Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.95 KB, 20 trang )

Tiểu luận Nhập môn Xã hội học

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Từ lâu, Xã hội học đã có những bước phát triển quan trọng và thu được một số
thành tựu trên thế giới, có tác dụng không nhỏ trong đời sống xã hội. Đặc biệt, Xã hội
học được áp dụng và phát triển mạnh ở các nước công nghiệp phát triển. Lý luận Xã
hội học đã thâm nhập vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, trở nên thân thuộc với mọi
tầng lớp nhân dân thông qua hệ thống giáo dục của các trường đại học và cao đẳng.
Đây là môn khoa học bắt buộc đối với sinh viên ở bậc đại học và cao đẳng.
Sự phát triển của Xã hội học luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội. Xã hội
càng phát triển, càng văn minh thì yêu cầu hiểu biết về Xã hội học càng cần thiết, vì nó
luôn trang bị những tri thức tiến bộ cho sự phát triển của nhân loại, của đời sống xã hội
con người cùng với mối quan hệ của nó. Cùng với các ngành khoa học khác, Xã hội
học đã chỉ ra con đường, những biện pháp, cách thức hoàn thiện, phát triển các mặt
của đời sống xã hội cho phù hợp với quy luật vận động của xã hội.
Nghiên cứu những điều kiện và tiền đề ra đời của Xã hội học giúp ta hiểu rõ hơn
về lịch sử phát triển của nó, từ đó hiểu được ý nghĩa sự ra đời của Xã hội học và đưa ra
những phương pháp nghiên cứu cụ thể.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu sự ra đời của khoa học Xã hội học, ý nghĩa sự ra đời đó, hiểu được vì
sao Xã hội học ra đời là tất yếu khách quan, phân tích được nội dung những điều kiện,
tiền đề ra đời Xã hội học để từ đó rút ra vai trò to lớn của môn học Xã hội học đối với
sinh viên.

GVHD: Hoàng Công Minh

1


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học



CHƯƠNG 1
SỰ RA ĐỜI CỦA KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC
1.1. Khái niệm xã hội học
Xã hội học là khoa học nghiên cứu nhằm lý giải những hành vi của cá nhân
trong những tình huống khác nhau trong đời sống xã hội. Xã hội học cũng sẽ chỉ ra
những tương đồng và khác biệt giữa các xã hội, các nhóm với nhau. Việc học tập và
nghiên cứu xã hội học cho phép chúng ta khám phá ra những thay đổi xã hội cũng như
hình thành những góc nhìn khác nhau. Để qua đó thấy được những nguyên nhân phúc
tạp ẩn sâu bên trong và những hậu quả của hành vi con người.
Nhà xã hội học nghiên cứu một loạt các chủ đề như: sự liên kết giữa con người
với nhau trong các nhóm, trong gia đình, trong hiệp hội được thực hiện theo cơ chế
nào? Xã hội học cũng quan tâm đến sự hoạt động cũng như khả năng tiếp cận của
người dân đối với các hệ thống xã hội như: giáo dục, chính trị, kinh tế, y tế, văn hóa…
Quá trình đó nhằm đi tìm kiếm câu trả lời cho những gì đang xảy ra trên thế giới ? và
quan trọng hơn tại sao và như thế nào?
Bên cạnh các nghiên cứu kiểm chứng và phát triển các lý thuyết về xã hội thì
các nhà xã hội học cũng tìm kiếm các bằng chứng để trả lời các câu hỏi về hành vi của
con người bằng cách sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích
thống kê, nghiên cứu khảo sát bằng bảng hỏi, nghiên cứu dân tộc học, phân tích đàm
thoại….Các kết quả điều tra xã hội học giúp phát triển các lý thuyết mới đồng thời có
những tư vấn kịp thời về chính sách xã hội, các chương trình phát triển và hệ thống
pháp luật.
Trong các công trình nghiên cứu của các nhà chính trị học, lịch sử, tâm lý, tôn
giáo, nhân học, văn hóa, văn học... cách tiếp cận và phương pháp xã hội học cũng
được sử dụng thường xuyên và mang lại những kết quả hết sức thuyết phục. Trên báo
chí hay tại các tranh luận của các nhà chính trị, khi muốn lấy một bằng chứng cho một
nhận định nào đó, người ta cũng thường dẫn ra các kết quả khảo sát, điều tra xã hội
học. Khi muốn biết về một quan điểm hay tiến hành một cuộc bầu chọn, thăm dò nào
đó người ta cũng dùng phương pháp và cách phân tích xã hội học. Những dẫn chúng

