thức đúng những vấn đề lý luận về nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả là cơ sở khoa học để
xây dựng các biện pháp phòng, chống tình hình tội phạm này trên cả hai lĩnh vực
phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.
Như vậy, có thể khẳng định, những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm đã
được thừa nhận trong khoa học Tội phạm học chính là cơ sở lý luận của hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả.
1.1.2.2. Cơ sở chính trị - pháp lý của phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn
bán hàng giả

Xuất phát từ chức năng lãnh đạo xã hội và quản lý xã hội, Đảng, Nhà nước ta
đã có những quan điểm, chủ trương và các văn bản pháp luật về phòng ngừa tội
phạm nói chung và tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả nói riêng. Đây chính là cơ
sở chính trị - pháp lý quan trọng cho hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này.
Trong giai đoạn hiện nay, cơ sở chính trị - pháp lý của hoạt động phòng ngừa
tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả bao gồm:
Một là, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm:
Theo quan điểm của Đảng ta, đấu tranh phòng, chống tội phạm là sự nghiệp
của toàn dân. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm được đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, kết hợp chặt chẽ tính tích cực của quần
chúng với công tác nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn. Trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm, thì phòng ngừa là biện pháp chủ yếu. Để giữ gìn an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội cần chủ động phòng ngừa, lấy phòng ngừa làm cơ bản.
Những quan điểm này được bộc lộ rõ nét qua các văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng. Điển hình như, trong Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII (năm 1992) đã thể hiện đường lối đấu tranh chống tội phạm của Đảng ta là:
“Phát động sâu rộng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng các
tuyến địa bàn an toàn an ninh trật tự, chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu
quả chống các thế lực thù địch và bọn tội phạm. Sử dụng đồng bộ các biện pháp

11


đấu tranh, kết hợp chặt chẽ phòng ngừa với tấn công, lấy phòng ngừa làm cơ bản,
nghiêm trị với khoan hồng, trấn áp với giáo dục, cải tạo” [21, tr.5]. Hoặc trong các
chỉ thị như: Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Ban Chấp hành Trung ương;
Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư Trung ương cũng thể hiện rõ
chủ trương đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới hiện nay, đó là:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm; phát

huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ giữa công tác
phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Công tác phòng,
chống tội phạm phải được thực hiện trong tiến trình cải cách tư pháp, phải tôn trọng
quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân và phải lấy chủ
động phòng ngừa là chính, kết hợp chặt chẽ với tích cực tấn công trấn áp tội phạm
[5, tr.1, 2]. Quyết tâm của Đảng ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
và phòng, chống tội sản xuất, buôn bán hàng giả nói riêng còn được thể hiện ở định
hướng phát triển kinh tế - xã hội được thống nhất nêu văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI với những nội dung cụ thể như: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng Xây
dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống
pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện ngày càng
tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp cho các đối tượng dễ bị
tổn thương trong nền kinh tế thị trường. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh
kinh tế; Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật; Tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách để vận hành có hiệu quả nền
kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc [22, tr.
108, 140, 247]. Những chủ trương, định hướng này là tiền đề chính trị tư tưởng
vững chắc cho tất cả các hoạt động của Nhà nước và xã hội trong công tác phòng,
chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, những quy định của Hiến pháp và các văn bản luật:

12


Trong Hiến pháp của nước ta đã xác định phòng ngừa tội phạm là trách nhiệm
của toàn xã hội, việc tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm phải trên cơ sở
triệt để tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Tinh thần này được thể
hiện rõ nét qua các quy định cụ thể của Hiến pháp năm 2013, đó là: Nhà nước được
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp

và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 8); Công dân có nghĩa
vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng (Điều 46) và tài sản
hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ
(Điều 51) [30]. Đây chính nền tảng pháp lý cơ bản nhất của hoạt động phòng ngừa
tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả ở nước ta.
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, các văn bản luật như Bộ luật hình sự
(BLHS); Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)… đã quy định tương đối có hệ thống,
toàn diện về các nguyên tắc xử lý; chính sách hình sự; trình tự, thủ tục giải quyết vụ
án hình sự; quan hệ phối hợp trong công tác phòng, chống tội phạm… Trong đó,
đặc biệt phải kể đến những quy định của BLHS. Bằng việc hình sự hóa những hành
vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm; quy định về những tội phạm cụ thể và chế tài
đối với tội phạm, BLHS đã thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu
tranh chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta.
Trong lĩnh vực phòng ngừa, đấu tranh chống các hành vi sản xuất, buôn bán
hàng giả, ngay từ BLHS 1985 đã pháp điển hóa hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả
thành một tội danh cụ thể: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 167) với mức hình
phạt rất nghiêm khắc. Cho đến BLHS 1999, thì quy định của Điều 167 BLHS 1985
về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả đã được tách thành 3 tội có chế tài khác nhau
tùy theo đối tượng được sản xuất, buôn bán là hàng giả thông thường; hàng giả là
lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và thuốc phòng bệnh hay hàng giả là thức
ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây
trồng, vật nuôi. Ngoài ra, tuy vẫn giữ nguyên tên tội danh nhưng theo quy định của
Điều 156 BLHS 1999, thì cấu thành cơ bản của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả

13


cũng đã được bổ sung quy định định lượng về giá trị thiệt hại để phân biệt rõ ràng
hơn tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Cho đến BLHS năm 2015 (Bộ luật này có

hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018) thì quy định về tội sản xuất, buôn bán
hàng giả lại tiếp tục được sửa đổi theo hướng nghiêm khắc hơn, cụ thể hơn. Đó là,
Điều 192 BLHS 2015 về tội sản xuất, buôn bán hàng giả đã có quy định nâng mức
hình phạt khởi điểm của khung 1 và khung 2; cụ thể hóa các tình tiết tăng nặng “gây
hậu quả nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng”; các tình tiết
“thu lợi bất chính” và “thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn” và bổ sung thêm
tình tiết tăng nặng định khung là “qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội
địa và ngược lại” ở khoản 2 [49, tr. 97]. Như vậy, có thể thấy, những quy định của
BLHS về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là một trong những minh chứng rõ ràng
nhất thể hiện quan điểm, chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta trong đấu tranh
phòng, chống loại tội phạm này. Đây chính là căn cứ pháp lý để phòng ngừa và xử
lý các hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
Bên cạnh đó, các bộ luật thuộc lĩnh vực hình sự như Bộ luật tố tụng hình sự,
Luật về tổ chức điều tra hình sự từ trước đến nay cũng đều có những quy định về
trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, về sự phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Tại Điều 26 BLTTHS năm 2003 quy định: Trong phạm vi trách nhiệm của
mình, các cơ quan nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm; phối
hợp với Cơ quan điều tra, VKS, Toà án trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm. [26, tr.18]. Tại Điều 4 BLHS năm 1999 cũng quy định: các cơ quan, tổ
chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao
cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của
cuộc sống xã hội chủ nghĩa, kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức mình. Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực
tham gia phòng, chống tội phạm [25, tr.49]. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng
để tổ chức các lực lượng phòng ngừa tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả và huy

14



động lực lượng quần chúng tham gia phòng ngừa, chống tội phạm sản xuất, buôn
bán hàng giả.
Ba là, các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và các Bộ, cơ quan
ngang Bộ:
Nhằm kịp thời đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm sản xuất, buôn bán
hàng giả, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản để chỉ đạo, hướng
dẫn và đề ra các biện pháp cụ thể trong công tác phòng, chống buôn lậu, hàng giả và
gian lận thương mại. Điển hình là, Chỉ thị số 28/2008/CT-TTg ngày 28/9/2008 về
một số biện pháp cấp bách chống hàng giả, hàng kém chất lượng; Quyết định số
1217/2012/QĐ-TTg ngày 06/9/2012 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia
phòng, chống tội phạm giai đoạn 2012-2015; Quyết định số 389/QĐ-TTg ngày
19/3/2014 về việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả (Ban Chỉ đạo 389 quốc gia); Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày
09/6/2015 về việc đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả trong tình hình mới. Quyết định số 623/2016/QĐ-TTg
ngày14/4/2016 Phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn
2016-2025 và định hướng đến năm 2030… Trên cơ sở đó, các bộ, ngành liên quan
đã ban hành những quy định về công tác phòng, chống tội phạm như: Bộ Công an
có Chỉ thị 05/CT-BCA (C11) ngày 06/6/2003 quy định về các biện pháp nghiệp vụ
cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân; Quyết định số 445/QĐ-BCA ngày
04/02/2010 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Cục Cảnh sát
điều tra tội phạm về Trật tự quản lý kinh tế; Bộ Tài chính có Thông tư số
93/2010/TT-BTC ngày 28/6/2010 Hướng dẫn việc xác định các hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tài chính là hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và
hàng giả; Bộ Công thương có Quyết định số 1059/QĐ-BCT ngày 28/3/2017 Phê
duyệt Đề án phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả tại các địa
bàn, lĩnh vực trọng điểm đến năm 2020… Đây chính là cơ sở pháp lý cho việc tổ
chức hoạt động phòng ngừa tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả.

