Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Những giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.59 KB, 13 trang )

Lời mở đầu
Nh mi ngi ó bit, kinh t th trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh
trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại
và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của
kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm
kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội
phát triển mạnh mẽ.. Ngày nay, tất cả các nớc đều phải xây dựng và phát triển kinh
tế thị trờng. Tuy nhiên, trong chế độ xà hội khác nhau, kinh tế thị trờng đợc sử
dụng với mục đích khác nhau. Trong các nớc t bản, đó là kinh tế thị trờng t bản
chủ nghĩa. Còn ở nớc ta, đó là kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trờng là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Vic tha nhận
kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản đặt ra cho
chúng ta nhiệm vụ nghiên cứu, vận dụng tốt kho tàng tri thức về kinh tế thị trường
và các quy luật của nó nhằm thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh".

Néi dung
I-c¬ së lý luận của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị
trờng định hớng xà hội chủ nghĩa ở nớc ta.
1.Quan niệm về kinh tế thị trờng định hớng xà hội chñ nghÜa.

1


Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó q trình sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thơng qua thị trường. Vì
thế kinh tế thị trường khơng chỉ là "công nghệ", là "phương tiện" để phát triển
kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó khơng chỉ bao gồm
các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như
vậy, chứng tỏ khơng có và khơng thể có một nền kinh tế thị trường chung chung,


thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ
chính trị - xã hội của một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường
khác nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà
nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển
của nền kinh tế đó.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền
kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường,
vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong
nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị
trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực"
thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trị
"hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác
định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường,
hồn thiện mơ hình chủ nghĩa xã hội.
2. Sù cÇn thiết khách quan phát triển kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ
nghĩa.
Kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc,
theo định hớng xà hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ
nghĩa là sự cần thiết khách quan vì:
Thứ nhất: Phát triển kinh tế thị trờng là sự lựa chọn đúng đắn:

2


Chủ nghĩa t bản đà biết sử dụng cơ chế thị trờng để thúc đẩy sự tăng trởng,
phát triển kinh tế nhng kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng không phải là sản phẩm
riêng có của chủ nghĩa t bản mà đó là thành tựu văn minh của nhân loại. C.Mác đÃ

chỉ rõ: kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều phơng thức sản xuất khác nhau. Nó chỉ
khác nhau về quy mô, trình độ phát triển. Kinh tế thị trờng vẫn tồn tại ngay cả dới
chủ nghĩa xà hội. Cơ sở khách quan của sự tồn tại đó ở hầu hết các nớc xà hội chủ
nghĩa nói chung và ở Việt Nam ta nói riêng gồm các yếu tố:
Thứ nhất, là sự phân công lao động xà hội. Phân công lao động trong chủ nghĩa
xà hội không mất đi mà ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân
công lao động trong từng khu vực, từng địa phơng cũng ngày càng phát triển. Sự
phát triển của phân công lao động đợc thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất
lợng ngày càng cao của sản phẩm đợc đa ra thị trờng. Kéo theo đó là sự chuyên
môn hoá sản xuất ngày càng sâu. Sự phân công lao động xà hội ở trong nớc còn
tiến tới sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Phân công lao động xà hội thuộc
về lực lợng sản xuất nhng kiểu phân công lao động mang tính đặc thù của quan hệ
sản xuất.
Thứ hai, là sự tách biệt nhất định về kinh tế mà biểu hiện trớc hết là còn tồn tại
những quan hệ sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất. Đó là sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu t nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu t bản t nhân), sở
hữu hỗn hợp. Ngay cả những đơn vị kinh tế dựa trên quan hệ sở hữu cùng sở hữu
cùng thành phần cũng có sự tách biệt nhất định. Điển hình nh thành phần kinh tế
nhà nớc và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản xuất vẫn
có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích
riêng. Mặt khác các dơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuật - công
nghệ, về trình độ tổ chức quản lý nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cung
khác nhau. Đồng thời, trình độ xà hội hoá cha cao, cha thể phân phối hàng hoá trực
tiếp cho nhau mà vẫn phải sử dụng quan hệ hàng hoá, tiền tệ để tính toán hiệu quả
kinh tế, thực hiện sự trao đổi mua bán sản phẩm. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn rất
cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao
động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nớc là một quốc gia riêng
biệt, là chủ sở hữu đối với các hàng hoá đa ra trao đổi trên thị trờng thế giới. Thế
nên sự trao đổi ở đây cần phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
Thứ hai: kinh tế thị trờng không những tồn tại khách quan mà còn rất cần thiết

cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xà hội. Cần thiết vì:
Ngay cả chủ nghĩa t bản cũng đà biết sử dụng kinh tế thị trờng để thúc đẩy sự
tăng trởng và phát triển kinh tế. Nó có những u thế nổi trội mang đến những hiệu

3


qu¶ cao cho nỊn kinh tÕ.ë ViƯt Nam, sau khi giành đợc độc lập chúng ta đà đa nền
kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đặc trng của cơ chế này
là: Nhà nớc quản lý nỊn kinh tÕ b»ng mƯnh lƯnh hµnh chÝnh lµ chủ yếu với. Đối với
các doanh nghiệp, Nhà nớc giao kế hoạch với một chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết. Do
đó các doanh nghiệp chủ yếu phải dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định
của cơ quan quản lý nhà nớc cấp trên, từ phơng hớng sản xuất, nguồn vật t, địa chỉ
tiêu thụ sản phẩm đến việc định giá, sắp xếp bộ máy. Các doanh nghiệp chỉ phải
tiến hành sản xuất, kinh doanh theo kế hoạch của Nhà nớc. LÃi Nhà nớc thu, lỗ
Nhà nớc bù. Do đó điều này đà triệt tiêu các động lực của sản xuất kinh doanh - đó
là lợi nhuận. Mà một khi động lực này bị triệt tiêu thì kinh doanh sẽ không hiệu
quả. Các doanh nghiệp nừa bị trói buộc vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp
trên vì không bị ràng buộc đối với kết quả sản xuất kinh doanh. Từ đó sẽ làm cho
các chủ thể sản xuất kinh doanh mất đi tính năng động, sáng tạo, chỉ biết đi theo
chỉ tiêu đà định sẵn, trách nhiệm của họ trong công việc cũng không cao. Trong cơ
chế này, Nhà nớc bao cấp qua giá, phân phối mang tính bình quân. Từ đó mà nền
kinh tế bị hiện vật hoá, phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động, quan hệ hàng
hoá- tiền tệ không đợc coi trọng. Ngoài ra, bộ máy quản lý công kềnh, có nhiều
cấp trung gian và kém năng động nên đà sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực
quản lý nhng phong cách thì cửa quyền, quan liêu. Mô hình này không có tiêu
chuẩn khách quan đáng giá hiệu quả hoạt động kinh tế bởi lẽ giá cả gần nh không
có quan hệ gì với giá trị hàng hoá, tơng quan cung cầu bị phá vỡ, mọi sự tính toán
đều sai lệch. Chính vì vậy nên làm cho sản xuất trì trệ, kìm hÃm sự phát triển kinh
tế x· héi, kinh tÕ chØ ph¸t triĨn chđ u theo chiều rộng chứ không theo chiều

sâu. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho chủ nghĩa xà hội lâm vào
khủng hoảng. Và thực tế ở nớc ta đà cho thấy, mấy chục năm vận hành theo cơ chế
này đà làm cho nền kinh tế nớc ta ngày càng lạc hậu, kém phát triển. Do đó cần
phải xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp để chuyển sang cơ chế thị tr ờng có
sự quản lý của Nhà nớc.
Nh vậy, phát triển kinh tế thị trờng là một bớc đi tất yếu, là giai đoạn khách
quan của quá trình tiến hoá của nhân loại và xà hội hoá sản xuất không thể lấy ý
chí chủ quan mà xoá bỏ nó đợc. Điều này đà đợc Đảng và Nhà nớc ta khẳng định
trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) khi quyết định chuyển
đổi cơ cấu kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng theo định hớng
xà hội chủ nghĩa.
3.Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trờng.

