Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí với việc nâng cao đạo đức nghề báo ở nước ta hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.5 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG ANH TUẤN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
BÁO CHÍ VỚI VIỆC NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC
NGHỀ BÁO Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Đạo đức học
Mã số: 62 22 03 06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI V
IỆT NAM
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

Hướng dẫn 1: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà
Hướng dẫn 2: PGS.TS. Hoàng Anh

Phản biện 1: GS.TS. Trần Thành
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu
Phản biện 3: PGS.TS. Đặng Hữu Toàn


Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 201...

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá trong kho tàng lịch sử
tư tưởng của Việt Nam. Đó là tư tưởng của người anh hùng giải
phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất, vị lãnh tụ kính yêu, người
chiến sỹ lỗi lạc, người thầy vĩ đại của công cuộc giải phóng dân tộc
và phong trào cộng sản, cách mạng và công nhân quốc tế. Trong hệ
thống di sản tư tưởng vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta, có
tư tưởng về đạo đức và đạo đức báo chí cách mạng Việt Nam. Sự ra
đời của tờ báo Thanh Niên ngày 21/6/1925 do Hồ Chí Minh sáng lập
đã đánh dấu một dấu son trong lịch sử báo chí cách mạng, chính thức
khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam. Trong công cuộc đổi
mới, Báo chí nước ta đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh
thần của nhân dân; Việc nghiên cứu, làm sáng tỏ tính cách mạng, tính
khoa học cũng như giá trị nhân văn to nói chung và tư tưởng của Hồ
Chí Minh về đạo đức báo chí nói riêng là hết sức cần thiết.
Hiện nay, thực hiện Chỉ thị 05 - CT/TW của Bộ Chính trị về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh” còn có nhiều điểm hạn chế; chưa thực sự trở thành việc
làm thường xuyên; ý thức tự giác của không ít tổ chức Đảng, cơ

quan, đơn vị và một số bộ phận cán bộ, đảng viên chưa cao. Để phát
huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế trong việc
thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI (về việc “tiếp
tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đảng viên vừa có tài thực
hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa), cần thiết phải vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh vào từng lĩnh vực, trong đó có báo chí. Mỗi nhà báo cần
tự hoàn thiện mình; vượt lên trên những tính toán vụ lợi cá nhân;
cống hiến toàn tâm, toàn lực cho sự nghiệp báo chí cách mạng
Việt Nam nói riêng, cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói
chung; đóng góp vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Chỉ thị số 22 CT-TW của Bộ Chính trị khóa VIII ngày
17/10/1997 nêu rõ: trong những năm gần đây, một số bộ phận không
nhỏ trong đội ngũ những người làm báo đang vi phạm các chuẩn mực
1


đạo đức nghề nghiệp; xa rời tôn chỉ mục đích của báo chí cách mạng;
có khuynh hướng thương mại hóa; lợi dụng danh nghĩa nhà báo để
trục lợi; chạy theo thị hiếu tầm thường... Trước tình hình đó, chúng ta
cần thiết nghiên cứu đạo đức báo chí cả về phương diện lý luận và
thực tiễn, đặc biệt cần đi sâu nghiên cứu làm rõ những vấn đề như:
các quan điểm C.Mác, Ph.Ăngghen, VI.Lênin, Hồ Chí Minh, Đảng
Công sản Việt Nam về đạo đức báo chí nước ta; sự cần thiết việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức; thực trạng đạo đức báo chí
nước ta; những vấn đề bất cập, cấp bách trong công tác chỉ đạo, quản
lý và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó; những giải pháp nhằm
nâng cao đạo đức nghề báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

báo chí. Vì những lý do cơ bản nêu trên, tác giả luận án chọn đề tài
là: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí với việc nâng cao
đạo đức nghề báo ở nước ta hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức báo chí, khảo sát thực trạng đạo đức báo chí nước ta
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu nguyên nhân của thực
trạng đó; đề xuất những giải pháp căn bản nhằm nâng cao đạo đức
nghề báo theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí
vào quá trình xây dựng và hoàn thiện những quy định đạo đức nghề
báo Việt Nam, nhằm nâng cao đạo đức nghề báo ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên,
luận án thực hiện những nhiệm vụ như sau:
Thứ nhất, phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức báo chí.
Thứ hai, phân tích thực trạng đạo đức báo chí nước ta hiện nay
theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ ba, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề
cho đội ngũ nhà báo nước ta theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức báo chí.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức báo chí, thực trạng đạo đức báo chí ở đội ngũ
nhà báo nước ta hiện nay và nguyên nhân của của thực trạng đó,
những giải pháp nâng cao đạo đức nghề báo nước ta hiện nay.

2


3.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực thực trạng đạo

đức báo chí Việt Nam theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
phạm vi từ năm 2005 đến năm 2016. Đó là thời điểm Ðại hội lần thứ
VIII của Hội Nhà Báo Việt Nam (13/8/2005) quyết nghị thay “Quy
ước về đạo đức nghề nghiệp báo chí Việt Nam” bằng “Quy định đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam”, sửa đổi điều lệ và
chương trình hành động thực hiện quy định đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý
luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề đạo đức và đạo đức nghề báo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp
luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các
phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích, tổng hợp, so sánh, lôgíc - lịch
sử, thống kê và các phương pháp chung khác của khoa học xã hội.
5. Đóng góp mới về khoa học
Thứ nhất: Luận án khái quát và làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức báo chí, khái quát nội dung thành quy chuẩn, chuẩn
mực đạo đức nghề báo Việt Nam theo nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức báo chí.
Thứ hai: Luận án góp phần làm rõ thêm thực trạng đạo đức báo chí
nước ta hiện theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí.
Thứ ba: Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo
đức nghề báo ở nước ta hiện nay theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức báo chí.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Thứ nhất: Luận án cung cấp thêm tài liệu tham khảo giúp cho
những học viên, sinh viên, phóng viên, biên tập viên, những người
đang trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực báo chí và những ngành nghề
liên quan khác.