15



1.1.2.3. Cơ sở thực tiễn của phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán
hàng giả
Cơ sở thực tiễn của phòng ngừa tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả được
xuất phát từ chính thực tiễn tình hình tội phạm này. Thực tiễn tình hình tội sản xuất,
buôn bán hàng giả được đánh giá trên cơ sở những số liệu thống kê tội phạm. Bởi
vì, thông qua số liệu thống kê tội phạm, chúng ta có thể nắm được thông tin chính
xác, khoa học về tình trạng phạm tội, diễn biến, cơ cấu và tính chất của tình hình tội
phạm trong một khoảng thời gian nhất định, trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Vì
vậy, chúng tôi đã nghiên cứu, khảo sát các số liệu thống kê của VKSND tối cao.
Theo đó: Từ năm 2012 đến 2016, số vụ án và bị can phạm tội sản xuất, buôn bán
hàng giả trên cả nước là: 1.075 vụ/1.465 bị can (chiếm tỉ lệ 17% số vụ và 14,4% số
bị can trong tổng số tội phạm về kinh tế). Cụ thể: Năm 2012 có 110 vụ/163 bị can;
năm 2013 có 198 vụ/275 bị can; năm 2014 có 228 vụ/298 bị can; năm 2015 có 263
vụ/360 bị can; năm 2016 có 276 vụ/369 bị can [Xem Bảng 1.1 – Phần phụ lục].
Riêng Tp. HCM, trong 5 năm (từ 2012 – 2016) đã khởi tố, điều tra 108 vụ/134
bị can. Trong đó, năm 2012 là 20 vụ/26 bị can; năm 2013 là 25 vụ/28 bị can; năm
2014 là 20 vụ/25 bị can; năm 2015 là 24 vụ/ 26 bị can và năm 2016 là 19 vụ/29 bị
can (chiếm tỉ lệ trung bình là 12,99% số vụ và 13,44% số bị can trong tổng số vụ và
bị can phạm tội kinh tế) [Xem Bảng 1.2 – Phần phụ lục].
Qua số liệu thống kê trên cho thấy, số vụ và số đối tượng phạm tội sản xuất,
buôn bán hàng giả bị phát hiện và xử lý chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ so với tổng số vụ và số
đối tượng phạm tội về kinh tế nói chung. Nhưng trong thực tế thì số vụ vi phạm do
sản xuất, buôn bán hàng giả bị các cơ quan chức năng phát hiện đã lớn hơn rất
nhiều. Chẳng hạn như, theo báo cáo của lực lượng Cảnh sát kinh tế, từ năm 2010
đến 2015, cả nước đã phát hiện, xử lý 4.183 vụ với 4.690 đối tượng sản xuất và
buôn bán hàng giả. Hoặc theo báo cáo của Cục quản lý thị trường năm 2016, chỉ
tính riêng ở Tp. HCM đã phát hiện 757 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả [10, tr. 3].
Những con số này đã phần nào nói lên mức độ “ẩn” đáng kể của tình hình tội sản


16


xuất, buôn bán hàng giả thời gian qua, đồng thời cũng cho thấy công tác phòng
ngừa tình hình tội phạm này cũng còn có những hạn chế nhất định.
Thực trạng của tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả còn thể hiện ở động
thái (diễn biến) của tình hình tội phạm này. Phân tích các số liệu thống kê nêu trên
cho thấy: Trong 5 năm qua, tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả ở nước ta đang
diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng nhưng tốc độ tăng lại giảm dần qua
các năm. Cụ thể: Năm 2013, tăng 80% số vụ và 68,71% số bị can; năm 2014, tăng
15,15% số vụ và 8,36% số bị can; năm 2015, tăng 15,35% số vụ và 20,80% số bị
can; năm 2016, tăng 4,94% số vụ và 2,5% số bị can [Xem Bảng 1.3 - Phần phụ lục].
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại không phải chỉ ở số lượng vụ việc và diễn biến
phức tạp của tình hình tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả mà còn cả ở tính chất,
mức độ nguy hiểm của các vụ phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả hiện nay.
Qua nghiên cứu hồ sơ các vụ phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả cho thấy,
tội phạm này đang ngày càng trở nên nguy hiểm hơn, khó phòng ngừa hơn khi rất
đa dạng về đối tượng; về phương thức, thủ đoạn và địa bàn hoạt động phạm tội. Cụ
thể là: Đa số đối tượng sản xuất hàng giả là người có trình độ chuyên môn kỹ thuật
hoặc có những hiểu biết nhất định về quy trình sản xuất hàng hóa. Họ có thể là công
nhân có tay nghề cao kỹ sư, chuyên gia kỹ thuật, thậm chí là giám đốc, chủ tịch hội
đồng quản trị.... của các doanh nghiệp, công ty tư nhân tham gia sản xuất, buôn bán
hàng giả nhưng có thể chỉ là những người thất nghiệp sẵn sàng tham gia vào việc
sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng giả. Giữa các đối tượng thường có mối quan
hệ khăng khít về huyết thống, tình cảm hoặc có sự tin tưởng, phụ thuộc nhau về
quyền lợi, ít khi thiết lập quan hệ làm ăn rộng rãi mà hoạt động đơn lẻ và kín đáo.
Thủ đoạn phạm tội sản xuất hàng giả rất đa dạng nhưng phổ biến là các đối
tượng sử dụng các nguyên liệu, chất liệu kém chất lượng để tạo nên hàng hóa giả;
đưa thêm tạp chất, chất phụ gia, thay thế thành phần, nguyên liệu, rẻ tiền vào thành

phần, cấu kiện của các sản phẩm thật làm thay đổi chất lượng sản phẩm; Hoặc dùng
nhãn hàng hóa thật, có giá trị cao dán lên sản phẩm giả, sản phẩm có giá trị thấp;
Hoặc nhập linh kiện, bán thành phẩm sau đó chế tác, gia công, gắn bao bì, nhãn mác

17


×