Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Công tác quản lý nhà nước đối với nón làng Chuông của UBND xã Phương Trung, Thanh Oai, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.14 KB, 38 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan bài nghiên cứu khoa học này là kết quả nghiên cứu nghiêm túc
của tôi. Mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện tiểu luận này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong bài tiểu luận đã được chỉ ra nguồn gốc rõ ràng và được
phép công bố. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm bài nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 14 tháng 5 năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này tôi đã nhận được sự hướng dẫn chu đáo, nhiệt
tình của giảng viên hướng dẫn Th.s Bùi Thị Ánh Vân.
Trong thời gian thu thập tài liệu để xây dựng đề tài, tôi xin chân thành
cảm ơn sự giúp đỡ của các nghệ nhân làm nón ở làng Chuông, UBND xã
Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Ngoài ra, tôi xin gửi lời cảm ơn báo cáo thực tập “ Làng Chuông với nghề
làm nón” đã giúp tôi nhanh chóng hoàn thiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CNH –HĐH

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

UBND

Uỷ ban Nhân dân

HTX


Hợp tác xã


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ TỔNG
QUAN VỀ NÓN LÀNG CHUÔNG...................................................................4
1.1. Một số vấn đề lý luận.............................................................................4
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản......................................................................4
1.1.2. Định hướng và nội dung cơ bản của công tác quản lý nhà nước về
phát triển làng nghề truyền thống...................................................................5
1.2. Khái quát về xã Phương Trung và nón làng Chuông.........................6
1.2.1. Xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội......................................6
1.2.2. Làng Chuông và nón làng Chuông.......................................................7
Tiểu kết...........................................................................................................8
Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NÓN LÀNG
CHUÔNG CỦA UBND XÃ PHƯƠNG TRUNG, THANH OAI, HÀ NỘI.............9
2.1. Việc thực hiện các chính sách của nhà nước về phát triển làng nghề
truyền thống của UBND xã Phương Trung...............................................9
2.2. Quản lí các hộ sản xuất nón................................................................13
2.3. Quản lý về các loại hình dịch vụ.........................................................14
2.3.1. Quản lý dịch vụ nguyên liệu:..............................................................14
2.3.2 Quản lý dịch vụ tiêu thụ sản phẩm.......................................................16
2.4. Quản lý về các loại hình dịch vụ doanh thu.......................................17
2.5. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý......................20
2.5.1. Thuận lợi.............................................................................................20
2.5.2. Khó khăn.............................................................................................21
Tiểu kết.........................................................................................................24
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG

TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NÓN LÀNG CHUÔNG..........................25
3.1. Khuyến khích cải tiến mẫu mã và tăng cường tuyên truyền, quảng
bá thương hiệu.............................................................................................25
3.1.1. Khuyến khích cải tiến mẫu mã............................................................25
3.1.2. Tăng cường tuyên truyền, quảng bá thương hiệu................................25
3.2. Mở rộng thị trường tiêu thụ và gắn sự phát triển của nghề với du lịch. 26
3.2.2 Mở rộng thị trường tiêu thụ..................................................................26
3.2.2. Gắn sự phát triển của nghề với du lịch................................................26
3.3. Một số kiến nghị....................................................................................27
Tiểu kết.........................................................................................................28
KẾT LUẬN........................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................30
PHỤ LỤC...........................................................................................................31



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Làng nghề truyền thống có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Trong thời kì hội nhập, sự phát triển của
nền kinh tế thị trường với các ngành công nghiệp là mối đe dọa lớn đối với các
ngành nghề truyền thống, đứng trước sức ép trên đòi hỏi đảng và nhà nước cần
đưa ra những chính sách đúng đắn phù hợp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa song song với việc bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống.
Hiện nay trên cả nước có rất nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng như
làng gốm Bát Tràng, làng thuê Xuân Nèo, làng lụa Vạn Phúc… Trong đó, không
thể không kể đến làng Chuông với nghề làm nón có truyền thống hàng trăm
năm. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, làng Chuông đang dần mai một nghề
làm nón.
Với làng Chuông, xã Phương Trung, chính quyền địa phương đã cụ thể

hóa các chính sách của nhà nước gắn với điều kiện kinh tế - xã hội của địa
phương, đề ra một số chính sách phát triển làng nghề như chính sách vốn, chính
sách đãi ngộ nghệ nhân, chính sách đào tạo nhân lực… Tuy nhiên, một số chính
sách của nhà nước chưa đồng bộ, thường xuyên phải bổ sung, chỉnh sửa, hoạt
động quản lý chưa sát với tình hình thực tiễn ở làng nghề, nguồn lực tài chính
đàu tư cho phát triển làng nghề còn hạn chế.
Do vậy, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, văn hóa đối với
phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn xã Phương Trung, huyện Thanh
Oai, Hà Nội. Qua đó góp phần gìn giữ, phát triển làng nghề - nón làng Chuông,
đòi hỏi phải nghiên cứu tìm tòi giải pháp phù hợp phát triển làng nghề trong bối
cảnh đất nước CNH – HĐH. Từ đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Công tác quản lý nhà
nước đối với nón làng Chuông của UBND xã Phương Trung, Thanh Oai, Hà
Nội” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu và đánh giá về thực trạng công tác quản
lý nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn xã Phương
1


Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần vào
việc nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước đối với công tác này trên
địa bàn.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu thì đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ
những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý nhà nước về việc phát
triển làng nghề truyền thống cấp xã.
+ Tìm hiểu đánh giá và khảo sát thực trạng công tác quản lý nhà nước về
phát triển làng nghề truyền thống của UBND xã Khương Trung, huyện Thanh
Oai, Hà Nội.