Thứ hai: Luận án góp phần nhằm nâng cao nhận thức cho các
nhà báo (trong đó có các phóng viên, biên tập viên…) về đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam hiện nay.
Thứ ba: Luận án góp phần cung cấp căn cứ lý luận và thực tiễn cho
việc hoạch định các cơ chế, chính sách, luật, quy chế, quy định, nguyên tắc
và chuẩn mực liên quan đến hoạt động báo chí nước ta hiện nay.
3


7. Cấu trúc của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu,
danh mục tài liệu tham khảo, danh mục viết tắt và phụ lục, nội dung
chính của Luận án được cấu trúc gồm 4 chương, 10 tiết.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình khoa học nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về đạo đức và đạo đức báo chí

1.1.1. Những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức
Phạm Văn Đồng (1990): “Hồ Chí Minh một con người, một
dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp” (Nxb Sự thật). Võ Nguyên
Giáp (1997):“Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt
Nam”(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội). Trần Văn Giàu (1997): “Sự
hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh” (Nxb Chính trị Quốc
gia). Hoàng Chí Bảo (2013): “Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh” (Nxb
Hà Nội). Mạnh Quang Thắng (2013): “Một số vấn đề về đạo đức Hồ
Chí Minh”, (Nxb Chính trị Quốc gia). Ban Tuyên giáo Trung ương
(2014): “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về
trung thực, trách nhiệm; gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng

Đảng trong sạch, vững mạnh” (Nxb Chính trị quốc gia).
1.1.2. Những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức báo chí
Tạ Ngọc Tấn (1995):“Hồ Chí Minh về vấn đề báo chí” (Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội). Hội Nhà báo Việt Nam (2008): “Người
làm báo Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” (Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia). Hoàng Đình Cúc, Chu
Đức Tính, Dương Xuân Ngọc (2010): “Di sản của Hồ Chí Minh
với sự nghiệp đào tạo cán bộ lý luận chính trị và truyền thông trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế” (Hội thảo khoa học quốc gia).
Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội (2015): “Bác Hồ với Báo chí Thủ
đô – Ánh sáng soi đường” (Nxb Hà Nội). Báo Nhân dân (2016):
“Những bài báo của Bác Hồ trên Báo Nhân dân”. (Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật).

4


1.2. Những công trình nghiên cứu thực trạng đạo đức báo
chí Việt Nam theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những giải pháp
nâng cao đạo đức nghề báo nƣớc ta
1.2.1. Những công trình nghiên cứu thực trạng đạo đức báo

chí Việt Nam theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo
chí
Tạ Ngọc Tấn, Đinh Thị Thúy Hằng (2009): “Cẩm nang đạo
đức báo chí” (Bộ Thông tin và Truyền thông). Đào Duy Quát, Đỗ
Quang Hưng, Vũ Duy Thông (2010): “Tổng quan lịch sử báo chí
cách mạng Việt Nam 1925 – 2010 (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội).
Nguyễn Thị Trường Giang (2011): “Đạo đức nghề nghiệp của nhà

báo” (Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội). Hoàng Đình Cúc (2013):
“Đạo đức nghề báo – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội). Trương Minh Tuấn (2014): “Nghề báo
và đạo đức” (Báo điện tử chính phủ, số tháng 6).
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao
đạo đức nghề báo nước ta trong thời gian qua
Hà Đăng (2002): “Nâng cao năng lực và phẩm chất của phóng
viên báo chí trong thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá của Nhà
báo” (Nxb Chính trị quốc gia). Tạ Ngọc Tấn (2009):“Nâng cao tính
chuyên nghiệp trong đào tạo nhà báo, Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo, quản lý báo chí – xuất bản theo tư tưởng Hồ Chí Minh”
(Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia). Hoàng Đình Cúc (2014): “Cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng hệ chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp báo chí ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện
nay” (Đề tài cấp Nhà nước). Trương Minh Tuấn(2016) “Nhận diện
nguy cơ “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong lĩnh vực báo chí và
một số giải pháp khắc phục” (Báo Nhân dân điện tử, tháng 6). Hội
Nhà báo Việt Nam (2016) “Xây dựng Quy định đạo đức nghề nghiệp
người làm báo Việt Nam” (Kỷ yếu Hội thảo khoa học).
1.3. Đánh giá chung những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về đạo đức và đạo đức báo chí nƣớc ta

1.3.1. Những vấn đề còn bỏ trống, ít được quan tâm nghiên cứu
Một là, vấn đề giáo dục đạo đức nghề báo. Đạo đức nói chung
và đạo đức nghề nghiệp nói riêng là khía cạnh cơ bản trong đời sống
xã hội. Vì những lý do khách quan nhất định, có những thời kỳ đạo
đức được đề cao và tôn vinh, nhưng cũng có thời kỳ đạo đức bị coi
5



nhẹ. Chính những lỗ hổng về giáo dục đạo đức truyền thống và đạo
đức nghề, là một nguyên nhân dẫn đến suy thoái đạo đức của một số
bộ phận phóng viên báo chí hiện nay. Điểm này cần được bổ sung và
phát triển thêm.
Hai là, vấn đề đạo đức người làm báo trong bối cảnh báo chí
truyền thông đa phương tiện, phát triển như hiện nay. Dù có nhiều
thành tựu đáng khích lệ nhưng báo chí cũng bộc lộ nhiều mặt trái
phức tạp, cần được nhận diện rõ, phê bình một cách thẳng thắn,
không được né tránh, cả nể, bao che những hành vi vi phạm đạo đức
nghề nghiệp. Cần xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm pháp
luật, vi phạm đạo đức nghề, điểm này vẫn chưa được nhìn nhận một
cách thấu đáo.
Ba là, trong môi trường báo chí hiện đại và năng động hiện
nay, bên cạnh những mặt tích cực cũng sinh ra những tiêu cực trong
nghề báo. Việc nâng cao đạo đức nghề báo theo nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh là một xu hướng xây dựng đạo đức nghề báo đang được
xã hội quan tâm. Vì vậy nghiên cứu và bổ sung thêm, thường xuyên
hơn những vấn đề trên là hướng nghiên cứu rất có ý nghĩa cả về lý
luận và thực tiễn.
1.3.2. Những vấn tiếp tục cần nghiên cứu và phát triển thêm
Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nói chung và đạo
đức báo chí nói riêng là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
và đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, nhiều công
trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí đã được
thực hiện và phổ biến rộng rãi. Tác giả luận án sẽ nghiên cứu góp
phần làm rõ thêm nội dung, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí đối với sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước; góp phần làm rõ thêm những nội dung tư
tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí.
Hai là, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí có ý nghĩa

rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhiều công trình
nghiên cứu đã góp phần làm rõ thêm thực trạng đạo đức báo chí nước
ta hiện nay. Tuy nhiên có công trình hiện có chưa làm rõ đầy đủ về
thực trạng như cán bộ làm trên lĩnh vực báo chí, truyền thông có biểu
hiện suy thoái, tha hóa về lỗi sống, đạo đức nghề nghiệp, vì thế, tác
giả luận án sẽ tiếp tục phân tích sâu hơn, cụ thể hơn về thực trạng suy
giảm đạo đức báo chí. Đó là chỗ trống để tác giả luận án sẽ tiếp tục
6


nghiên cứu và phát triển đề xuất thêm một số giải pháp mới và luận
chứng sâu sắc thêm sự cần thiết của các giải pháp ấy.
Ba là, việc lấy tư tưởng, phong cách báo chí Hồ Chí Minh soi
rọi vào thực tiễn báo chí cách mạng, những di sản tư tưởng báo chí
cách mạng của Người sẽ tiếp tục là “kim chỉ nam” dẫn đường cho
báo chí cách mạng và những người làm báo cần tiếp tục đóng góp có
hiệu quả vào con đường sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
CHƢƠNG 2
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
2.1. Khái niệm đạo đức báo chí
Đạo đức: Tư tưởng đạo đức đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước
đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Ở phương
Đông, các học thuyết về đạo đức của Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ
cách hiểu về đạo và đức. Như vậy, đạo đức trong triết học Trung
Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, nguyên tắc do cuộc sống đặt ra
mà mỗi người phải tuân theo; đạo đức có nghĩ a là “đạo làm
người ”. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng. Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, chịu tác động qua lại các hình thức xã hội khác và chịu
sự quy định của tồn tại xã hội. Đạo đức có bản chất xã hội. Đạo đức

có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống của con người; là
sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội, các yếu tố khách quan trong
hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người.
Nghề nghiệp: là loại hình lao động đặc biệt của con người
đòi hỏi phải sử dụng những tri thức chung và tri thức chuyên
ngành cho phù hợp với những kỹ năng và thói quen của hoạt động
thực tiễn. Trong đó, nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động
trong đó, nhờ được đào tạo, con người được những tri thức, những
kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó,
đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Đạo đức nghề nghiệp: là một bộ phận của đạo đức xã hội, là
đạo đức trong một lĩnh vực cụ thể của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp là
một yếu tố quan trọng để phát triển sự nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp
thể hiện trong cuộc sống hàng ngày. Đạo đức nghề nghiệp là bao
gồm những quy tắc và chuẩn mực trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất
7


định, nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên làm viêc trong một
nghề nghiệp cụ thể đó sao cho phù hợp với sự tiến bộ của xã hội.
Báo chí: là một lĩnh vực của đời sống xã hội, hoạt động báo chí
cũng là một lĩnh vực của hoạt động thực tiễn. Xã hội càng phát triển
thì vai trò của báo chí càng lớn, yêu cầu đối với báo chí càng cao.
Báo chí là một trong những loại hình truyền thông đại chúng đặc biệt,
do vậy, hoạt động báo chí cũng có tính chất chất của hoạt động
truyền thông nói chung.
Nhà báo: là người làm việc ở một cơ quan báo chí cụ thể, đảm
trách một chức danh cụ thể trong cơ quan báo chí, coi báo chí là nghề
nghiệp, là sự nghiệp của cả đời mình. Nhưng nghề báo lại tác động
thường xuyên và mạnh mẽ tới tư tưởng, tình cảm, đạo đức của con

người và của xã hội.
Nghề báo: là một loại hình lao động đặc biệt, đòi hỏi kỹ năng
chuyên môn, định hình trong điều kiện xã hội có sự phân công lao
động. Như mọi nghề khác, nghề báo có thiên chức, đạo đức nghề
nghiệp và sức cuốn hút riêng của nó.
Tóm lại, từ cách hiểu như trên về các khái niệm đạo đức, nghề
nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, báo chí, nhà báo, nghề báo, tác giả luận
án cho rằng: đạo đức báo chí (đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, đạo
đức nghề báo, đạo đức nhà báo, đạo đức nghề nghiệp của người làm
báo) là những nguyên tắc, những chuẩn mực được hình thành trong
các mối quan hệ ứng xử nghề nghiệp của nhà báo.
2.2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
báo chí

2.2.1. Điều kiện hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
báo chí
Một là, điều kiện lịch sử, gia đình, xã hội và thời đại. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do
yêu cầu khách quan, đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng
Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Hai là, tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam. Dân tộc
Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo
lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với
những truyền thống tốt đẹp và cao quý, đó là chủ nghĩa yêu nước.
Ba là, tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hồ Chí Minh xuất thân
trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ đã được hấp thụ một nền Quốc học
8


và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài, Người có thể viết văn

Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo phương Tây, nhưng khi có
nhu cầu “tự bạch” thì Người làm thơ bằng chữ Hán. Trong các tinh
hoa văn hóa của nhân loại ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh đáng chú ý
có bốn tư tưởng sau:
- Tư tưởng Nho giáo của phương Đông. Nho giáo có những
yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng Nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích
cực, có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử nước ta.
- Tư tưởng Phật giáo của phương Đông. Phật giáo là một trong
những tôn giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm. Những mặt tích cực
của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động,
cách ứng xử của người Việt Nam.
- Tư tưởng văn hóa phương Tây. Ngay từ khi còn học ở
Trường tiểu học Đông Ba rồi vào Trường Quốc học Huế, Hồ Chí
Minh đã làm quen và tiếp thu với văn hóa Phương tây.
Bốn là, tư tưởng đạo đức mác xít. Theo quan điểm triết học
mácxit, như đã nói ở trên, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh tồn tại xã hội. Đạo đức (cũng như các quan điểm triết học,
chính trị, nghệ thuật hay tôn giáo) thuộc kiến trúc thượng tầng và phụ
thuộc cơ sở kinh tế.
2.2.2. Giai đoạn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức báo chí
- Thời kỳ đầu tiên, từ năm 1911 đến năm 1930: Trong thời kỳ
này, hoạt động báo chí của Người tập trung vào chủ đề là tố cáo, lên
án sự thối nát bất công của chủ nghĩa thực dân và chế độ thống trị
của chúng đối với các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Người
chủ trương xuất bản báo Thanh niên, ra số 1 ngày 21-6-1925.
- Thời kỳ thứ hai, từ năm 1930 đến 1945: Đây là thời kỳ Đảng
Cộng sản Việt Nam dưới sự tổ chức và chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc
trực tiếp tổ chức vận động cách mạng trong nước, giương cao ngọn
cờ cách mạng vô sản, lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh,

giành độc lập, tự do và chủ quyền đất nước.
- Thời kỳ thứ ba, từ năm 1945 đến 1954: Đây là thời kỳ mà
hoạt động báo chí của Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc kháng chiến
trường kỳ và thần thánh của dân tộc ta chống thực dân Pháp từ 1946 1954. Trong thời kỳ này, tác phẩm của Người nhiều về số lượng, đa
dạng về thể loại.
9