GVHD: Hoàng Công Minh

2


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
trên chỉ là những điều hiển hiện rõ nét, nhưng không phải lúc nào tri thức và góc nhìn
xã hội học cũng được minh định, mà nó vẫn ẩn tàng và luân chuyển trong mọi lĩnh vực
đời sống xã hội.
1.2. Lịch sử phát triển khoa học xã hội học
Xã hội học là môn khoa học xã hội còn rất non trẻ, mặc dù vậy nó cũng có một
lịch sử phát triển riêng biệt. Trước thế kỷ 19, xã hội học chưa tồn tại như một môn
khoa học độc lập mà bị hòa tan vào trong các khoa học khác như nhân chủng học, dân
tộc học, nhân học, tâm lý học, tâm lý học xã hội và đặc biệt là triết học - môn khoa học
của mọi khoa học.
Xã hội học xuất hiện ở châu Âu thế kỷ XIX với tư cách là một tất yếu lịch sử xã
hội. Tính tất yếu đó thể hiện ở nhu cầu và sự phát triển chín muồi các điều kiện và tiền
đề biến đổi và nhận thức đời sống xã hội. Các biến động to lớn trong đời sống kinh tế,
chính trị và xã hội châu Âu vào thế kỷ XVIII và nhất là thế kỷ XIX đã đặt ra những
nhu cầu thực tiễn mới đối với nhận thức xã hội.
Bắt đầu từ thế kỷ 18, đời sống xã hội ở các nước Châu Âu trở nên hết sức phức
tạp. Cuộc cách mạng công nghiệp 1750 đã đưa đến những đảo lộn ghê gớm. Chủ nghĩa
tư bản đã tạo ra những đô thị công nghiệp khổng lồ gây nên những làn sóng chuyển
dịch dân cư lớn, kèm theo đó là những mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc, mâu
thuẫn tôn giáo căng thẳng, các quan hệ xã hội ngày càng thêm đa dạng và phức tạp. Xã
hội rơi vào trạng thái biến động không ngừng: chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, xung
đột chính trị, suy thoái đạo đức, phân hoá giàu nghèo, bùng nổ dân số, tan rã hàng loạt
các thiết chế cổ truyền,... Trước tình hình như thế, xã hội nảy sinh một yêu cầu cấp
thiết là cần phải có một ngành khoa học nào đó đóng vai trò tương tự như một bác
sĩ luôn luôn theo dõi cơ thể sống - xã hội tiến tới giải phẫu các mặt, các lĩnh vực khác

nhau trên bề mặt cắt của nó từ tầm vĩ mô đến vi mô, kể cả khi xã hội đó thăng bằng
cũng như khi mất thăng bằng để chỉ ra trạng thái thật của xã hội đó, phát hiện ra những
vấn đề xã hội, dự báo khuynh hướng phát triển của xã hội, và chỉ ra những giải pháp
có tính khả thi.

GVHD: Hoàng Công Minh

3


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
Emile Durkheim - một trong các bậc tiền bối của khoa học xã hội học đã phát
biểu rằng: cuối cùng thì nhà xã hội học phải chẩn đoán xem xã hội ở trong tình trạng
"khỏe mạnh" hay "bệnh tật" và sau đó nhà xã hội học phải kê đơn những loại thuốc
cần cho sức khỏe của xã hội. Và mãi cho đến nửa sau của thế kỷ XIX, xã hội học mới
xuất hiện với tư cách là một môn khoa học độc lập có đối tượng, chức năng và phương
pháp riêng biệt.
1.3. Ý nghĩa sự ra đời Xã hội học
Tại sao nói sự ra đời khoa học xã hội học là tất yếu khách quan ?
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xã hội tư bản ra đời thay thế xã hội
phong kiến là một bước tiến bộ, cách mạng trong lịch sử phát triển nhân loại. Chủ
nghĩa tư bản ra đời đã thực sự cách mạng hóa những quan hệ sản xuất và do đó, đã
cách mạng hóa toàn bộ những quan hệ xã hội, đã tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Lực
lượng sản xuất mà chủ nghĩa tư bản tạo ra chính là nền đại công nghiệp và gắn liền với
nó là giai cấp vô sản. Đó là lực lượng sản xuất có tính xã hội. Sự ra đời của nền đại
công nghiệp đã quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến.
C.Mác đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa của các mâu thuẫn khác và chi phối sự vận

động, phát triển của xã hội tư bản. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn đó
càng tăng lên và đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ này. Chính vì vậy, sự ra đời của chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải là ý muốn chủ quan mà là một tất yếu khách
quan trên cơ sở của những tiền đề vật chất do chủ nghĩa tư bản tạo ra, đồng thời cũng
là kết quả của việc giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản.
Từ sau khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, còn chủ nghĩa tư
bản vẫn tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu trong kinh tế, khoa học và công
nghệ, v.v.. đã xuất hiện những quan điểm phủ nhận chủ nghĩa xã hội, lý tưởng hóa chủ
nghĩa tư bản. Trong số đó, ngoài những thế lực thù địch với chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa
xã hội, còn có một số người do sai lầm về nhận thức, về phương pháp tiếp cận nên đã
đồng nhất chủ nghĩa xã hội nói chung với mô hình xã hội tập trung quan liêu, quy toàn
GVHD: Hoàng Công Minh