4


Kinh tế thị trờng có nhiều tác dụng to lớn nhất là đối với nền kinh tế còn rất
lạc hậu nh ở nớc ta.
Tác dụng to lớn đầu tiên mà kinh tế thị trờng mang lại là: tạo động lực thúc
đẩy lực lợng sản xuất phát triển, xà hội hoá lao động và sản xuất. Do cạnh tranh
giữa những ngời sản xuất hàng hoá buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kĩ
thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí xuất đến mức tối thiểu
nhờ đó có thể cạnh tranh đợc về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó
đà làm cho công cụ sản xuất ngày càng đợc cải thiện,hiện đại hơn, hiệu quả hơn.
Kéo theo đó là sự đòi hỏi một trình độ chuyên môn, tay nghề ngày càng cao vì vậy
mà trình độ ngời lao động cũng đợc nâng cao hơn.
Tiếp đến trong kinh tế hàng hoá, dới tác động vốn có của kinh tế thị trờng lại
diễn ra trong môi trờng cạnh tranh đòi hỏi ngời sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu
ngời tiêu dùng, của thị trờng để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lợng bao
nhiêu, chất lợng nh thế nào. Do đó kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động

sáng tạo cđa chđ thĨ kinh tÕ, kÝch thÝch viƯc n©ng cao chất lợng sản phẩm, cải
thiện mẫu mà cũng nh tăng khối lợng hàng hoá, dịch vụ.
Tác dụng thứ ba của kinh tế thị trờng là thúc đẩy sự phân công lao động xÃ
hội. Nh ta đà nói, phân công lao ®éng xÉ héi lµ ®iỊu kiƯn ra ®êi vµ tån tại của sản
xuất hàng hoá. Đến lợt nó, sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự phân công
lao động xà hội và chuyên môn hoá sản xuất. Điều này sẽ giúp chúng ta phát huy
đợc tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phơng cũng nh lợi thế của đất nớc
có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nớc ngoài.
Sự phát triển của kinh tế thị trờng sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất. Do mục đích của sản xuất hàng hoá không phải để thoả mÃn nhu cầu của
bản thân ngời sản xuất nh trong kinh tế tự nhiên mà để thoả mÃn nhu cầu của ngời
khác, của thị trờng. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trờng là một động
lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Từ đó sẽ dẫn đến quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất. Đây là điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xà hội hoá cao. Đồng
thời chọn lọc đựơc những ngời sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đợc đội ngũ
cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển đất nớc.
Thực tiễn những năm đổi mới ®· chøng minh r»ng, viƯc chun sang kinh tÕ
thÞ trêng nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, chúng ta đà bớc đầu khai thác đợc tiềm năng trong nớc và thu
hút đợc vốn, kĩ thuật, công nghệ của nớc ngoài, giải phóng đợc năng kực sản xuất,
góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trởng kinh tế với nhịp ®é t¬ng ®èi cao
trong thêi gian qua.

5


Nh vậy, phát triển kinh tế thị trờng là một tÊt u kinh tÕ ®èi víi níc ta, mét
nhiƯm vơ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nớc ta thành nền
kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đờng đúng
đắn để phát triển lực lợng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nớc

vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
II. Thực tiễn và những giải pháp cơ bản để phát triển kinh
tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Thực trạng nền kinh tế thị trờng ở ViƯt Nam.
Khi chun sang nỊn kinh tÕ thÞ trêng,chóng ta đứng trớc một thực trạng
là:đất nớc đà và đang từng bớc quá độ lên chủ nghĩa xà hội từ một xà hội vốn là
thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất rất thấp. Đất
nớc lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề.Có thể nói
thực trạng nền kinh tÕ níc takhi chun sang kinh tÕ thÞ trêng là nền kinh tế hàng
hoá kém phát triển và chịu ảnh hởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp. Thực trạng đó đợc biểu hiện ở các mặt sau đây:
Cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất lạc hậu, còn ở trình độ thấp
kém. Bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đà đợc trang bị kĩ thuật và
công nghệ hiện đại thì trong nhiều ngành kinh tế vẫn còn máy móc cũ kĩ, công
nghệ lạc hậu. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết
bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ thậm chí có lĩnh vực là 4-5 thế hệ. Lao động thủ
công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong số lao động xà hội. Do đó, năng suất, chất lợng,
hiệu quả sản xt cđa níc ta cßn rÊt thÊp so víi khu vực và thế giới (năng suất lao
động của nớc ta chỉ bằng 30% mức trung bình thế giới).
Cơ sở hạ tầng còn thấp kém. Kết cấu hạ tầng nh hệ thông đờng giao thông,
bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc...còn lạc hậu kém phát triển (mật độ đờng
giao thông/km b»ng 1% víi møc trung b×nh cđa thÕ giíi; tèc độ truyền thông trung
bình cả nớc chậm hơn thế giới 30 lần). Hệ thống giao thông kém phát triển làm
cho các địa phơng, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho tiềm năng
của các địa phơng không thể khai thác đợc, các địa phơng không thể chuyên môn
hoá sản xuất để phát huy thế mạnh.
Sự phân công lao động xà hội cha phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế chậm,cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Nền kinh tế nớc ta cha
thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng
70% lực lợng lao động, nhng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế

công nghiệp cao chiếm tỉ trọng thấp. Mà nh Lê-nin đà nói: Nhìn vào một nớc mà

6


đa số dân c sống trong nông nghiệp thì chứng tỏ sự phân công lao động cha phát
triển.
Hệ thống dịch vụ sản xuất và dịch vụ xà hội cha đủ để phát triển kinh tế
thị trờng ở trong nớc và cha có khả năng để mở rộng giao lu với thị trờng quốc
tế.
Các loại thị trờng cha phát triển đồng bộ. ở Việt Nam, thị trờng dân tộc
thống nhất đang trong quá trình hình thành nhng cha đồng bộ. Thị trờng hàng hoá dịch vụ đà hình thành nhng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tợng tiêu cực (hàng giả,
hàng nhập lậu, hàng nhai nhÃn hiệu vẫn làm rối loạn thị trờng).Thị trờng hàng hoá
sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao
động mới xuất hiện nhng đà nảy sinh hiện tợng khủng hoảng. Thị trờng tiền tệ, thị
trờng vốn đà có nhiều tiến bộ nhng vẫn còn nhiều trắc trở, nh nhiều doanh nghiệp
nhất là doanh nghiệp t nhân rất thiếu vốn nhng không vay đợc vì vớng mắc thủ tục.
Thị trờng chứng khoán ra đời nhng cũng cha có nhiều hàng hoá để mua - bán và
mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trờng này. Ngoài ra, do nhiều
thành phần kinh tế tham gia thị trờng nên nền kinh tế nớc ta có nhiềuloại hình sản
xuất hàng hoá cùng tồn tại đan xen nhau trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán
còn phổ biến. Sự hình thành thị trờng trong nớc gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại,
mở rộng vào thị trờng khu vực và thế giới, trong hàn cảnh trình độ phát triển kinh
tế, kĩ thuật của nớc ta còn thấp xa so với hầu hết các nớc khác.
Sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn yếu. Do cơ sở vật chất kĩ thuật
và công nghệ lạc hậu nên năng suất lao động thấp, do đó khối lợng hàng hoá nhỏ
bé, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, chất lợng hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế
khả năng cạnh tranh còn yếu. Ví dụ nh hàng Trung Quốc nhập sang đợc ngời tiêu
dùng chọn mua nhiều hơn hàng Việt Nam cùng loại mặc dù chất lợng hàng Việt
Nam cao hơn. Vì hàng Trung Quốc mẫu mà đẹp, phong phú, giá cả lại hợp túi tiền