- Thời kỳ thứ tư, từ năm 1954 đến năm 1969: Đây là thời kỳ
đất nước ta có nhiều thử thách lớn. Giai đoạn này, ở miền Bắc, báo
chí cách mạng đã có những bước phát triển. Hoạt động báo chí ở
vùng giải phóng mang những đặc điểm riêng, công tác tư tưởng văn hóa hoạt động tuyên truyền của báo chí được đặc biệt coi trọng.
2.3. Quy chuẩn đạo đức nhà báo Việt Nam theo tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh
2.3.1. Nhà báo Việt Nam phải là người có đạo đức cách mạng
Chuẩn mực đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh là chuẩn
mực quan trọng nhất. Chuẩn mực đó bao gồm các nội dung sau.
Một là, trung với Nước hiếu với Dân. Trung và hiếu là hai phẩm
chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
Trung với nước hiếu với dân có nghĩa là gắn bó với dân, gần dân, dựa
vào dân, lấy dân làm gốc.
Hai là, yêu thương con người. Yêu thương con người là phẩm
chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh coi
yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Ba là, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư là các nguyên tắc ứng xử gắn liền với hoạt
động hàng ngày. Để giáo dục đạo đức cho cán bộ và nhân dân ta, ngay
từ năm 1927, tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
tiêu chuẩn đầu tiên trong tư cách một người kách mệnh là cần kiệm.

2.3.2. Nhà báo Việt Nam phải trung thành với sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Một là, người làm báo phải quan tâm và bảo vệ lợi ích dân
tộc, lợi ích quốc gia, lợi ích của đa số nhân dân. Hồ Chí Minh quan
niệm rằng đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng,
nên nhà báo phải có đạo đức cách mạng. Đó là phẩm chất quan trọng
hàng đầu của các cán bộ cách mạng nói chung và của các nhà báo
cách mạng nói riêng. Hồ Chí Minh viết: “Đối với những người viết
báo chúng ta, cây bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng
để động viên quần chúng đoàn kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực
dân ...”[114, tr. 23].1
1

Tạ Ngọc Tấn (1995), Hồ Chí Minh về vấn đề báo chí, Nxb.Văn hóa thông tin, Hà Nội.

10


Hai là, nhà báo phải lấy nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn
dân làm nhiệm vụ chính của báo chí. Phẩm chất đạo đức của người
làm báo là sự tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của
Đảng, chiến đấu cho sự thắng lợi của chân lý cách mạng, hết lòng
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, hoạt động
báo chí là hoạt động chính trị xã hội, nhiệm vụ của báo chí là phục vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân...
Ba là, nhà báo phải gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn
nghĩa vụ công dân, làm tốt trách nhiệm xã hội. Người làm báo được
Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn quan tâm, giúp đỡ, tạo hành lang
pháp lý để hành nghề một cách có hiệu quả nhất.
Bốn là, nhà báo phải sống lành mạnh, trong sáng, không được

lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật. Nhà báo phải
sống lành mạnh, văn minh, khát khao học hỏi, nâng cao trình độ, kỹ
năng nghề nghiệp. Người làm báo phải gương mẫu chấp hành pháp
luật, làm tròn nghĩa vụ công dân, làm tốt trách nhiệm xã hội
Năm là, nhà báo phải tôn trọng nhau, không nên chèn ép gây
khó cho đồng nghiệp, tránh các hành vi bạo lực, tránh quấy rối
đồng nghiệp. Nhà báo cần phải giúp đỡ nhau trong hoạt động
nghiệp vụ; không lợi ích cục bộ của cơ quan báo chí của mình mà
cản trở hoạt động tác nghiệp của đồng nghiệp khác.
2.3.3. Nhà báo Việt Nam phải trung thực với nguồn tin, tôn
trọng sự thật và khách quan
Một là, nhà báo phải tôn trọng sự thật. Hồ Chí Minh đòi hỏi
các nhà báo trong mọi trường hợp khen cũng như chê đều với động
cơ trong sáng, khách quan tôn trọng sự thật; không thể viết báo vì
mục đích vụ lợi, cá nhân, ích kỷ.
Hai là, nhà báo phải khách quan trước những sự vật, hiện
tượng mà nhà báo muốn phản ánh. Qua các tác phẩm báo chí của
mình, nhà báo phải làm cho độc giả hiểu đúng, hiểu đầy đủ về những
vấn đề mình viết.
Ba là, nhà báo phải trung thực trong công việc. Nhà báo phải
phản ánh đúng những ý kiến xây dựng của nhân dân; nói lên tâm tư,
nguyện vọng, kiến nghị của dân đối với công cuộc xây dựng đất
nước, đặc biệt tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống
cách mạng của nhân dân ta.

11


2.3.4. Nhà báo Việt Nam phải khiêm tốn, cầu tiến bộ và nêu
cao tinh thần học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, chuyên

môn nghiệp vụ
Trong di sản tư tưởng của Người, tư tưởng về báo chí là di sản
vô giá đối với nền báo chí cách mạng Việt Nam. Người thường nói,
nói đến báo chí trước hết phải nói đến những người làm báo chí, Làm
báo thì chính trị phải đi đầu. Chính trị đúng thì đường lối mới đúng.
Đây cũng là một chuẩn mực quan trọng của đạo đức báo chí theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chuẩn mực này thể hiện ở 3 nội dung sau:
Một là, nhà báo phải có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn.
Nhà báo không có trình độ nghiệp vụ vững vàng, không có chuyên
môn vững vàng thì không thể hoàn thành nhiệm vu của mình. Người
nói: “Một người phải biết học nhiều người. Hơn nữa, cần phải làm
cho món ăn tinh thần được phong phú…”
Hai là, nhà báo phải coi học tập là nhiệm vụ thường xuyên,
suốt đời. Hồ Chí Minh luôn kêu gọi mọi người thi đua học tập, coi
học tập là nhiệm vụ thường xuyên, suốt đời, “còn sống thì còn phải
học”. Theo Người: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để
phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc
và nhân loại ” [64, tr.161,162]1;
Ba là, người làm báo phải biết tự phê bình. Tự phê bình và phê
bình là một trong những quy luật phát triển của Đảng và là nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt Đảng. Theo Người, tự phê bình và phê bình có vai trò
đặc biệt quan trọng; là vũ khí cần thiết và sắc bén, giúp mọi người sửa
sai, phát huy ưu điểm.
2.3.5. Nhà báo Viêt Nam phải bảo tồn, giữ gìn và phát huy
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là
khách thể tiếp nhận văn hoá. Điều này sẽ tác động không nhỏ đến
quan niệm, lối sống, văn hoá, đạo đức. Chuẩn mực này gồm các nội
dung chính như sau:
Một là, nhà báo phải giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc Việt Nam. Nhà báo phải tôn trọng tập quán, truyền thống của các
cộng đồng; không đưa những thông tin xúc phạm các phong tục, tập
quán, truyền thống tốt đẹp của các cộng đồng địa phương.
1