+ Đưa ra một số giải pháp và đề xuất góp phần nâng cao chất lượng công
tác quản lý nhà nước, văn hóa về phát triển làng nghề truyền thống của UBND
xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Công tác quản lý nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống.
- Phạm vi: Trên địa bàn xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
-Thời gian: 2005 – 2015
4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Để hoàn thành được bài tiểu luận, tôi đã đọc một số các tài liệu:
Đặng Văn Bài ( 11/2006 ), tham luận hội thảo “ Bảo tồn bền vững làng
nghề Hà Tây: “Thực trạng và giải pháp”; Làng nghề Hà Tây ( 2001 ) , Sở Công
nghiệp Hà Tây; Nguyễn Thị Hương Lan ( 2008 ), “Hoàn thiện quản lý nhà nước
về phát triển làng nghề Hà Tây” ( luận văn thạc sĩ Đại học Văn hóa Hà Nội);
Nguyễn Tùng Lâm ( 2005 ), “ Nón ba tầm làng Chuông – Hà Tây ” lưu tại thư
viện bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Những tài liệu quý báu trên đã giúp tôi trong quá trình nghiên cứu về vấn
đề quản lý làng nghề nói chung và từ đó giúp tôi xác định rõ phạm vi, đối tượng,
mục đích nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận của
công tác quản lý nhà nước về phát triển các làng nghề truyền thống, thực trạng
2


phát triển; công tác quản lý nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống của
UBND xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội; một số kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về phát triển làng nghề truyền
thống của UBND xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
quan điểm của Đảng và nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống.
- Phương pháp cụ thể: Quan sát, điều tra, khảo sát thực tế, so sánh, thu

thập tổng hợp, quan sát.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, tiểu
luận được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về công tác quản lý nhà nước các làng nghề
truyền thống và tổng quan về nón làng Chuông.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý nhà nước về nón làng Chuông của
UBND xã Phương Trung.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý nhà nước về
nón làng Chuông .

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT
TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ TỔNG QUAN VỀ
NÓN LÀNG CHUÔNG
1.1.

Một số vấn đề lý luận

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Làng nghề, làng nghề truyền thống
Làng nghề, làng nghề truyền thống là những khái niệm cơ bản khi nghiên
cứu về sự phát triển của làng nghề: “Làng nghề là một thuật ngữ dùng để chỉ
các cộng đồng cư dân, chủ yếu ở các vùng ngoại vi thành phố và nông thôn, có
chung truyền thống sản xuất các sản phẩm thủ công cùng chủng loại. Làng
nghề thường mang tính tập tục truyền thống đặc sắc, đặc trưng, không chỉ có
tính chất kinh tế mà còn bao gồm cả tính văn hóa, đặc điểm du lịch” [4; Tr. 19].

Khái niệm “Sản phẩm làng nghề” theo Hiệp hội Làng nghề, được chia ra
làm 16 nhóm như sau: mây tre đen; Gốm, sứ, pha lê; Dâu tằm; Thêu, dệt, lụa;
Đánh bắt, chế biến hải sản; Đúc đồng, chạm bạc; Đóng, sữa chữa tàu thuyền;
Sản xuất hàng dân dụng; Hoa, cây cảnh; Làm chiếu; Thủ công mỹ nghệ; Điêu
khắc, chạm khắc gỗ; Sơn mài; Làm giấy; Làm trống; Chế biến thức phẩm.
Từ trước đến nay các nhà học giả các nhà nghiên cứu chưa có sự thống
nhất về việc định nghĩa được làng nghề truyền thống. Theo tác phẩm “Hà Tây
làng văn” : “Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ công.
Ở đấy không nhất thiết tất cả các dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người
thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời làm nghề nông. Nhưng yêu cầu
chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng truyền
thống ngay tại quê mình” [4; Tr. 24]. Làng nghề truyền thống là những làng
nghề có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, có những thành công nhất định
có uy tín thương hệu được nhiều người biết đến. Làng nghề là một hoặc nhiều
cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, hoặc các điểm dân cư
tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn,
sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. Nghề truyền thống là nghề
4


đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra các sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt,
được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất
truyền.
* Quản lý, quản lý nhà nước
Có nhiều khái niệm về quản lý. Theo “ Giáo trình lý luận quản lý hành
chính nhà nước” viết: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức ( gia đình, nn,
chính phủ ), đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo,
điều chỉnh và kiếm soát, quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo
điều chỉnh và kiếm soát ấy” [1; Tr. 21]. Theo “Giáo trình quản lý hành chính nhà
nước” định nghĩa: “Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh

bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi quản lý hoạt
động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự
pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong
công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN” [1; Tr. 23].
1.1.2. Định hướng và nội dung cơ bản của công tác quản lý nhà nước về phát triển
làng nghề truyền thống
Định hướng của Đảng và chính sách của nhà nước về công tác quản lý
nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống được thể hiện rõ ràng nhất qua
nghị định 66/2006/NĐ – CP ban hành năm 2006 của Thủ tướng chính phủ định
hướng làng nghề là một phần quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại với
mục tiêu CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn, thể hiện qua: Thứ nhất là quy
trình, thủ tục công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống. Thứ ba nhà nước tạo
điều kiện về mặt bằng. Thứ tư nhà nước có chính sách hỗ trợ vốn. thứ năm hỗ
trợ xúc tiến thương mại. Thứ sáu hỗ trợ đào tạo nhân lực.
Thành phố Hà Nội có những chỉ đạo cụ thể và thiết thực về công tác phát
triển làng nghề, thể hiện qua quyết định số 31/2014/QĐ – UBND thành phố về
việc phát triển làng nghề với nội dung: Thứ nhất hỗ trợ đào tạo nghề truyền
thống 3 tháng đến 1 năm cho người dân. Thứ hai hỗ trợ huấn luyện kĩ năng đào
tạo quản lý cho người dân làng nghề trong 7 ngày. Thứ ba xây dựng kế hoạch
định hướng phát triển hàng năm. Thứ tư hỗ trợ xúc tiến thương mại gồm: Đào
5


tạo huấn luyện kĩ năng quảng bá quảng cáo; Đặt tên, thiết kế logo; Hỗ trợ kinh
phí xử lí ô nhiễm môi trường.
Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về phát triển làng nghề thể hiện
qua các chương trình hoạt động: Xây dựng quy hoạch phát triển ngành nghề
nông thôn, phát triển các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn, gắn với
việc hình thành các thị trấn mới ở nông thôn. Quy hoạch phát triển ngành nghề
nông thôn được xây dựng phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã

hội của địa phương và cả nước, gắn với bảo vệ môi trường làng nghề. Tuyên
truyền, phổ biến, vận động người dân thực hiện các quy định về vệ sinh môi
trường và phòng chống ô nhiễm môi trường làng nghề. Xây dựng chương trình
bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, phát triển làng nghề gắn với du
lịch, phát triển làng nghề mới. Phân tích, dự báo đầy đủ yếu tố tác động đến sự
phát triển của làng nghề, nhất là về thị trường, yêu cầu về năng lực cạnh tranh
của sản phẩm và dịch vụ. Phân tích, đánh giá hiện trạng phát triển ngành nghề
nông thôn trên các vùng lãnh thổ, đi sâu phân tích cơ cấu sản phẩm chủ yếu,
vùng nguyên liệu, công nghệ, lao động, tổ chức sản phẩm, cơ sở hạ tầng vè môi
trường. Thống kê, đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường làng nghề địa bàn và có
kế hoạch giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề. Hỗ trợ và tạo điều
kiện cho việc hình thành các khu và cụm công nghiệp, cụm làng nghề ở nông
thôn để thu hút các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ sử dụng
nhiều lao động và nguồn nguyên liệu từ nông, lâm, thủy sản.
1.2. Khái quát về xã Phương Trung và nón làng Chuông
1.2.1. Xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Phương Trung là một xã của huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Xã
Phương Trung nằm cách Hà Nội hơn 20km là một vùng đất vốn dĩ khô cằn nên
từ lâu, dân làng đã làm thêm nghề phụ. Nghề làm nón lá đã trở thành một trong
những nghề truyền thống khá thành đạt.
Xã có tổng diện tích là 4,82 km2 với Tổng số dân: 13070 người ( 1999 )

6


1.2.2. Làng Chuông và nón làng Chuông
Làng Chuông là một ngôi làng nhỏ nằm bên dòng sông Đáy, cách trung
tâm Hà Nội trên 30 km, thuộc xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
[ xem phụ lục 1; Tr. 31]. Từ Hà Nội đi theo hướng quốc lộ 6 đi Hòa Bình, tới
ngã ba Ba La, rẽ trái để đi theo hướng đi chùa Hương, qua thị trấn Kim Bài

khoảng 2 km thì sẽ tới ngã ba rẽ phải vào làng Chuông. Đến làng Chuông phiên
họp chợ Nón. Thời gian họp chợ diễn ra vào các buổi sáng ngày sáng mồng 4,
10, 14, 20, 24 và 30 âm lịch. Chợ bán các loại nón và nguyên liệu làm nón. Làng
Chuông khác với nhiều địa phương làm nghề truyền thống là không sẵn có vùng
nguyên liệu phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất mà hầu hết các nguyên liệu điều
được các tương lái thu gom từ nhiều tỉnh thành khác. Do đó, ở chợ nón làng
Chuông, nón không hẳn là sản phẩm đã hoàn thiện là chính, mà những nguyên
liệu phục vụ cho việc sản xuất nón mới làm nên sự độc đáo của phiên chợ. Chợ
họp ngay cạnh Đình Làng, đây cũng là một phiên chợ còn lưu giữ nhiều nét cổ
trong đời sống sinh hoạt làng xã Việt Nam. Được rất nhiều các du khách mua về
để làm lưu niệm khi đến với làng Chuông Hà Nội.
Làng Chuông gồm có sáu nhóm thì tất cả người dân đều làm nghề nón.
Vật dụng làm nón gồm lá, chỉ và khung nón. Nón làng Chuông trông đơn giản,
nhưng đòi hỏi rất công phu, tỉ mỉ khi làm ra nó.Khung nón làm bằng tre ngâm
kỹ vừa dẻo dai lại rắn chắc, gồm 16 vành. Đây được coi là công thức bắt buộc
đã chọn lọc phù hơp với thực tế thông qua bao đời người thợ làm nón Chuông.
Nón làng Chuông nổi tiếng từ cách đây vài thế kỷ. Xưa kia, chính nón Chuông
là vật tiến công cho hoàng hậu và công chúa, đồng thời cũng là thứ trang sức
cho các bà, các chị, nhất là những thiếu nữ. Đến nay, những nét đẹp đó vẫn còn
được gìn giữ như một biểu tượng văn hóa đắc sắc của người Việt Nam nói chung
và người dân làng Chuông nói riêng.
- Nón làng Chuông:
Cũng như nhiều nghề thủ công khác, nghề làm nón trong quá trình phát
triển đã cho ra đời một số mẫu mã phong phú và độc đáo theo nhu cầu đời sống
văn hóa xã hội từng giai đoạn khác nhau. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng
7


cũng như mở rộng thị trường tiêu thụ nón, làng Chuông không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm và cải thiện nhiều loại nón. Đặc biệt là lá nón được lầy từ

một loại cây họ nhà cọ ở vùng núi non Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Người
ta phải lựa loại lá màu sáng và xanh đều thì nón mới đẹp. Lá khi được mua về sẽ
được vò trong cát để lá mềm rồi mới đem phơi khoảng hai, ba nắng cho đến khi
màu xanh của lá chuyển thành màu bạc trắng. Sau đó sấy thêm bằng bếp củi,
bếp đun lửa nhỏ để lá khô dần mà không bị giòn, nếu muốn lá trắng hơn thì phải
đun một lần nữa qua diêm sinh.
Vòng nón ở làng Chuông được làm bằng cật nứa vót nhỏ và đều. Khi nối,
bắt buộc vòng nón phải tròn và chỗ nối không có vết. Khác với nón thường có
20 lớp vòng, nón làng Chuông có 16 lớp vòng giúp nón có độ bền chắc nhưng
vẫn mềm mại. Vòng nón sau khi được hoàn thành sẽ được xếp vào khuôn, sau
đó sẽ xếp từng lá vào vòng nón. Lá sẽ có hai lớp, một lớp mo tre và ngoài cùng
là một lớp lá nữa. Người khâu nón cũng được ví như người thợ thêu. Bàn tay
người thợ cầm kim đưa nhanh thoăn thoắt, mềm mại từng mũi khâu, thẳng đều
từ vòng trong ra vòng ngoài.
Tiểu kết
Trong chương 1, tôi đã trình bày một số khái niệm về làng nghề, làng nghề
truyền thống, quản lý, quản lý nhà nước. Đồng thời, nêu ra một số định hướng và
chính sách của Đảng, nhà nước trong công tác quản lý nhà nước về phát triển làng
nghề truyền thống. Bên cạnh đó là các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về
phát triển làng nghề thể hiện qua một số chương trình hoạt động. Tiếp đó, tôi đã
khái quát tổng quan về xã Phương Trung, Thanh Oai, Hà Nội và giới thiệu về
chiếc nón làng Chuông- một sản phẩm truyền thống độc đáo nơi đây.