mà tâm lý ngời Việt cái quan tâm đầu tiên khi lựa chọn hàng hoá chủ yếu là giá cả
và mẫu mÃ.
Quản lý nhà nớc về kinh tế xà hội còn yếu. Đảng và Nhà nớc ta đà nhận
định: Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cha đồng bộ và nhất quán, thực hiện
cha nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây
dựng quản lý đất đai còn yếu kém, thủ tục hành chính... còn đổi mới chậm. Thơng
nghiệp nhà nớc bổ trống một số địa phơng quan trọng, cha phát huy tốt vai trò chỉ
đạo trên thị trờng. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, têu cực, một số trờng
hợp còn gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiỊu bÊt hỵp lý.

7


Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy đợc kiềm chế nhng cha vững
chắc. (Trích- Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII).
2.Định hớng xà hội chủ nghĩa nền kinh tế thÞ trêng ë níc ta.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện
trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thị
trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị trường.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta đã xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.”
Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời
kỳ quá độ là “xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội,
với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước
ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”.
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì mục

tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải phóng
và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực
trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải
thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình
đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội.
Bởi vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba
điểm rất cơ bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm nền
tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết hợp nhiều
hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà

8


nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường
dưới sự lãnh o ca ng Cng sn Vit Nam.
3.Những giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế thị trờng định hớng x· héi chđ
nghÜa ë ViƯt Nam.
“TÝnh tÊt u ph¶i tr¶i qua các giai đoạn phát triển kinh tế thị trờng lại càng
đặt ra một cách bức bách hơn đối với các quốc gia chậm phát triển. Bởi vì đây là
con đờng duy nhất, là phơng cách tốt nhất để thực hiện rút ngắn và chống nguy cơ
tụt hậu đối với ph¸t triĨn kinh tÕ - x· héi cđa níc ta. Vì vậy đa ra những giải pháp
để phát triển kinh tế thị trờng là yêu cầu rất quan trọng đối với Đảng và Nhà nớc
ta. (Trích Tạp chí cộng sản)
Để phát triển kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa, cần thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp:
Trớc tiên, chúng ta phải đẩy mạnh phân công lao động xà hội trên cơ sở đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - công
nghệ. Nh đà nói ở phần trên, phân công lao động là cơ sở chung của sản xuất và

trao đổi hàng hoá. Vì vậy để phát triển kinh tế hàng hoá phải đẩy mạnh phân công
lao động xà hội. Nhng sự phát triển của phân công lao động xà hội do trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rông phân công lao động
xà hội thì cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc để xây dựng
cơ sở vật chất- kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại.
Giải pháp thứ hai là, thực hiện đa dạng hoá các quan hệ sở hữu để tạo ra sự
tách biệt nhất định về kinh tế, là cơ sở của kinh tế hành hoá và gắn liền với nó
là sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần để khai thác tiềm năng của các
thành phần kinh tế. Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất
quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc
phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xà hội, cải thiện đời sống nhân dân
làm mục tiêuquan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó, tất cả các thành phần
kinh tế đều bình đẳng trớc pháp luật, đều đợc khuyến khích phát triển.
Thứ ba là, phải thực hiện công nghiệp hoá, hiên đại hoá để xây dựng cơ së
vËt chÊt, kÜ tht. Nh chóng ta ®· thÊy, ë nớc ta cơ sở vật chất kĩ thuật còn rất lạc
hậu mà cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xà hội thì cần phải đợc xây dựng trên
thành tựu mới nhất, tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ. Mỗi bớc tiến của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bớc tăng cờng cơ sở vËt chÊt kÜ thuËt cho chñ nghÜa x· héi. Do ®ã ngay tõ thËp niªn 60 cđa thÕ kØ XX, §¶ng Céng

9


sản Việt Nam đà đề ra đờng lối công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm
vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xà hội.
Để phát triển kinh tế thị trờng thì giải pháp tiếp theo mà Đảng và Nhà nớc ta
đề ra là hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trờng. Trong kinh tế thị trờng, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trờng mà đợc phân bố vào các
ngành, các lĩnh vựccủa nền kinh tế một cách tối u. Vì vậy để xây dựng và phát
triển kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa, chúng ta cũng phải hình thành
và phát triển đồng bộ các loại thị trờng.