4


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
bộ những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong thời đại lịch sử hiện nay cho riêng
chủ nghĩa tư bản. Thực ra, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô (cũ) và các nước
Đông Âu đã được xác lập trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt và nó đã đóng vai trò
quan trọng trong điều kiện lịch sử đó. Khi điều kiện lịch sử thay đổi, mô hình đó
không còn phù hợp nữa, nhưng lại không sớm được đổi mới, do đó đã dẫn đến khủng
hoảng và sụp đổ. Tất nhiên, ở đây còn nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
khác nữa, nhưng về thực chất, đó là hậu quả của sự chậm đổi mới về tư duy, vận dụng
chủ nghĩa Mác-Lênin một cách cứng nhắc, máy móc, giáo điều. Sự sụp đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể, chứ
không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là giai đoạn đầu của hình
thái cộng sản chủ nghĩa. Việc xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới là công việc
hết sức khó khăn. Những vấp váp, thậm chí đổ vỡ tạm thời là điều khó tránh khỏi. Đó
không phải là luận cứ để bác bỏ một xu hướng phát triển tất yếu của xã hội. Những

thành tựu đạt được ở các nước tư bản trong thời gian qua là thành tựu chung của văn
minh nhân loại, nó không hề chứng minh chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn. Chính những
thành tựu đó lại trở thành cái đối lập với chủ nghĩa tư bản. Chúng chính là những tiền
đề vật chất cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Nếu như cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu thế kỷ XVII – XIX đã
tạo ra nền tảng vật chất cho chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, thì ngày
nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo ra những tiền đề vật chất cần
thiết để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Chủ
nghĩa tư bản đương đại bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi đang ra sức che giấu bản
chất bóc lột của mình, nhưng không thể phủ nhận một điều là giai cấp tư sản vẫn nắm
giữ hoàn toàn lĩnh vực kinh tế trọng yếu của xã hội, hình thành những tập đoàn tư bản
lớn chi phối đời sống kinh tế, chính trị đất nước. Thực chất, chủ nghĩa tư bản vẫn là
nó. Giai cấp tư sản vẫn giữ địa vị thống trị, người công nhân vẫn bị bóc lột giá trị
thặng dư. Điều đó là một sự thật không thể phủ nhận. Giai cấp công nhân phải được
giải phóng, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phải được thiết lập trên thực tế, phù
hợp với tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Vì vậy, vấn đề quá

GVHD: Hoàng Công Minh

5


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là một xu hướng tất yếu không thể đảo ngược được của
thời đại.
Dựa trên cơ sở phân tích xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta,
Đảng ta vẫn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: ''Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Đảng ta đã đưa ra nhận định: “Chủ nghĩa tư bản hiện đang nắm ưu thế về vốn,
khoa học và công nghệ, thị trường, song nó không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn

vốn có của xã hội tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng
cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển.
Cùng với những biến đổi mạnh mẽ của thế giới ngày nay, dưới tác động của
cách mạng khoa học và công nghệ, chúng ta cũng đang chứng kiến những chuyển
động sâu sắc trong nền tảng cấu trúc của mỗi xã hội. Giống như những dòng nham
thạch đang cuộn chảy dưới lòng sâu của bề mặt xã hội, tái định lại một kết cấu mới
cho sự phát triển xã hội, sự biến đổi của cơ cấu xã hội cũng đang được coi là một dạng
thức cách mạng. Cuộc cách mạng về cơ cấu xã hội, các quan hệ xã hội và giá trị xã hội
tuy không ồn ào và bùng nổ như các cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ nhưng
trên thực tế đã diễn ra không hề thua kém các cuộc cách mạng nói trên về mức độ
mạnh mẽ. Nó khiến cho con người ngày nay, phải đối diện không chỉ với những thách
thức về môi trường sống, về sự cạn kiệt tài nguyên mà còn cả với hệ quả của những
biến đổi trong kết cấu của các mối quan hệ tương tác giữa chính họ, với cách thức mà
họ đã, đang và sẽ sống bên nhau thành xã hội.
Sự ra đời của Xã hội học đã có một vị trí và ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
đời sống xã hội. Xã hội học cùng với các ngành khoa học khác trang bị cho chúng ta
những tri thức khoa học, những hiểu biết để nhận thức các quy luật khách quan của
thực tiễn xã hội, qua đó nhận biết sự vận động của hệ thống các mối quan hệ xã hội
của các nhóm và cộng đồng xã hội. Đồng thời Xã hội học trang bị những tri thức nhằm
hiểu biết về con đường và các biện pháp để đạt được mục đích cải tạo thế giới, cải tạo
hiện thực phục vụ con người, đặc biệt những nội dung tri thức của Xã hội học giúp cho
mỗi cá nhân nhận thức và tránh được bốn điều:
GVHD: Hoàng Công Minh

6


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học






Chớ nói điều trái lễ
Chớ nghe điều trái lễ
Chớ xem điều trái lễ
Chớ làm điều trái lễ