8


Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NÓN LÀNG
CHUÔNG CỦA UBND XÃ PHƯƠNG TRUNG, THANH OAI, HÀ NỘI
2.1. Việc thực hiện các chính sách của nhà nước về phát triển làng

nghề truyền thống của UBND xã Phương Trung.
Nón làng Chuông có truyền thống lâu đời nên UBND huyện Thanh Oai đã
có chủ trương xây dựng thương hiệu cho làng nghề xã Phương Trung. Tháng 11
– 2012, Cục sở hữu Trí tuệ ( Bộ Khoa học và Công nghệ) đã chính thức công
nhận nhãn hiệu tập thể “ Nón Chuông” cho nghề làm nón tại xã Phương Trung.
Sự kiện này đánh dấu bước phát triển mới cho nón làng Chuông. Trong Quy
hoạch phát triển du lịch Thủ đô đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, thành
phố Hà Nội cũng xác định du lịch làng nghề là một hướng đi chính. Những năm
gần đây, địa danh nón làng Chuông đã xuất hiện trong một số tua du lịch làng
nghề. Vì vậy, việc công nhận nhãn hiệu tập thể còn tạo cơ hội tốt để quảng bá
nghề làm nón ở Phương Trung, mở rộng thị trường, đặc biệt phát triển du lịch.
Hiện tại, xã Phương Trung đã quy hoạch và đang chờ cấp thẩm quyền phê
duyệt dự án gần 20 ha để phát triển nghề làm nón huyện cũng đang nghiên cứu
cho quy hoạch điểm, khu du lịch làng nghề gần 2 ha ở làng Chuông, tiếp tục đầu
tư tu bổ đình chùa và các di tích kề cận, có bảng sơ đồ, bảng giới thiệu về lịch
sử các giá trị của các di tích này, tạo tiền đề thuận lợi để phát huy hết tiềm năng
giá trị từ sản phẩm nón lá làng Chuông trong thời gian tới… Với những định
hướng này, hy vọng nghề làm nón sẽ phát triển mạnh mẽ hơn.
Đầu tư cho phát triển làng nghề là một trong những công tác quản lí nhà
nước đang được địa phương quan tâm và tập trung thực hiện. Việc đầu tư vốn
cho làng nghề sẽ góp phần giải quyết các vấn đề xã hội và các quan hệ phức tạp
khác như: xóa đói giảm nghèo, bài trừ các hủ tục lạc hậu… Các chính sách đầu
tư hợp lý sẽ góp phần thực hiện các chính sách xã hội, một vấn đề đều được các
nước và tổ chức quốc tế quan tâm. Kinh tế làng nghề đóng vai trò quan trọng
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Làng nghề làm nón hiện nay đang thiếu vốn
để sản xuất, để mở rộng ngành nghề, để xây dựng cơ sở vật chất và kết cấu hạ
9


tầng… Do vậy, chính sách vốn và các hoạt động đầu tư sẽ góp phần đẩy mạnh

CNH – HĐH tại làng nghề, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách huy
động và sử dụng vốn sẽ tạo môi trường thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh
tế đều có thể tiếp cận các nguồn vốn để phát triển làng nghề. Doanh nghiệp cơ
sở sản xuất trong làng nghề làm nón đầu tư mở rộng, đầu tư mới, có sử dụng lao
động phải đào tạo được UBND huyện Thanh Oai xem xét hỗ trợ kinh phí đào
tạo cho số lao động mới. “ Hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, mức hỗ trợ từ
500.000 đồng đến 1.000.000 đồng/người/khóa học, từ nguồn kinh phí khuyến
công của thành phố Hà Nội” [2; Tr. 45]. Nhà nước hỗ trợ đào tạo nghề, truyền
nghề từ 3 tháng đến 1 năm: áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước, hợp tác
xã, tổ hợp tập huấn nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp cho chủ các cơ sở
sản xuất, lãnh đạo các doanh nghiệp làng nghề. Hoạt động này do Sở Công
thương tổ chức thực hiện.
Ngoài ra, hỗ trợ xúc tiến thương mại, áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, hợp tác xã khi tham gia các hoạt động xúc
tiến thương mại. Theo kế hoạch được UBND thành phố phê duyệt và có trong
dự toán hàng năm theo quy định tại các điều 5,6,7 Thông tư số 88/2011/TTBTC ngày 17/06/2011 của Bộ Tài Chính hướng dẫn cơ chế tài chính hỗ trợ từ
ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong làng nghề làm nón
khi tham gia hội chợ, triển lãm được hỗ trợ 50% tiền thuê diện tích gian hàng tại
hội chợ, triển lãm ở tỉnh ngoài, ở nước ngoài, từ nguồn vốn khuyến công,
khuyến thương của thành phố Hà Nội.
UBND hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất làng nghề 100% kinh phí
quảng bá sản phẩm trên Website của thành phố và của sở Công thương, từ nguồn
vốn khuyến thương của Hà Nội. Ngoài ra, nhà nước còn hỗ trợ kinh phí xây
dựng, đăng ký thương hiệu sản phẩm làng nghề ( thương hiệu chung). Làng
nghề truyền thống làm nón làng Chuông, khi xây dựng biển quảng bá làng nghề
được hỗ trợ cho UBND xã Phương Trung từ nguồn vốn khuyến công của thành
phố Hà Nội. Các tổ chức hội ngành nghề ở xã Phương Trung có làng nghề
truyền thống làm nón, gắn với tuyến du lịch, được hỗ trợ xây dựng một nhà
10



trưng bày giới thiệu sản phẩm. Với xã Phương Trung làng Chuông đạt tiêu
chuẩn, làng nghề, xã nghề được UBND tỉnh cấp bằng công nhận và thưởng cho
làng nghề, cho xã nghề, từ nguồn kinh phí khuyến công của thành phố Hà Nội.
Ngoài ra, UBND đã quy hoạch cho thuê mặt bằng với vị trí đẹp, thuận lợi
cho buôn bán để các hộ kinh doanh đăng ký bán hàng và quảng bá sản phẩm
nón. Với một hệ thống giao thông thuận tiện giúp cải thiện đáng kể tình hình
kinh doanh sản xuất nơi đây. Nguồn điện và điện nước cung cấp đầy đủ phục vụ
tích cực cho làng nghề. Thành phố Hà Nội hỗ trợ xây dựng hạ tầng phục vụ du
lịch làng nghề làm nón. Các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình đầu tư xây
dựng mới bãi đỗ xe, nhà vệ sinh công cộng, khu trưng bày giới thiệu sản phẩm
tại làng nghề. Dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định và nằm
trong kế hoạch thực hiện hằng năm được hỗ trợ toàn bộ kinh phí mua vật tư xây
dựng bãi đỗ xe, nha vệ sinh công cộng theo Quyết định số 31/2014/QĐ – UBND
quy định về chính sách khuyến khích phát triển làng nghề thành phố Hà Nội.
Năm
Khu trưng bày sản