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12


Hai là, nhà báo phải bảo vệ, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, việc bảo vệ, gìn giữ bản sắc văn hóa
dân tộc là cần thiết, là việc phải làm, nên làm, nhưng quan trọng hơn
lại là việc biết vận dụng và phát triển bản sắc ấy vào cuộc sống. Đó
chính là cách tốt nhất để bảo vệ và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Ba là, nhà báo phải gìn giữ, kế thừa bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam. Trong những giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc, Hồ
Chí Minh đã kế thừa tinh thần cộng đồng, lối sống thành thực, thân ái
của nhân loại.
Tiểu kết Chƣơng 2
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí với 5 chuẩn mực
nói trên, mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc; có ý nghĩa quan
trọng trong việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, người làm báo chân chính phải chuyên
nghiệp trong cách hành nghề, trung thực, khách quan và tôn trọng sự
thật. Hồ Chí Minh coi trung thực là một tiêu chuẩn đạo đức rất quan
trọng trong hoạt động nghề nghiệp báo chí.
Những nội dung tư tưởng về đạo đức nói chung và đạo đức báo
chí nói riêng của Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng Hồ
Chí Minh đạo đức báo chí có ý nghĩa rất lớn đối với việc giáo dục

đạo đức nghề cho đội ngũ những người làm báo hiện nay. Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức của Người là nhiệm vụ rất quan trọng và
cấp thiết hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay, các nhà báo phải nhận
thức đầy đủ hơn nữa về tư tưởng của Người, đồng thời phải vận dụng
tư tưởng đó vào hoạt động nghiệp vụ của mình. Đến nay, quan điểm
của Hồ Chí Minh về chức năng, nhiệm vụ, tính chất của báo chí cách
mạng; về vai trò, nghĩa vụ, đạo đức của người làm báo; về nghệ thuật
trong “cách viết” để làm nên một tác phẩm báo chí và tờ báo có giá
trị luôn vẹn nguyên giá trị.

13


CHƢƠNG 3
ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ VIỆT NAM HIỆN NAY THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. Thực trạng đạo đức báo chí Việt Nam hiện nay
Nói đến thực trạng các nhà báo vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức báo chí có nghĩa là nói đến thực trạng đạo đức báo
chí của các nhà báo Việt Nam theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức báo chí. Thực trạng này có thành tựu và hạn chế sau:
3.1.1. Những thành tựu đạt được
Một là, hầu hết nhà báo tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của
đất nước. Trải qua hơn 90 năm hình thành và phát triển của báo chí Cách
mạng Việt Nam, kể từ ngày Hồ Chí Minh sáng lập tờ báo Thanh niên
(21/6/1925), đặc biệt sau 10 năm thực hiện quy định về đạo đức
nghề, báo chí cách mạng nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hầu hết
các nhà báo đều trung thành với lý tưởng của Đảng; kiên định vững
vàng trong mọi biến động của lịch sử; có những đóng góp quan trọng
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, hầu hết nhà báo gắn bó với dân, vì dân, hết lòng phục vụ
nhân dân. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như hội
nhập quốc tế hiện nay, hầu hết người làm báo coi trọng ý thức công
dân, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Họ giữ vai trò chủ
động trong thông tin; thực sự là ngọn cờ của Đảng, tiếng nói của
Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Hầu
hết các nhà báo ngày càng làm tốt chức năng diễn đàn của nhân dân.
Ba là, hầu hết nhà báo hành nghề trung thực, khách quan, tôn
trọng sự thật. Hầu hết nhà báo đều tâm huyết, yêu nghề, tôn trọng sự
thật, không lợi dụng nghề nghiệp để làm trái pháp luật. Nhiều nhà
báo dũng cảm, trong đấu tranh chống các tiêu cực xã hội; nêu cao
trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân trong báo chí.
Bốn là, hầu hết nhà báo có ý thức thường xuyên học tập, nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, gương mẫu, làm tốt trách nhiệm
xã hội. Hầu hết nhà bào thường xuyên học tập, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, trách nhiệm xã hội, phát huy truyền
thống của dân tộc. Hầu hết các nhà báo đã góp phần tích cực mở
mang dân trí; nâng cao trình độ văn hóa; thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ

14


văn hóa, giải trí của người dân; bảo vệ, phục hồi và quảng bá bản sắc
văn hóa nước nhà.
3.1.2. Những mặt hạn chế tồn tại
Một là, một số nhà báo thiếu trung thực, lợi dụng nghề làm
trái pháp luật, đi ngược lại sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Khuyết điểm trên là lớn nhất, kéo dài nhất đó là nhiều thông tin sai
của nhà báo đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, lợi ích của
nhân dân và dư luận. Trong những thông tin sai sự thật bị cơ quan