CHƯƠNG 2
GVHD: Hoàng Công Minh

7


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học

NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH KHOA HỌC
XÃ HỘI HỌC
Xã hội học khi ra đời đã hội tụ đủ ba điều kiện và tiền đề: điều kiện kinh tế xã
hội, tiền đề chính trị - tư tưởng, tiền đề khoa học – trí thức.
1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX ở Châu Âu xuất hiện cuộc cách mạng
thương mại và công nghệ, làm lay chuyển tận gốc chế độ cũ tồn tại hàng trăm năm
trước. Cụ thể là: Hệ thống kinh tế phong kiến đã bị sụp đổ trước sự bành trướng của
các cuộc cách mạng, quan hệ sản xuất kiểu cũ bị thay thế dần bởi sự quản lý kinh tế
theo kiểu tư bản tạo điều kiện cho nhiều nhà máy, xí nghiệp ra đời đã thu hút nhiều lao
động, đặc biệt là lao động từ nông thôn ra đô thị.
Vào nửa thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh sau đó lan sang
các nước khác ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Cuộc cách mạng đã làm biến đổi đời sống xã

hội nông nghiệp một cách sâu sắc, làm xuất hiện nhiều hiện tượng và vấn đề xã hội
mới. Quá trình công nghiệp hóa đã đưa đến những thay đổi trên lĩnh vực kinh tế xã hội
ở Châu Âu:
 Năm 1765 James Watt phát minh ra máy hơi nước và sau đó là hàng loạt các
phát minh ra máy móc thay thế sức lao động của con người và súc vật, chính
điều này đã làm gia tăng sản lượng lên gấp hàng trăm lần.
 Cách nhà máy mọc lên một cách nhanh chóng thu hút lao động từ nông thôn, bỏ
làng quê ruộng vườn và các nghề thủ công truyền thống trong phạm vi gia đình
của họ để tới làm việc tập trung trong các khu công nghiệp, tạo ra các làn sóng
di cư và đô thị hóa. Đây cũng là nguyên nhân hình thành giai cấp công nhân.
 Trước cuộc cách mạng công nghiệp, con người chỉ trồng trọt và thu lượm
nguyên liệu nhưng chính nền kinh tế công nghiệp đã chuyển sang chế biến
nguyên liệu thành các sản phẩm bán được và từ đó tạo ra các thị trường hàng
hóa.
 Trong nền sản xuất công nghiệp đã xuất hiện và diễn ra quá trình chuyên môn
hóa. Trong dây chuyền sản xuất, người lao động chỉ thực hiện một khâu nhỏ

GVHD: Hoàng Công Minh

8


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
trong quá trình sản xuất ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Công nghiệp hóa đã làm
cho sản lượng tăng lên nhưng lại làm giảm mức độ kỹ năng của người lao động.
 Trong nền sản xuất công nghiệp, người công nhân đi vào nhà máy làm việc để
có lương, họ bán sức lao động cho những ông chủ tư bản để nuôi sống bản thân
và gia đình. Vấn đề bất công do phân phối nguồn lợi tức do công nghiệp hóa tạo
ra giữa giới chủ và công nhân đã hình thành nên mâu thuẫn giai cấp, tạo ra các
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.

 Cuộc cách mạng công nghiệp đã ảnh hưởng và tác động sâu sắc lên đời sống xã
hội, làm chuyển dịch các thiết chế và tổ chức xã hội, làm thay đổi các giá trị
chuẩn mực trong đời sống xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp đã nâng cao
mức sống nói chung, tạo ra cho xã hội khối lượng hàng hóa gấp nhiều lần so
với xã hội nông nghiệp nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều hiện tượng, nhiều
vấn đề xã hội mới như sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, vấn đề bóc lột
sức lao động của phụ nữ và trẻ em, vấn đề phân công lao động, ... Có thể nói
thế kỷ công nghiệp hóa cũng là thế kỷ của các quy luật và các hình thái tổ chức
quản lý mới.
Cách mạng công nghiệp Anh đã làm thay đổi bối cảnh xã hội châu Âu lúc bấy giờ
Nhìn chung, ở các nước Anh, Pháp, Đức xuất hiện hoạt động sản xuất, buôn bán

sản xuất theo quy mô công nghiệp đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế làm cho khối
lượng tổng sản phẩm gấp hàng trăm lần trước khi có chủ nghĩa tư bản. Sự biến đổi
kinh tế cũng đã dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội: nông dân đi làm
thuê, của cải rơi vào tay của giai cấp tư sản, đô thị hoá phát triển, cơ sở hạ tầng phát
triển mạnh, khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển nhanh chóng tạo ra thị trường rộng
GVHD: Hoàng Công Minh

9


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
lớn. Sự biến đổi kinh tế cũng làm cho hệ thống tổ chức xã hội phong kiến bị xáo trộn
mạnh mẽ như: Quyền lực trong tôn giáo bị giảm xuống, cấu trúc gia đình biến đổi do
cá nhân rời bỏ cộng đồng, gia đình đi làm thuê, văn hoá cũng biến đổi do lối sống kinh
tế thực dụng…
Tóm lại, sự xuất hiện của hệ thống tư bản đã phá vỡ trật tự xã hội cũ, làm xáo
trộn đời sống xã hội của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội. Từ đó nảy sinh
những nhu cầu sau:

 Về mặt thực tiễn, phải lập lại trật tự xã hội một cách ổn định.
 Về mặt nhận thức, cần giải quyết những vấn đề mới mẻ của xã hội đang nảy
sinh từ cuộc sống đầy biến động. Đây chính là tiền đề cần thiết cho sự ra đời
của khoa học xã hội học vào thế kỷ XIX.
2. Tiền đề chính trị - tư tưởng:
Các xã hội Châu Âu đã qua một thời kỳ lịch sử rất dài dưới chế độ quân chủ Ky
Tô giáo trong đó giáo hội La Mã kết hợp với nhà nước quân chủ điều khiển và kiểm
soát toàn bộ các hoạt động trong đời sống xã hội, kiểm soát mọi nguồn lực của cải vật
chất, tinh thần, tri thức, tư tưởng. Các nhà triết học, các nhà tư tưởng trong thời kỳ
trung cổ có vai trò chủ yếu là phục vụ cho việc ổn định trật tự xã hội trên bình diện ý
thức hệ, giúp nhà nước và giáo hội kiểm soát về mặt tư tưởng chính trị. Vào thời đó
người ta quan niệm rằng trật tự xã hội đẳng cấp đã được ấn định tuyệt đối do ý muốn
của các thế lực siêu nhiên. Niềm tin vào thượng đế, vào thiên đàng, vào sự cứu rỗi như
là một chất xi măng gắn kết các cá nhân lại với nhau làm cho họ cùng chấp nhận trật
tự xã hội có sẵn, chấp nhận cuộc sống phó thác vào thượng đế. Tuy nhiên trong xã hội
thuần nhất đó vẫn hàm, chứa những mầm sống cách mạng, những tư tưởng mới, những
ánh sáng khoa học và khi sự kiểm soát xã hội trở nên lỏng lẽo, những ngọn lửa âm ỉ đó
đã bùng phát tạo ra các phong trào khai sáng, chống lại quyền bính của chế độ phong
kiến, đưa xã hội Châu Âu bước sang thời kỳ lịch sử mới. Về mặt tư tưởng, mầm sống
của những thay đổi có lẽ bắt nguồn từ cuộc cách mạng tôn giáo do Luther khởi xướng
vào năm 1517 trong bối cảnh đang có phong trào chống đối hàng giáo sĩ của giáo hội.
Khác với truyền thống của giáo hội, chủ thuyết của Luther cho phép các tín hữu tự cắt
nghĩa các văn bản kinh thánh mà không cần phụ thuộc vào hàng giáo sĩ – vốn là những
con người có quyền thay mặt cho giáo hội giảng dạy kinh thánh. Chủ thuyết này cùng
GVHD: Hoàng Công Minh

10


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học

với những tiến bộ của khoa học vũ trụ đương thời như thuyết của Nicolas Copernic
cho rằng trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là một trong nhiều hành
tinh khác di chuyển xung quanh mặt trời, lý thuyết này đã thổi vào xã hội Châu Âu
một phong trào tự do tư tưởng, mở đầu cho thời kỳ triết học khai sáng với những tên
tuổi nổi tiếng như: F.Voltaire, J.J.Rousseau, C.Montesquieu, ...

Lý thuyết của

N.Copernic đã mở

đầu cho thời kỳ

triết học khai sáng ở

châu Âu
Châu Âu

vào thế kỷ 19 có một

sự bùng nổ những suy tư về những phương thức giải quyết khủng hoảng kinh tế, xã
hội và khoa học. Có những giải pháp hiện thực (A.De.Tocqueville) nhưng cũng có
những giải pháp không tưởng. Người ta thấy cần thiết phải giải quyết các vấn đề xã
hội một cách khoa học. Những cuộc cách mạng chính trị, những thay đổi trên lĩnh vực
kinh tế và lao động đã tạo ra những điều kiện làm hình thành và phát triển một thế giới
quan mới về các hiện tượng xã hội.
Có thể kết luận rằng: Các cuộc cách mạng chính trị, kinh tế vào thế kỷ 18, 19
cùng với những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi tận gộc rễ các
mối liên hệ truyền thống. Xã hội học đã chính thức ra đời trong bối cảnh các nhà
nghiên cứu tìm cách trả lời các câu hỏi căn bản: làm thế nào để xã hội giữ được sự ổn
định và có thể tồn tại? Trật tự chính trị được áp đặt như thế nào? Giải thích thế nào đối

GVHD: Hoàng Công Minh

11


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
với các vấn đề như tội phạm, bạo lực,...? Từ những giải pháp cho câu hỏi này, các hệ
thống tư tưởng xã hội lớn đã hình thành và ngự trong suốt thế kỷ 19 và 20, xoay xung
quanh những trường phái chính như: lý thuyết xung đột, lý thuyết cơ cấu chức năng, lý
thuyết tương tác biểu tượng cùng rất nhiều trường phái xã hội học hiện đại khác.
Trên lĩnh vực chính trị, cuộc cách mạng tư sản Pháp đã làm thay đổi thể chế
chính trị, mở đầu thời kì tan rã của của chế độ phong kiến thay vào đó là sự thống trị
của giai cấp tư sản, hình thành nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng tư sản Pháp khơi dậy cho giai cấp công nhân những biến đổi về mặt
nhận thức: quyền con người, quyền bình đẳng… Sau Pháp, các nước Anh, Đức, Ý và
các nước phương Tây khác cũng có những biến động chính trị theo con đường “tiến
hóa”.
Đặc điểm chung trong đời sống Châu Âu lúc bấy giờ là: Quyền lực chính trị
chuyển sang tay giai cấp tư sản cùng với sự tự do bóc lột giai cấp công nhân của giai
cấp tư sản. Điều này làm phát sinh mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp vô sản và giai cấp
tư sản cuối cùng dẫn đến bùng nổ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên ở Pháp (1871) và
tiếp đó ở Nga (1917).
Lúc bấy giờ, lý tưởng cách mạng và chủ nghĩa xã hội cho giai cấp bị bóc lột và
các dân tộc thuộc địa hình thành và phát triển. Những biến đổi về mặt chính trị, tư
tưởng trên đã dẫn đến: Khoa học xã hội học ra đời đầu tiên ở Pháp – cái nôi của cách
mạng, tiếp đến là Anh, Pháp, Đức… Những biến đổi về kinh tế, văn hoá, chính trị đòi
hỏi các nhà xã hội học đưa ra những vấn đề mang tính toàn cầu như: Trật tự xã hội, bất
bình đẳng xã hội, tìm cách phát hiện ra các quy luật tổ chức xã hội để góp phần tạo
dựng, củng cố trật tự xã hội và tiến bộ xã hội. Bởi vậy, xã hội học luôn trả lời ba câu
hỏi: Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội? Yếu tố nào ảnh hưởng tới hành vi con