2005
2

2010
4

phẩm
Nhà vệ sinh
Bãi đỗ xe

3
2


7
4

2015
10
12
6
[2; Tr. 25]

Theo bảng số liệu trên, ta thấy:
- Năm 2005 trên địa bàn xã Phương Trung có 2 khu trưng bày, 3 nhà vệ
sinh công cộng và 2 bãi đỗ xe.
- Năm 2010, số khu trưng bày 4, 7 nhà vệ sinh và 4 bãi đỗ xe.
- Năm 2015, tổng có 10 khu trưng bày, 12 nhà vệ sinh và 6 bãi đỗ xe với
quy mô mở rộng và hiện đại hơn.
- So với năm 2005, năm 2010 đã tăng lên 2 nhà trưng bày mới năm 2015
tiếp tục hoàn thiện và mở rộng thêm 8 nhà trưng bày sản phẩm so với năm 2005.
Đây là sự quan tâm, đầu tư kịp thời hiệu quả của Đảng và nhà nước trong bối
cảnh từng ngày đổi mới.
- Các nhà vệ sinh công cộng không ngừng được xây dựng, đảm bảo yêu
11


cầu của khách tới làng Chuông tham quan, mua bán. Từ năm 2010 có 4 nhà sinh
được xây dựng thêm so với năm 2005. Từ 3 nhà vệ sinh công cộng, năm 2015
UBND xã đã cho xây thêm 9 nhà vệ sinh mới so với năm 2005.
- Trước đây do xe cộ phương tiện đi lại chưa thực sự phong phú và đa
dạng nên chỉ có 2 bãi đỗ xe đơn giản trong làng Chuông. Năm 2010, UBND xã
đã cho xây thêm 2 bãi đỗ xe mới so với năm 2005. Đến năm 2015, tổng bãi đỗ

xe đã tăng lên thành 6 cái tăng 4 bãi so với năm 2005, đồng thời không ngừng
nâng cấp và mở rộng hệ thống bãi đỗ xe an toàn và tiện lợi hơn cho nhân dân và
du khách đến tham quan mua bán ở làng Chuông.
Số liệu trên cho thấy cơ sở hạ tầng của làng Chuông được UBND xã
Phương Trung quan tâm đầu tư, mở rộng và nâng cấp nhằm không ngừng đảm
bảo và phục vụ nhu cầu của người dân địa phương, của du khách đến tham quan
và mua bán nón.
Đồng thời, địa phương đã rà soát lại việc thực hiện các cơ chế, chính sách
của Nhà nước về khuyến khích phát triển nghề và làng nghề, trợ giúp bảo vệ môi
trường, xúc tiến thương mại, đào tạo nhân lực; phân tích kỹ việc thực hiện cơ
chế, chính sách ấy trong thời gian qua và đề xuất giải pháp thực hiện trong thời
gian tới; những cơ chế, chính sách cần bổ sung, hoàn chỉnh, giúp cho doanh
nghiệp làng nghề của xã Phương Trung. UBND thường xuyên cử cán bộ có
chuyên môn tham gia quản lí hoạt động của làng nghề. Bên cạnh đó, UBND xã
luôn tạo mối liên kết và điều kiện tốt các đơn vị du lịch trong và ngoài nước,
tăng cường các quan hệ liên doanh, liên kết về nhiều mặt trong sản xuất, kinh
doanh, khắc phục tình trạng doanh nghiệp thiếu liên kết thậm chí cạnh tranh
không lành mạnh, cùng nhau thương thảo, thỏa thuận đối với những vấn đề liên
quan đến uy tín, thương hiệu của làng nghề, như giá cả, kinh doanh hợp pháp,
không gian lận thương mại, buôn bán hàng giả nhằm mở rộng phát triển quảng
bá cho nón làng Chuông.

12


2.2. Quản lí các hộ sản xuất nón
Theo báo cáo cả làng Chuông hiện có nguồn lao động làm nghề khá đa
dạng, từ trẻ nhỏ 5, 6 tuổi đến các cụ già, các bà, các chị đến những em học sinh
[xem phụ lục 2; Tr. 31]. Tuy làm nón không cho thu nhập cao nhưng đã giải
quyết một phần công ăn việc làm lúc nông nhàn và tăng thu nhập cho nhân dân

toàn xã. Các hộ sản xuất – kinh doanh nón làng Chuông trên địa bàn xã Phương
Trung qua thời gian có nhiều thay đổi.
Năm
Số hộ sản xuất
Số hộ kinh doanh

2005
750
175

2010
600
120

2015
320
85
[2; Tr. 35]

Theo bảng số liệu ta thấy:
- Năm 2005, số hộ sản xuất đạt 750 hộ, hộ kinh doanh đạt 175 hộ.
- Năm 2010, hộ sản xuất chỉ còn 600 hộ, hộ kinh doanh xuống còn 120 hộ.
- Năm 2015, hộ sản xuất chỉ còn 320 hộ, hộ kinh doanh xuống còn 85 hộ.
Năm 2005, số hộ sản xuất đạt 750 hộ, kinh doanh đạt 175 hộ. Đây là con
số tương đối khả quan thời điểm bấy giờ. Các hộ sản xuất đa phần sẽ kiêm luôn
kinh doanh nón, không chỉ buôn bán thu lợi nhuận từ mặt hàng này mà còn
khẳng định chất lượng thương hiệu cho nhãn hiệu nón của gia đình là bộ phận
của nón làng Chuông. Một số hộ kinh doanh thì nhập nón từ các hộ sản xuất về
rồi bằng những kỹ năng quảng cáo, bán hàng, mối quan hệ của mình bán nón thu
lợi nhuận. Tóm lại, kể cả hộ sản xuất cho tới kinh doanh đều đang gìn giữ và