quản lý báo chí xử lý, nổi lên là những thông tin xâm phạm bí mật
đời tư, xúc phạm danh dự, nhân phẩm và cả lợi ích quốc gia.
Hai là, một số nhà báo thiếu tính nhân văn, thiếu nhạy cảm
chính trị, thiếu trách nhiệm, đưa tin giật gân, không hợp với thuần
phong mỹ tục. Một số nhà báo tiết lộ thông tin bí mật quốc gia, vi phạm
Pháp lệnh về Bảo vệ bí mật Nhà nước. Không ít nhà báo phản ánh
thiên lệch xã hội, nhìn xã hội toàn một màu đen. Nhiều nhà báo nhìn
xã hội một cách hằn học, thiếu tính xây dựng; cổ vũ cho thị hiếu
không lành mạnh.
Ba là, một số nhà báo vi phạm trong định hướng tuyên truyền,
lợi dụng quyền hạn làm trái pháp luật và lương tâm đạo đức nghề
nghiệp. Điều này không những chỉ gây trở ngại cho các biên tập
viên mà còn là biểu hiện của sự thiếu trách nhiệm đối với nghề
nghiệp. Thậm chí còn là sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp nếu như
cả tác giả và những người có trách nhiệm trong toà soạn để lọt
những chi tiết sai, những lý giải, bình luận vi phạm đến lợi ích, sử
dụng ngôn từ gây hiểu lầm cho công chúng.
Bốn là, một số nhà báo có biểu hiện xa rời đường lối của
Đảng, thiếu nhạy bén chính trị và lợi dụng quyền tự do báo chí vi
phạm đạo đức nghề. Xu hướng này biểu hiện ở một số bộ phận
phóng viên, biên tập viên và cả lãnh đạo cơ quan báo chí. Hậu quả
nguy hiểm của xu hướng này là tạo ra các tác phẩm báo chí khiến
người đọc thấy nhàm chán.
Năm là, một số nhà báo xa rời tôn chỉ mục đích nghề nghiệp,
đi ngược lại quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo. Một
số bộ phận nhà báo xa rời ''9 Quy định đạo đức nghề nghiệp báo chí'',
gây tác hại đến uy tín báo chí. Khuynh hướng xa rời tôn chỉ, mục
đích, đối tượng phục vụ chưa được khắc phục. Do đó, mỗi nhà báo
thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, học
15



tập những quan điểm, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là thiết thực
góp phần trau dồi bản lĩnh chính trị.
3.2. Nguyên nhân của thực trạng đạo đức báo chí Việt Nam
3.2.1. Nguyên nhân của những thành tựu
Phần lớn nhà báo ở nước ta hiện nay là những người có phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp; họ đã vận dụng tốt tư tưởng của Hồ Chí
Minh về đạo đức báo chí để rèn luyện phẩm chất đạo đức. Điều này có
nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân sau:
Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước. Báo chí nước ta đã thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh của mình,
góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới đất nước; góp phần giúp
Đảng và Nhà nước có những chỉ đạo phù hợp, kịp thời, bảo đảm sự
phát triển bền vững của đất nước.
Hai là, nền báo chí cách mạng Việt Nam có truyền thống nhân
văn. Truyền thống đó là niềm tự hào lớn lao, là tài sản vô giá để lớp
lớp thế hệ nhà báo tâm niệm, học tập và phát huy; truyền thống đạo
đức lâu đời của dân tộc Việt Nam đã hun đúc và nuôi dưỡng đạo đức
cho những con người Việt Nam nói chung và nhà báo Việt Nam.
Ba là, ý thức tu dưỡng, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ tốt và
chuyên cần của đội ngũ những người làm báo. Phần lớn nhà báo Việt
Nam đều ý thức được trách nhiệm xã hội, sứ mệnh cao cả của mình
nên luôn có ý thức tu dưỡng, rèn luyện kỹ năng và đạo đức nghề
nghiệp, có kiến thức về các lĩnh vực, nhất là kiến thức về kinh tế, văn
hóa, pháp luật, khoa học, giao tiếp tốt ngoại ngữ trong tác nghiệp.
Bốn là, xã hội luôn tôn vinh nghề nghiệp báo chí và người làm
báo. Xã hội ta luôn tôn vinh báo chí và người làm báo. Điều này tạo
điều kiện thuận lợi cho nhà báo hiểu và ý thức được sứ mệnh, trách
nhiệm xã hội, trách nhiệm đạo đức của mình. Ngày 21/6 hàng năm là

ngày xã hội tôn vinh nhà báo.
Năm là, điều kiện thuận lợi mở cửa hội nhập và phát triển
kinh tế. Điều kiện thuận lợi kinh tế ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
chung của báo chí. Nhờ đổi mới Việt Nam được xếp vào một trong
những quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh trong khu vực, là nơi hội
tụ và thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư; đời sống người dân được cải
thiện cả về tinh thần và vật chất.
Sáu là, thành tựu hơn 30 năm Việt Nam đổi mới và phát triển
đất nước. Kể từ năm 1986 đến nay, đổi mới ở nước ta diễn ra trong
16


bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn lao, hầu như tất cả các nước
đều có sự điều chỉnh chính sách của mình. Thành tựu của 30 năm Đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng có đóng góp của báo chí, đó là sự
thật không thể phủ nhận.
3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
Một là, do sự tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế. Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ CNH, HĐH, chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế trong bối cảnh thế giới đầy biến
động, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Tuy nhiên, toàn cầu hoá luôn
có hai mặt của nó. Mặt trái đó là nguyên nhân làm suy thoái đạo đức
nghề nghiệp của một số nhà báo.
Hai là, do sự tác động từ mặt trái của việc sử dụng khoa học,
kỹ thuật, công nghệ thông tin tiên tiến và hiện đại. Trong những thập
kỷ gần đây, trước sự phát triển nhảy vọt của truyền thông, khoa học
kỹ thuật là một trong những hiện tượng gây tác động mạnh mẽ đến
đời sống xã hội, làm thay đổi cả bản chất của xã hội.
Ba là, do cơ chế về hoạt động báo chí ở nước ta chưa phù hợp.
Thực tế hiện nay, một số cơ quan báo chí của Đảng và Nhà nước

được ngân sách nhà nước bao cấp về trụ sở, phương tiện làm việc và
toàn bộ hoặc một phần kinh phí, hoạt động nhưng phần lớn các cơ
quan báo chí là tự lo thu chi.
Bốn là, do công tác quản lý báo chí còn nhiều hạn chế và yếu
kém. Một số cơ quan chức năng không chủ động, kịp thời cung cấp
thông tin cho báo chí. Sự quản lý báo chí chưa chặt chẽ; hành lang
pháp lý còn nhiều kẽ hở. Phương thức, năng lực lãnh đạo, quản lý
của Ðảng và Nhà nước đối với báo chí chậm đổi mới, bất cập.
Năm là, do tình trạng coi nhẹ việc tự giáo dục đạo đức nghề ở
một số đội ngũ nhà báo. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến biểu
hiện tiêu cực, suy giảm về đạo đức của nhà báo. Chính những yếu
kém trong quá trình tự rèn luyện tự trau dồi đạo đức là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến những biểu hiện suy thoái đạo đức nhà báo.
Sáu là, do nguy cơ “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong báo chí.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã
thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”;
trong hệ thống báo chí là hiện tượng nguy hiểm.