người? Bất bình đẳng do đâu mà có?
3. Tiền đề khoa học – tri thức
Thế kỷ 19 cũng là thế kỷ phát triển mạnh mẽ của khoa học, đặc biệt là khoa học
tự nhiên. Những biến đổi cơ bản trong các lĩnh vực: vật lý, hóa học, sinh học và những
ứng dụng của các khoa học này, đặc biệt là của hóa học và sinh học đã gây ấn tượng
lớn và có ý nghĩa nhiều nhất vì mô hình của hai khoa học này đã được sử dụng như là
GVHD: Hoàng Công Minh

12


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
những mô hình cho nhiều lý thuyết xã hội học đầu tiên như: Saint – Simon, August
Comte, trường phái E.Durkheim ở Pháp, trường phái H.Senpcer ở Anh,... Cũng trong
thời kỳ này thuyết tế bào được hình thành. Tế bào được quan niệm như là một đơn vị
cơ bản của cơ thể với hai cấp độ: mỗi tế bào có cuộc sống riêng và cuộc sống này gắn
liền với cuộc sống của cơ thể. Nhiều nhà xã hội học sau này mượn mô hình này để giải
thích sự vận hành của xã hội. Ngoài ra còn có thuyết Tiến hóa của Darwin là cơ sở cho
sự xuất hiện của lý thuyết tiến hóa xã hội. Theo lý thuyết tiến hóa xã hội, trong xã hội
cũng như trong tự nhiên, sự đấu tranh sinh tồn đã tuyển chọn các cá thể và giải thích
sự tiến hóa xã hội.

Thuyết Tiến

hóa của

Darwin là cơ sở cho sự xuất hiện của lý thuyết tiến hóa xã hội
Nói chung, những biến chuyển của các khoa học tự nhiên là cơ sở cho các khoa
học xã hội mới ra đời, tư tưởng của triết học giảm đi sự chi phối, khoa học lịch sử và
kinh tế càng phát triển. Sự phát triển của các khoa học tự nhiên mang tính thực chứng

đã ảnh hưởng đến cách nhìn nhận và giải thích các sự kiện xã hội. August Comte chính
là người đã phát minh ra khái niệm “Xã hội học” và ông muốn xây dựng nó như là một
môn khoa học nghiên cứu các hiện tượng xã hội trên cơ sở thực nghiệm chặt chẽ như
khoa học tự nhiên.
Từ xa xưa các nhà tư tưởng đã đưa ra những giải thích về con người và xã hội,
tuy nhiên chỉ mang tính ước đoán, giả định. Thời kỳ Phục Hưng (Thế kỷ XIV) đã đặt
vấn đề nghiên cứu con người và xã hội tuy chưa trở thành khoa học nhưng đã có
GVHD: Hoàng Công Minh

13


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
những tiến bộ đáng kể, đây cũng chính là tiền đề lý luận, phương pháp luận nảy sinh
khoa học xã hội học. Các trào lưu tư tưởng tiến bộ của Khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội đã trở thành tiền đề, nguồn gốc và những yếu tố tạo nên hệ thống lý luận và
phương pháp luận của khoa học xã hội, cụ thể là: Các nhà tư tưởng của Anh, đặc biệt
là A.Smith (1723 - 1796) và D.Ricado (1772 - 1823) khi nghiên cứu chế độ kinh tế –
xã hội đã cho rằng cá nhân phải được tự do, thoát ra khỏi những ràng buộc và hạn chế
bên ngoài để tự do cạnh tranh, lúc đó cá nhân mới tạo ra được xã hội tốt. Những quan
điểm này đứng trên lập trường của chủ nghĩa tư bản, biện minh cho giai cấp tư sản
song dù sao cũng bênh vực quyền con người, gợi mở cách nhìn biện chứng duy vật về
những vấn đề xã hội mới nảy sinh. Tại Pháp, thời kỳ Phục Hưng nửa cuối thế kỷ XV
đã xuất hiện những nhà khai sáng và chủ nghĩa xã hội như: Voltaire, S.Simont,
Fourier… đặc biệt là A.Comte – người sáng lập ra chủ nghĩa thực chứng và xã hội học.
Tư tưởng của các nhà triết học Pháp cho rằng con người bị chi phối bởi điều kiện và
hoàn cảnh xã hội, do đó phải tôn trọng và bảo vệ quyền “ tự nhiên” của con người,
cần phải xoá bỏ áp bức, bất công, xây dựng xã hội mới phù hợp với bản chất của con
người.