quảng bá phát triển thương hiệu nón làng Chuông, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
xã hội trên địa bàn.
Năm 2010, số lượng hộ kinh doanh và sản xuất đều quay đầu giảm sút
trông thấy “ Hộ sản xuất chỉ là 600 hộ, hộ kinh doanh xuống còn 120 hộ. Năm
2010, số hộ sản xuất khoảng 80%, số hộ kinh doanh còn 68,6 % so với năm
2005. Năm 2010, số hộ sản xuất giảm xuống 20%, số hộ kinh doanh giảm
31,4% so với năm 2005” [2; Tr. 36]. Đây là hệ quả tất yếu mà khủng hoảng kinh
tế thế giới tác động vào nước ta mà bắt đầu từ năm 2008. Kinh tế vĩ mô bắt đầu
quay đầu đi xuống. Trong đó lĩnh vực hàng tiêu dùng. Nhu cầu người dân giảm
13


xuống do chi tiêu của người dân thắt chặt lại, cùng với đó các chỉ số giá xăng
dầu, lạm phát lại ổn định và có chiều hướng gia tăng. Đó là tín hiệu xấu cho nón
làng Chuông. Mặt khác việc mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho hàng
hóa nước ngoài tràn vào thị trường trong nước với các loại mũ nhiều mẫu mã,
chủng loại, mức ưu thế ưu tiên và thương hiệu nỗi tiếng nên các mặt hàng này
cạnh tranh khốc liệt với mặt hàng nón trong nước. Khó càng thêm khó khi trong
bối cảnh đó các chính sách chấn chỉnh nhằm ổn định của Nhà nước mới đang
trong việc dự thảo bước đầu thực hiện nên chưa mang lại nhiều hiệu quả. Hệ quả
đó đã dẫn đến việc bà con làm nón đã gặp khó khăn lớn. Và dần dần không còn
mặn mà với nó nữa, số còn lại thì trụ lại nhờ ý thức bản thân và nguyện vọng gia
đình, dòng họ.
Những năm gần đây, theo số liệu năm 2015, hộ sản xuất chỉ có 320 hộ, hộ
kinh doanh xuống 85 hộ. Năm 2010, số hộ sản xuất chỉ còn 42,7%, số hộ kinh
doanh còn 48,6 % so với năm 2005. Số lượng hộ kinh doanh giảm 57,3% và số
hộ sản xuất giảm 53,2% với năm 2005. Do những cạnh tranh và khó khăn của
thời đại CNH – HĐH, nhiều người trẻ không còn tha thiết với nghề làm nón.
Nguồn nhân lực hạn chế hơn lúc trước, song nhà nước đã tập trung quan tâm
hơn tới việc bảo tồn và phát triển làng nghề. Nhà nước bước đầu có các chế độ,

chính sách dành cho các nghệ nhân và thợ làm nghề. Đồng thời, khuyến khích
và tạo điều kiện để họ đào tạo đội ngũ kế cận cho các thế hệ mai sau nhằm tiếp
tục nuôi dưỡng làng nghề truyền thống.
2.3. Quản lý về các loại hình dịch vụ
2.3.1. Quản lý dịch vụ nguyên liệu:
* Nguyên liệu lá: Lá làm nón phải vào các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế… để mua. Người dân làng Chuông đặt tiền tại cơ sở, mua rồi
thu gom và chuyển về bằng ô tô tải. 70% số lá được bán cho người trong làng,
30% bán cho các chủ thu mua hoặc người làm nón ở các làng khác hoặc tỉnh
khác ở Bắc Bộ.
Năm 2005, lá làm nón nhập về làng Chuông tổng là 920 tấn, bao gồm 170
tấn lá loại A, 750 tấn lá loại B. Năm 2010, lá làm nón nhập về làng Chuông tổng
14


là 680 tấn, là 73,9%, giảm 26,1% so với năm 2005.
Năm 2010 lá loại A là 360 tấn, tương đương với 211,8 %, tăng 111,8% so
với năm 2005. Năm 2010, tấn lá loại B là 320 tấn, tương đương với 42,7%, giảm
57,3% so với năm 2005. Năm 2015, lá làm nón nhập về làng Chuông là 600 tấn,
là 65,2%, giảm 34,8% so với năm 2005.
Năm 2015, tấn lá loại A là 530 tấn, tương đương với 311,8%, tăng 211,8%
so với năm 2005. Năm 2015, lá loại B là 70 tấn, 9,3%, giảm 90,7 % so với năm
2005. Năm 2005, lá nón loại A chiếm 18,5%, nón loại B chiếm 81,5% tổng số lá
nón nhập về trong năm 2005.
Lá (đơn vị: Tấn)
Loại A
Loại B

2005
170

750

2010
360
320

2015
530
70
[2; Tr. 37]

Qua bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy:
- Năm 2010, lá nón loại A chiếm 52,9 %, lá nón loại B chiếm 47,1% tổng
số lá nón nhập về trong năm 2010. So với năm 2005, lá nón loại A tăng 34,4%,
lá nón loại B giảm 34,4%. Điều này cho thấy giai đoạn này xu hướng tiêu dùng
của người dân không còn chỉ đơn giản là phục vụ cho việc che nắng che mưa khi
làm đồng áng, mà còn nhiều những nhu cầu khác. Chất lượng chiếc nón cao cấp
hơn với nguyên liệu tuyển chọn giúp nón làng Chuông không ngừng nâng cao
và khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
- Năm 2015, nón loại A chiếm 88,3%, nón loại B chiếm 11,7% tổng số
nón nhập về trong năm 2015. So với năm 2005, lá nón loại A tăng 69,8 %, lá
nón loại B giảm 69,8%. Điều này cho thấy giai đoạn này, chiếc nón làng Chuông
không đơn giản là vật dụng thông thường nó đã trở thành biểu tượng của một
vùng đất, không ngừng nâng cao chất lượng, hướng chủ yếu đến chất lượng, cải
tiến mẫu mã, phục vụ đa dạng khách nội địa và khách quốc tế. Ở trong nước,
người dân với đời sống ngày càng nâng cao đòi hỏi những sản phẩm có độ bền,
đẹp, cao và nón làng Chuông cũng kịp thời nắm bắt nắm được thị hiếu và chú
trọng cải thiện nguồn nguyên liệu tốt, giúp hoàn thiện những chiếc nón có giá trị
cao.
15