17


Tiểu kết Chƣơng 3
Thành tựu của 30 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng có
đóng góp quan trọng của báo chí, đó là sự thật không thể phủ nhận.
Và cũng trong 30 năm Đổi mới, hơn 90 năm báo chí cách mạng Việt
Nam đã có bước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, báo chí cách
mạng về cơ bản đã vận dụng và thực hiện tốt những lời dạy của Hồ
Chí Minh, báo chí nước ta có đóng góp không nhỏ vào sự ổn định,
phát triển bền vững của đất nước.

Thực trạng đạo đức nghề báo nước ta hiện nay đang đặt ra
nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Tình hình này cho thấy sự tha hóa,
suy thoái về đạo đức nghề nghiệp trong một bộ phận những người
làm báo Việt Nam đã đến mức báo động, gây ảnh hưởng xấu đến vai
trò, uy tín của báo chí đối với xã hội, làm suy giảm niềm tin của công
chúng đối với báo chí, làm tổn hại đến lợi ích của đất nước và cộng
đồng, làm mai một hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Đạo
đức báo chí đang trở thành một vấn đề nóng được dư luận xã hội
quan tâm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái đạo đức của
một số nhà báo, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính vì vậy để
khắc phục tình trạng suy thoái đạo đức của người làm báo, cần phải
nhận thức đúng nguyên nhân chính gây ra tình trạng đó.

18


CHƢƠNG 4
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
4.1. Nhóm giải pháp liên quan đến các cơ quan báo chí và
cơ quan quản lý báo chí Việt Nam
Để nâng cao phẩm chất và năng lực của tổ chức, cá nhân trong
công tác quản lý báo chí trong tình hình mới, cần xác định và thực
hiện tốt một số giải pháp sau:
4.1.1. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu xây dựng
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, đặc biệt đối với công
tác thanh tra, kiểm tra,quản lý báo chí
Một là, bảo đảm bảo nguyên tắc báo chí phải đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, phù hợp với xu thế phát
triển chung của xã hội. Các cấp ủy đảng, lãnh đạo các cơ quan báo

chí cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc hơn nữa nguyên tắc chỉ đạo có ý
nghĩa sống còn đối với hoạt động báo chí.
Hai là, cần phải nâng cao năng lực của cơ quan quản lý
chuyên ngành báo chí ở Trung ương và địa phương. Đầu tư trang
thiết bị kỹ thuật hiện đại và điều kiện làm việc bảo đảm thực thi công
tác quản lý nhà nước đạt hiệu quả. Cần tăng cường công tác chỉ đạo,
định hướng, xử lý kịp thời các sai phạm, vi phạm của báo chí.
Ba là, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, thường
xuyên của ban cán sự đảng, đoàn, lãnh đạo cơ quan chủ quản với hoạt
động cơ quan báo chí. Coi trọng xây dựng tổ chức đảng trong cơ quan
báo chí vững mạnh về mọi mặt, đề cao vai trò, trách nhiệm đảng viên,
nhất là người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí, Đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí.
Bốn là, Đảng phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo báo
chí, coi đó là nguyên tắc hàng đầu và bất di bất dịch. Các cơ quan
Đảng và nhà nước cần bám sát thực tiễn; bảo đảm cho báo chí hoạt
động đúng định hướng. Đảng, Nhà nước phải tiếp tục đổi mới, nâng
cao bản lĩnh trí tuệ, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện quan điểm, đường lối,
phương thức lãnh đạo sát với tình hình thực tế trong nước và thế giới.
Năn là, Nhà nước cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật đối với hoạt động báo chí. Tập trung tổ chức thực hiện xây dựng
19


và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và phát triển sự
nghiệp báo chí; xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật về báo chí.
4.1.2. Nhà nước cần hỗ trợ và tạo cơ chế đặc biệt, tập trung
quản lý, đầu tư cho cơ quan báo chí và đào tạo, bồi dưỡng cho đội

ngũ người làm báo
Một là, cơ quan báo chí cần được cơ quan chủ quản báo chí
cấp vốn, hỗ trợ kinh phí hoạt động. Ngoài các chế độ ưu đãi về thuế,
ưu đãi về phí đối với hoạt động xuất bản, phát hành báo chí, báo chí
đối ngoại và khoa học kỹ thuật được Nhà nước xem xét để tài trợ, hỗ
trợ hàng năm cho các cơ quan báo chí.
Hai là, Nhà nước cần tạo điều kiện cho báo chí phục vụ nhiệm
vụ chính trị, đầu tư cho cơ quan báo chí chính thống. Khuyến khích
các cơ quan báo chí huy động nguồn lực phát triển. Nhà nước cần tập
trung quản lý, đầu tư cho cơ quan báo chí chính thống như: Thông
tấn xã Việt Nam, Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng
nói Việt Nam, Đài, báo Thủ đô và cơ quan báo đài tỉnh thành phố.
Ba là, Nhà nước cần phải xây dựng khung pháp lý phù hợp,
tạo cơ chế, chính sách tài chính, khuyến khích cho các cơ quan báo
chí và nhà báo. Cấp có thẩm quyền cần tập trung rà soát, xem xét, rút
giấy phép hoạt động đối với các cơ quan báo chí. Tăng cường lực
lượng thanh tra chuyên ngành báo chí; nâng cao năng lực của cơ
quan quản lý chuyên ngành báo chí ở Trung ương và địa phương.
Bốn là, Nhà nước cần phải tạo điều kiện, môi trường tốt để
nhà báo hành nghề, trong đó có việc họ được pháp luật bảo vệ. Xây
dựng đội ngũ phóng viên đông đảo, có uy tín. Các cơ quan quản lý
báo chí cần tạo điều kiện để người làm báo có điều kiện tác nghiệp,
hành nghề thuận lợi hơn. Thường xuyên quan tâm các hoạt động
công tác sinh hoạt nghiệp vụ, chú trọng công tác giáo dục nâng cao
phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các nhà báo.
Năm là, các cơ sở giáo dục cần phải thường xuyên nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho nhà báo, coi trọng công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng trong các sinh viên trường đại học, cao đẳng
báo chí. Cần phải coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
trong các sinh viên trường đại học, cao đẳng báo chí. Cần tăng cường

giáo dục cho sinh viên báo chí về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng.
20