Auguste Comte (1798 – 1857) – Người sáng lập ra chủ nghĩa thực chứng và xã hội
học
Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra thế kỷ XVI, XVII, XVIII, đã làm
thay đổi thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Trước kia, người ta giải thích
thế giới bằng lực lượng siêu nhiên, thần thánh. Đến đây, người ta đã giải thích thế giới
một cách khoa học, vận động và phát triển theo quy luật. Các quy luật của xã hội cũng
GVHD: Hoàng Công Minh

14


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
có thể nhận thức được, sử dụng các khái niệm, phạm trù, phương pháp nghiên cứu
khoa học để giải thích thế giới, từ đó cải tạo thế giới. Tóm lại xã hội học ra đời với tư
cách một ngành khoa học độc lập, trong lòng xã hội cũ cuối thế kỷ XIX khi có sự chín
muồi về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và lý luận – phương pháp luận. Người đi
đầu trong ngành khoa học này là nhà triết học người Pháp – August Comte.

GVHD: Hoàng Công Minh

15


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học

CHƯƠNG 3
VAI TRÒ CỦA MÔN HỌC XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Vì sao sinh viên cần học Xã hội học ?
Ngày nay, cùng với sự phát triển tiến bộ không ngừng của xã hội và giáo dục,

ngoài những kiến thức khoa học chuyên môn trang bị cho sinh viên trên giảng đường
đại học, việc bổ sung kiến thức xã hội cho sinh viên là hết sức cần thiết và cần phải
đặc biệt chú trọng. Vì đây cũng là một trong những cơ sở nền tảng hình thành nên kiến
thức, kỹ năng của một người sinh viên và đồng thời là tiền đề đánh giá chuẩn đầu ra
cho sinh viên về sau này. Xã hội học cũng không ngoại lệ. Những kiến thức mà sinh
viên tiếp thu được qua môn học này là cả kho tàng về phương pháp lý luận và nghiên
cứu xã hội, từ đó đúc kết kinh nghiệm xã hội cho mỗi cá nhân và giúp cá nhân đó nhận
thức được vai trò của bản thân trong xã hội. Qua đây, cũng đủ để thấy rằng việc đưa
môn Xã hội học vào chương trình đào tạo đóng một vai trò không hề nhỏ và được xem
là cần thiết trong đào tạo “kiến thức nền” cho sinh viên.
Sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng như
sinh viên nói chung cần nhận thức rõ vai trò và chức năng của các môn học xã hội
trong nhà trường, qua đó có thái độ học tập đúng đắn, rèn luyện kỹ năng và có phương
pháp nghiên cứu rõ ràng để đạt được những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và thái độ
đối với môn học này.
Những lợi ích có được của một người học xã hội học:
 Sinh viên cởi mở hơn trong các mối quan hệ xã hội, có cái nhìn bao quát hơn
khi tiếp cận các sự vật hiện tượng trong xã hội, xem xét các vấn đề từ một góc
nhìn rộng lớn và nhiều chiều
 Sinh viên có thể hình thành được thói quen chú ý, quan sát, ghi nhận các sự
kiện, hiện tượng diễn ra trong cuộc sống, có tư duy phê phán tốt, giao tiếp được
cải thiện đáng kể…
 Kỹ năng vận dụng tri thức xã hội để lý giải tình hình, thực trạng và bản chất của
các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội.
GVHD: Hoàng Công Minh

16


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học

 Có thể sử dụng linh hoạt các công cụ xã hội học (quy trình tiến hành một cuộc
điều tra, các phương pháp thu thập thông tin...) để điều tra, nghiên cứu, làm
sáng tỏ một vấn đề xã hội nói chung hay một vấn đề pháp luật nói riêng.
 Rèn luyện tính nghiêm túc, độc lập, khả năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa
học, chuẩn bị những kiến thức cho các bậc học cao hơn.
 Xã hội học tạo những tiền đề phương pháp trong quá trình nhận thức trong học
tập của sinh viên, về những triển vọng nhằm phát triển bản thân.
 Giúp sinh viên xác định được nhu cầu phát triển của xã hội, của các tầng lớp,
nhóm, các cộng đồng xã hội từ đó chọn ra hướng đi trong tương lai.
 Trên chức năng thực tiễn, Xã hội học giúp sinh viên phát huy năng lực dự báo,
quản lý và chỉ đạo, hiểu rõ các chuẩn mực của xã hội, các tương tác xã hội, các
đặc điểm hình thái của xã hội, những yếu tố này sẽ giúp sinh viên dễ dàng tiếp
cận với xã hội tạo tiền đề cho phát triển sự nghiệp.
 Xã hội học giúp sinh viên biết được đâu là những điều lệch chuẩn và đâu là
những điều họ nên làm, hiểu rõ bản thân mình là ai, vai trò, vị trí của họ trong
xã hội và cần làm gì để tồn tại trong xã hội đó.
3.2. Xã hội học - một nghề đa dạng về môi trường công việc
Những người học xã hội học sẽ có được một bản lĩnh sẵn sàng đối mặt với các
thử thách, thích nghi tốt với mọi hoàn cảnh, biết cách tiến hành nghiên cứu thực
nghiệm, phát triển kỹ năng tư duy phân tích và quan trọng là biết cách để truyền đạt ý
tưởng một cách hiệu quả cả bằng lời nói và bằng văn bản.
Xã hội học là một không gian rộng lớn. Nhưng thông qua việc trang bị những
kiến thức và sự trải nghiệm chúng ta có thể làm việc trong những khu vực bao gồm:
các công ty, cơ quan chính phủ, các tổ chức dịch vụ xã hội, các cơ quan thực thi pháp
luật, các đơn vị nghiên cứu.