* Các nguyên liệu khác
- Nguyên liệu mo: Mo được khai thác ở Hòa Bình, Phú Thọ, Yên Bái… Mo
được đóng thành bó khoảng 100 tàu. Cả làng hiện có khoảng 25 người buôn mo.
- Nguyên liệu cước: Cước được chuyển từ miền Nam ra. Trong làng có
khoảng 200 người bán loại nguyên liệu này tại chợ, đầu các xóm ngõ hoặc bán
tại nhà.
- Vòng nón và khuôn nón: Chủ yếu người các làng Canh Hoạch, Đông
Thư, Tràng Xuân làm và đem bán ở chợ làng Chuông hoặc bán trực tiếp cho
người làm nón tại nhà.
2.3.2 Quản lý dịch vụ tiêu thụ sản phẩm
Tổ chức sản xuất và tiêu thụ là hai khâu thiết yếu trong hoạt động của một
làng nghề. Cũng như các nghề thủ công khác, nghề làm nón ở làng
Chuông vẫn mang hình thức truyền thống của mô hình sản xuất hộ gia
đình tự sản tự tiêu. Các hộ gia đình sản xuất tại nhà và đưa ra chợ Chuông bán.
Thị trường tiêu thụ nón làng Chuông ở trong nước là các tỉnh miền núi phía Bắc
từ Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, xuống các tỉnh đồng bằng như Vĩnh
Phúc, Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội. Ngoài ra nón làng
Chuông xuất sang Trung Quốc, Úc, Hàn, Đức… Do thị trường tiêu thụ mở rộng,
một số người từ làng lân cận hoặc người làng Chuông chuyên thu gom để bán
cho thị trường nội địa và xuất khẩu.
Năm 2005, các tỉnh miền núi phía Bắc tiêu thụ 1000 cái nón, các tỉnh
đồng bằng phía Bắc tiêu thụ 1800 cái và thị trường nội địa và xuất khẩu là 600
cái. Năm 2010, các tỉnh miền núi phía Bắc tiêu thụ 1300 cái nón, các tỉnh đồng
bằng phía Bắc tiêu thụ 1100 cái và thị trường nội địa và xuất khẩu là 750 cái.
Năm 2010, các tỉnh miền núi phía Bắc tiêu thụ 1200 cái nón, các tỉnh đồng bằng
phía Bắc tiêu thụ 900 cái và thị trường nội địa và xuất khẩu là 1000 cái.

16



Thị trường
Các tỉnh miền núi phía Bắc
Các tỉnh đồng bằng phía Bắc
Thị trường khác( nội địa và

2005
1000
1800
600

2010
1300
1100
750

2015
1200
900
1000

xuất khẩu)
[2; Tr. 39]
Qua bảng số liệu trên, ta thấy: Năm 2010, các tỉnh miền núi phía Bắc tăng
30%, các tỉnh đồng bằng phía Bắc giảm 38,9% và thị trường nội địa và xuất
khẩu tăng 25% so với năm 2005. Một trong những nguyên nhân chính là do
CNH – HĐH với tốc độ đô thị nhanh khiến diện tích đất canh tác ở đồng bằng bị
thu hẹp, khiến công việc trên ruộng đồng cũng ít đi và chiếc nón cũng không
được các vùng đồng bằng tiêu thụ nhiều như trước. Bên cạnh đó, nón làng

Chuông với chất lượng và mẫu mã đa dạng cải tiến có sức hút mới mẻ với thị
trường xuất khẩu khiến cho sản lượng tiêu thụ cao hơn năm 2005.
- Năm 2015, các tỉnh miền núi phía Bắc tăng 20%, các tỉnh đồng bằng
phía Bắc giảm 50% và thị trường nội địa và xuất khẩu tăng 66,7% so với năm
2005. Chiếc nón với các chính sách hỗ trợ đẩy mạnh thị trường xuất khẩu đã
giúp nón làng Chuông ngày càng có vị thế và mở rộng thị trường mới. Song, sự
suy giảm lượng tiêu thụ lớn ở thị trường các tỉnh đồng bằng phía Bắc đặt ra yêu
cầu lớn cho nón làng Chuông với các biện pháp thiết thực hiệu quả giúp nón lá
truyền thống có chỗ đứng vững chắc, quay lại ổn định ở thị trường này.
2.4. Quản lý về các loại hình dịch vụ doanh thu
Làm nón tuy giá công không cao nhưng thu nhập đem lại cũng khá ổn
định. Đối với cuộc sống nông thôn, bên cạnh làm trồng trọt và chăn nuôi, làm
nón là nghề phụ tranh thủ tăng thu nhập lúc nông nhàn. Song, đối với nhiều gia
đình, làm nón lại là nguồn thu nhập chính. Bởi mỗi nhân khẩu làng Chuông hiện
nay chỉ được nhận 8 thước ruộng. không đủ tạo phần lượng thực cho mỗi gia
đình, trong khi họ cũng không có điều kiện làm nghề khác.

17


Năm
2010
2011
2012

Tổng giá trị năm ( tỉ đồng )
16,2 tỉ
14,5 tỉ
14,9 tỉ
[2; Tr. 36]


Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy tình hình sản xuất
kinh doanh của nón làng Chuông biến động và không ổn định như sau:
Năm 2010 nón làng Chuông đạt doanh thu là 16,2 tỉ đồng.
Năm 2011 doanh thu nón làng Chuông đạt giá trị 14,5 tỉ đồng, tương
đương 89,5%, giảm 10,5% so với năm 2010.
Năm 2012 doanh thu làng nghề đạt 14,9 tỉ đồng, tương đương 92%, giảm
8% so với năm 2010.
Năm 2010 nón làng Chuông đạt doanh thu làng nghề đạt 16,2 tỉ đồng.
Nguyên nhân được cho là do việc nón làng Chuông được Nhà nước cũng như
Thành phố tạo điều kiện cho công tác kinh doanh mà đặc biệt đó chính là hợp
đồng đặt hàng nón với số lượng lớn vào dịp kỉ niệm long trọng 1000 năm Thăng
Long của thành phố Hà Nội được kí kết năm 2009.
Đến năm 2011 doanh thu nón làng Chuông sụt giảm xuống đạt giá trị 14,5
tỉ đồng, tương đương 89,5% giảm 10,5% so với năm 2010. Thời gian này nón
làng Chuông hoạt động rất khó khăn, sau đã tích cực huy động tối đa nguồn lực
của mình để cung cấp nón cho Thành phố, nhu cầu của người dân và du khách vì
nguyên liệu khó khăn. Đặc biệt năm 2011 tình hình thời tiết rất xấu, không thuận
lợi để sản xuất nón cho nên sản lượng sụt giảm đáng kể kéo theo doanh thu từ
nón giảm đi trông thấy.
Sang năm 2012, nón làng Chuông quay đầu tăng trưởng trông thấy. Năm
2012 doanh thu làng nghề đạt 14,9 tỉ đồng, tương đương 92% giảm 8% so với
năm 2010. Cụ thể là 2012 là một năm khá thành công của nón làng Chuông khi
đã được nhà nước, các cấp chính quyền tạo điều kiện hỗ trợ việc quảng bá hình
ảnh thương hiệu ra nước ngoai thông qua những chuyến thăm cấp cao, các
chương trình giao lưu văn hóa, văn nghệ để thông qua đó cải thiện tình hình thị
18


trường kinh doanh cho nón làng Chuông. Mặt khác trong nước đã tổ chức nhiều

hội nghị bàn về phương hướng giải quyết tháo gỡ khó khăn cho các làng nghề
thủ công truyền thống, trong đó có nón làng Chuông, tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ
trực tiếp giữa người dân sản xuất của làng nghề với các lãnh đạo chính quyền để
ý kiến phối hợp tháo gỡ khó khăn về vốn và giải ngân vốn cho bà con. Một điều
nữa là thời tiết khá ủng hộ cho bà con làm nón, tạo điều kiện tốt cho quá trình
phơi hong nón nhanh chóng đạt chất lượng cao và không bị hỏng nhiều.
Năm
2013
2014
2015

Tổng giá trị năm ( tỉ đồng )
16,5 tỉ
14,2 tỉ
18,1 tỉ
[2; Tr. 36]

Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy tình hình sản xuất
kinh doanh của nón là làng Chuông giai đoạn 2013 – 2015 như sau:
- Năm 2013 doanh thu làng nghề là 16,5 tỉ đồng
- Năm 2014 nón làng Chuông có doanh thu đạt 14,2 tỉ đồng tương đương
86%, giảm 14% so với năm 2013
- Năm 2015 nón làng Chuông đạt 18,1 tỉ đồng tương đương 109,7%, tăng
9,7% so với năm 2013.
Năm 2013 doanh thu làng nghề là 16,5 tỉ đồng – một con số khả quan.
Nó đã đưa nón làng Chuông quay trở lại khu vực kinh doanh ổn định vè
có dấu hiệu có tiềm năng phát triển và hồi sinh trở lại sau giai đoạn 2010 – 2012
Bước sang năm 2014 nón làng Chuông bất ngờ suy giảm đi trông thấy
doanh thu của nón chỉ đạt 14,2 tỉ đồng, tương đương 86%, giảm 14% so với năm
2013. So với năm 2013, năm 2014 đã giảm 2,3 tỉ đồng doanh thu. Đây là một

con số rất đáng quan ngại cho nón làng Chuông. Việc suy giảm này diễn ra trong
đất nước có nhiều vấn đề, đặc biệt là nền kinh tế, đầu cầu kinh tế giảm sút kéo
theo tiêu dùng của người dân, trong khi lạm phát và CPI vẫn duy trì tương đối
ổn định.
Năm 2015 nón làng Chuông đạt 18,1 tỉ đồng tăng đột biến so với năm
2014, tương đương 109,7%, tăng 9,7% so với năm 2013. Đây thật sự là một con
19


số khả quan cho nón lá làng Chuông nói riêng và nghề làm nón nói chung. Đây
chính là kết quả của quá trình tích cực sản xuất kinh doanh cũng như là tự chủ
lao động của nón làng Chuông kết hợp với việc vào cuộc quyết liệt của các cơ
quan chính quyền địa phương. Với các chương trình quảng bá sâu rộng, với các
sản phẩm chất lượng đã tạo một bước đà để doanh thu nón bật lên. Trong năm
2015 có sự kiện ý nghĩa rất lớn đó là giá dầu trên thị trường sụt giảm và gần như
là chạm đáy đã làm cho giá xăng dầu trong nước kéo theo giảm giá, kết quả là
làm cho chi phí vận chuyển nguyên liệu cũng như là cung ứng ra thị trường rẻ
hơn làm cho giá cả nón giảm xuống, người dân tích cực mua hàng hơn.
Làng nghề thủ công có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương cũng như nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm
qua, sản phẩm thủ công của làng nghề Việt Nam đã xung cấp một khối lượng lớn,
thỏa mãn nhu cầu đa dạng cả trong và ngoài nước. Mặc dù đã và đang có những
đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, cũng như nhiều lợi ích kinh tế xã hội khác, song các làng nghề thủ công hiện
nay vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong sự phát triển. Để phát triển làng nghề,
các doanh nghiệp và hộ gia đình đơn lẻ không thể thực hiện hiệu quả được mà cần
có vai trò quản lý của nhà nước trong việc định hướng, hỗ trợ cho các làng nghề
thông qua công cụ chủ yếu là các chính sách. “ Đổi mới phối hợp và hỗ trợ của
Nhà nước và xã hội”. Cũng là một trong những nội dung quan trọng.
2.5. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý

2.5.1. Thuận lợi
- Chính sách hỗ trợ của nhà nước: Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách
về hỗ trợ phát triển ngành làm nón. Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, chính
sách của Nhà nước, Huyện ủy, UBND xã đã chỉ đạo các cấp, ngành xây dựng và
triển khai thực hiện các chinh sách hỗ trợ phát triển tại địa phương về ngành
nghề làm nón ở làng Chuông.
- Sản phẩm, thị trường tiêu thụ: Các sản phẩm khá đa dạng, phù hợp với
việc đáp ứng nhu cầu sử dụng trong và ngoài nước, đặc biệt phục vụ khách tham
quan du lịch. Các sản phẩm làng nghề có khả năng hướng đến xuất khẩu.
20


×