4.1.3. Tăng cường vai trò Hội Nhà báo Việt Nam đối với đội
ngũ người làm báo, đặc biệt trong công tác quản lý báo chí, đào
tạo và bồi dưỡng.
Một là, vai trò của Hội Nhà báo Việt Nam cần phải được phát
huy. Đặc biệt, Hội Nhà báo Việt Nam phải luôn chú trọng việc giáo
dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức đi đôi với bồi dưỡng, nâng cao
trình độ nghiệp vụ cho hội viên.
Hai là, tăng cường xây dựng tổ chức hội nhà báo để mỗi hội
viên nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ. Hội Nhà báo Việt Nam và các
địa phương cần xác định phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm là: tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Ba là, Hội Nhà báo Việt Nam cần thường xuyên chủ động tham
gia công tác chỉ đạo, quản lý báo chí; tích cực đóng góp xây dựng và
hoàn thiện cơ chế, chính sách, văn bản pháp quy về báo chí; Hội
quan tâm bồi dưỡng phẩm chất chính trị cho hội viên. Hội Nhà báo
Việt Nam cần thường xuyên quan tâm chăm lo nâng cao chất lượng
hoạt động nghiệp vụ.
Bốn là, Hội Nhà báo cần phải hướng dẫn thực hiện 10 điều
quy định đạo đức nghề nghiệp báo chí. Tháng 12/2016 Hội Nhà báo
Việt Nam đã ban hành “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm
báo Việt Nam” (gồm 10 điều). Chúng ta cần hướng dẫn và tuyên truyền
các quy định này để các nhà báo nắm vững và thực hiện.
4.2. Nhóm giải pháp liên quan đến chủ thể đội ngũ nhà báo
Việt Nam

4.2.1. Nhà báo Việt Nam cần phải thực hiện đúng tôn chỉ
mục đích của cơ quan báo chí Việt Nam.
Một là, Nhà báo phải thực hiện đúng tôn chỉ của cơ quan báo
chí. Người làm báo và cơ quan báo chí phải thực sự trở thành cầu nối
giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo diễn đàn xã hội rộng rãi để
phát huy dân chủ, nâng cao trình độ dân trí.
Hai là, Nhà báo cần xây dựng nội dung, chuẩn mực đạo đức
nghề trong hoạt động nghiệp vụ báo chí. Tuân thủ kế hoạch đó là yếu
tố quan trọng để giữ vững sự chủ động, cũng như nâng cao chất
lượng tin, bài trên các phương tiện truyền thông.
Ba là, Nhà báo phải trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật.
Nhà báo phải trung thực trong công việc, phải phản ánh đúng những
21


ý kiến xây dựng của nhân dân; nói lên tâm tư, nguyện vọng, kiến
nghị của dân đối với công cuộc xây dựng đất nước.
Bốn là, Nhà báo phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Chú
trọng bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức cách mạng, và phải có
lòng yêu nghề, có trách nhiệm cao với nghề, phải hết sức cẩn thận về
hình thức, về nội dung, về cách viết.
4.2.2. Nhà báo Việt Nam cần phải nhận thức đúng đắn, đầy
đủ vai trò và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức nghề nghiệp
báo chí Việt Nam
Một là, mỗi nhà báo cần xác định việc giáo dục đạo đức có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu. Hiện nay việc giáo dục đạo đức cho sinh
viên báo chí đã được nâng cao, môn học “Luật Báo chí và Đạo đức
nghề báo” được đưa vào chương trình giảng dạy.
Hai là, nhà báo cần tự xây dựng và rèn luyện, hoàn thiện đạo
đức nghề nghiệp của mình. Nhà báo phải có ý thức nâng cao trình độ

chuyên môn, bởi vì nếu không thì không thể có trình độ nghiệp vụ
vững vàng, mà không có chuyên môn vững vàng thì không thể hoàn
thành nhiệm vu của mình.
Ba là, Nhà báo cần thực hiện tốt các quy định đạo đức nghề
vào hoạt động thực tiễn của mình. Điều quan trọng đối với nhà báo
phải thấm nhuần những qui định ấy, biến những điều qui định đó trở
thành phản xạ của nhà báo.
4.2.3. Nhà báo Việt Nam phải gương mẫu chấp hành pháp
luật, nâng cao trình độ chuyên môn, có ý thức trách nhiệm với
cộng đồng, xã hội
Một là, Nhà báo cần có ý thức cao, gương mẫu chấp hành
pháp luật. Nhà báo cần ý thức được nghề báo là một nghề cao đẹp,
hoạt động vì một lý tưởng cao đẹp và rất có ý nghĩa đối với xã hội.
Hai là, Nhà báo cần nâng cao ý thức trách nhiệm với cộng
đồng và xã hội. Nghề báo là một nghề có trách nhiệm rất nặng nề đối
với xã hội, cũng như đối với con người bởi nhà báo là người đưa
thông tin đến cho công chúng, tạo ra dư luận xã hội, từ đó định
hướng nhận thức của công chúng.
Ba là, Nhà báo cần tự hoàn thiện, nâng cao trình độ, tích luỹ
kiến thức xã hội. Mỗi phóng viên, biên tập viên cần nhận thức rằng,
việc hành nghề báo chí hiện nay đòi hỏi mỗi phóng viên, biên tập
viên, cần biết và thành thạo rất nhiều kỹ năng báo chí.
22


Bốn là, Nhà báo phải thường xuyên tự hoàn thiện, nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Một nhà báo yếu kém về năng lực
nghiệp vụ thì rất có thể sẽ không đủ trình độ để nhận thức chính xác bản
chất của sự việc và điều đó sẽ dẫn đến những sai sót. Vì vậy, việc nhà
báo tự giáo dục đạo đức nghề phải luôn đi liền với tự nâng cao.

Tiểu kết Chƣơng 4
Hồ Chí Minh đã có những lời dạy cụ thể về đạo đức nghề
nghiệp đối với những người làm báo Việt Nam. Đó chính là những
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với người làm báo Việt Nam
(mà luận án đã khái quát thành 5 chuẩn mực ở trên). Những chuẩn
mực này được Hội Nhà báo Việt Nam hệ thống hóa thành 10 điều
quy định đối với nhà báo.
Nhà báo Việt Nam cần luôn học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh và làm theo tấm gương đạo đức của Người; cần luôn tự trau dồi
đạo đức cách mạng, không ngừng học hỏi nâng cao bản lĩnh chính
trị, trình độ chuyên môn. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức báo chí cũng chính là quán triệt ý thức trách nhiệm chính trị
xã hội đối với nhà báo. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với việc thực hiện
nghiêm Luật Báo chí 2016 và 10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp
người làm báo Việt Nam.

23


×