GVHD: Hoàng Công Minh

17



Tiểu luận Nhập môn Xã hội học
Xã hội càng đa dạng và năng động bao nhiêu thì không gian nghề nghiệp cho
các nhà xã hội học lại càng mở rộng bấy nhiêu. Cơ hội luôn chờ đợi những ai sở hữu
nhiều kiến thức xã hội học.
Xã hội học chuyên nghiên cứu các vấn đề xã hội quan tâm, thí dụ: thất nghiệp
hiện nay, tình dục trước hôn nhân, thanh niên và học vấn, đạo đức trong nhà trường...
để cho sinh viên có cái nhìn khách quan và đưa ra các biện pháp giải quyết một cách
phù hợp và có hiệu quả trong thời gian sớm nhất.
Với những kiến thức xã hội học được trang bị một cách chuyên nghiệp, sinh
viên sẽ có thể giải mã những hiện tượng xã hội rất đa dạng. Khi đã có nghề xã hội học
trong tay sinh viên có thể lựa chọn những định hướng nghề nghiệp cụ thể hơn.
Sinh viên có thể tiếp tục làm nghiên cứu viên ở các viện nghiên cứu, làm giảng
viên xã hội học tại các cơ sở đào tạo cao đẳng, đại học, sau đại học, về làm việc tại các
cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội, thậm chí là cả trong những bộ phận liên quan đến
quan hệ đối ngoại, quan hệ xã hội, quan hệ công chúng của các tổ chức kinh tế, toà
báo, doanh nghiệp...
Tại mỗi vị trí làm việc, sinh viên có thể phát huy kiến thức xã hội học của mình
trên cơ sở gắn kết với thực tiễn (yêu cầu cụ thể của cơ quan, doanh nghiệp mà mình
làm việc). Công việc này tạo cho sinh viên cơ hội lớn để tham gia vào các hoạt động
gắn với phát triển xã hội, phát triển cộng đồng…

GVHD: Hoàng Công Minh

18


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học

KẾT LUẬN


Sự ra đời của Xã hội học đã có một vị trí và ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
đời sống xã hội. Xã hội học cùng với các ngành khoa học khác trang bị cho chúng ta
những tri thức khoa học, những hiểu biết để nhận thức các quy luật khách quan của
thực tiễn xã hội, qua đó nhận biết sự vận động của hệ thống các mối quan hệ xã hội
của các nhóm và cộng đồng xã hội. Đồng thời Xã hội học trang bị những tri thức nhằm
hiểu biết về con đường và các biện pháp để đạt được mục đích cải tạo thế giới, cải tạo
hiện thực phục vụ con người.
Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa,
tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa,
vì thế mỗi người cần phải ra sức học tập, nâng cao trình độ học vấn, sống và làm việc
theo tấm gương đạo đức của Hồ Chủ tịch. Bởi vì đây chính là một bộ phận quan trọng
của nền tảng tinh thần xã hội, là động lực và nguồn sức mạnh to lớn để phát triển đất
nước, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Giúp sinh viên hiểu rõ những điều kiện và tiền đề ra đời của Xã hội học cũng
chính là giúp họ nhận thức được vai trò của môn học này, từ đó có nhận thức đúng đắn
trong học tập các môn học xã hội, giúp sinh viên phát huy năng lực dự báo, quản lý và
chỉ đạo, hiểu rõ các chuẩn mực của xã hội, các tương tác xã hội, các đặc điểm hình thái
của xã hội, những yếu tố này sẽ giúp sinh viên dễ dàng tiếp cận với xã hội tạo tiền đề
cho phát triển sự nghiệp.

GVHD: Hoàng Công Minh

19


Tiểu luận Nhập môn Xã hội học

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Xã hội học đại cương, Th.S Tạ Minh, NXB Đại học Quốc gia Thành phố

Hồ Chí Minh
2. Xã hội học, Lương Văn Úc, NXB Đại học Kinh tế quốc dân (2009)
4. Tập bài giảng xã hội học, NXB Công an nhân dân
5. Từ điển xã hội học, Thanh Lê, NXB Khoa học xã hội Hà Nội
6. />7. />8. />
GVHD: Hoàng Công Minh

20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×