Giải pháp tiếp theo là, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đổi mới quản lý của nhà nớc.
Cơ sở hạ tầng thấp kém là một trong những nguyên nhân làm cho chúng ta
cha thể khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của từng vùng; các địa phơng không thể
chuyên môn hoá sản xuất, gây khó khăn trong việc phát triển kinh tế. Đây cũng là
lý do làm hạn chế đầu t của nớc ngoài vào Việt Nam. Vì vậy nâng cấp cơ sở hạ
tầng là điều kiện, nền tảng để phát triển kinh tế. Hiện nay Nhà nớc ta cũng đang
đầu t rất nhiều để xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất,
kinh doanh, thu hút ngoại lực bên ngoài. Nhà nớc ta luôn thờng xuyên đổi mới
quản lý cho phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn phát triển của đất nớc. Tuy
nhiên vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Giải pháp đổi mới quản lý mà Nhà nớc
đa ra nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trờng là: xoá bỏ triệt để cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế.
Một giải pháp nữa cần phải đề cập đến là: mở rộng và nâng cao hiệu quả
của kinh tế đối ngoại. Trong điều kiện hiện nay, chØ cã më cöa kinh tÕ, héi nhËp
kinh tÕ khu vực và thế giới, mới thu hút đợc vốn, kĩ thuật và công nghệ hiện đại để
khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nớc nhằm phát triển kinh tế.Khi mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không
can thiệp vào nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hớng đa phơng hoá,
đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại.
Hiện nay cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế
đối ngoại. Giảm dần nhập siêu, u tiên nhập khẩu t liệu sản xuất để phục vụ sản
xuất. Tranh thủ mọi khả năng và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu t trực tiếp
của nớc ngoài, việc thu hút vốn đầu t nớc ngoài cần hớng vào những lĩnh vực,
những sản phẩm có công nghệ tiên tiến, có tỷ trọng xt khÈu cao. ViƯc sư dơng
vèn vay ph¶i cã hiƯu quả để trả đợc nợ, cải thiện đợc cán cân thanh toán. Chủ động
tham gia tổ chức thơng mại quốc tế, các diễn đàn, các tổ chức,các định chế quốc tế
một cách có chọn lọc với những bớc đi thích hỵp.

10



Song song với các giải pháp chủ yếu trên, chúng ta còn phải giữ vững sự ổn
định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp. Sự ổn định chính trị bao giờ cũng
là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển kinh tế. Nó là điều kiện để các nhà sản
xuất kinh doanh trong nớc và nớc ngoài yên tâm đầu t. Muốn giữ vững ổn định
chính trị ở nớc ta hiện nay cần phải giữ vững và tăng cờng vai trò lÃnh đạo của
Đảng cộng sảnViệt Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nớc, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.

Kết luận
Túm li, s hỡnh thnh tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
khơng chỉ đơn thuần là sự tìm tịi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội,
mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mơ hình phát triển trong thực
tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát
triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Với phương châm "Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời", hy
vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu
trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay .Vµ
chóng ta tin tởng rằng, với những đờng lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nớc, Việt Nam sẽ có những quyết sách phù hợp, đột phá để sớm đa nớc ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở
thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại.

11


TàI liệu tham khảo
1.Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin _ NXB Chính trị quốc gia năm 2002.

2.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,IX_ NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội năm 2001.
3.Tạp chí Cộng sản , số 47, 69, 71, 55 .
4.Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xà hội _ NXB Sự
thật ,1991.
5. Website Đảng cộng sản : .
6. Website Tạp chí cộng sản : .

12


1



×