1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN QUANG QUÂN
TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA ĐỐI VỚI
VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY.
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội-2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN QUANG QUÂN
TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA ĐỐI VỚI
VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY.
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80.
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THANH BÌNH
Hà Nội-2013
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóp góp của luận văn 8
7. Kết cấu của luận văn 8
Chương 1: TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA. . 9
1.1. Bối cảnh kinh tế-xã hội và tiền đề tư tưởng hình thành tư tưởng trị nước
của Nho gia và Pháp gia. 9
1.2. Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng trị nước của Nho gia. 19
1.3. Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng trị nước của Pháp gia (chủ yếu
trong sách Hàn Phi tử) 37
Chương 2: Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ
PHÁP GIA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN ĐẠO ĐỨC
CÔNG VỤ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 59
2.1. Khái niệm công vụ và đạo đức công vụ ở Việt Nam. 59
2.2. Thực trạng đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. 69
2.3. Kế thừa và phát huy tư tưởng Đức trị của Nho gia và Pháp trị của Pháp
gia trong việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. . 84
2.4. Một số biện pháp chủ yếu nhằm phát huy đạo đức công vụ ở nước ta hiện
nay. 93
KẾT LUẬN……………………………………………………………… 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………… 107
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Cai trị và quản lý xã hội luôn là một trong những vấn đề được quan tâm
hàng đầu của các quốc gia ở mọi thời đại. Ngay từ thời cổ đại, các triết gia
Trung Quốc đã nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức và pháp luật trong
việc cai trị, quản lý xã hội, thiết lập trật tự xã hội , để từ đó đề xướng các học
thuyết “Đức trị” và “Pháp trị”. Những học thuyết ấy đã vượt ra khỏi phạm vi
Trung Quốc và có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia phương Đông suốt hai nghìn
năm trong đó có Việt Nam.
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu thực
tiễn của việc trị nước, các triều đại đã kế thừa, tiếp thu nhiều tư tưởng về
đường lối trị nước của Trung Quốc. Tuy nhiên, do sự tác động của nhiều yếu
tố, của truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc, đặc biệt là từ nhu cầu,
nhiệm vụ của công cuộc dựng nước và giữ nước, tư tưởng về đường lối trị
nước của Việt Nam có những nét sáng tạo, độc đáo riêng, không hoàn toàn
giống như Trung Quốc.
Ở Việt Nam hiện nay, trong việc quản lý xã hội nói riêng, xây dựng và
phát triển đất nước về mọi mặt nói chung nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, chúng ta có thể kế thừa nhiều
giá trị của những học thuyết, tư tưởng và nhiều bài học, kinh nghiệm trong
công cuộc dựng nước và giữ nước của cha ông ta trong lịch sử.
Nho giáo là một học thuyết chính trị-xã hội ra đời ở Trung Quốc, tư
tưởng trị nước bao trùm trong học thuyết Nho giáo là tư tưởng Đức trị. Các
nhà nho từ Khổng Tử trở đi đều đề cao vai trò của đạo đức, coi đạo đức là
công cụ, phương tiện hữu hiệu nhất của các triều đại phong kiến Trung Hoa
trong việc trị nước, trị dân và quản lý xã hội vì những mục đích chính trị của
mình.
6
Pháp gia cũng là một trong những trường phái tư tưởng lớn nhất của
Trung Quốc cổ đại. Khác với đường lối trị nước của Nho gia, Pháp gia chủ
trương dùng pháp luật để “trị quốc, bình thiên hạ”. Các nhà tư tưởng của phái
Pháp gia đã thấy rõ vai trò to lớn của pháp luật đối với việc trị nước. Tư tưởng
trị nước của phái này là Pháp trị.
Cả hai học thuyết Nho gia và Pháp gia đều đề xuất ra phương pháp trị
nước khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu là đưa xã hội Trung Quốc từ “vô
đạo” trở thành “hữu đạo”. Mỗi một phương thức trị nước ấy, có mặt tích cực
và hạn chế nhất định trong lịch sử. Do vậy, trong quá trình kế thừa, tiếp thu tư
tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia, chúng ta phải biết kết hợp chúng lại
với nhau, tức là kết hợp cả Đức trị và Pháp trị một cách nhuần nhuyễn, biện
chứng để phát huy tính tích cực của nó nhằm thực hiện những mục đích trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ở nước ta hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân. Đó là một nhà nước hoạt động trên tinh thần pháp luật, đề cao
pháp luật, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật và pháp
luật trở thành công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức am hiểu pháp luật, có năng lực quản lý
và đạo đức, đáp ứng tốt những yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay, kinh tế thị trường đã từng bước hình thành và phát triển, nó
tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là đến đạo đức
công vụ trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Việc xuất hiện ngày càng nhiều
những hiện tượng tiêu cực trong việc thực thi đạo đức công vụ: chống người
thi hành công vụ, tội phạm ngày càng tăng, lối sống thực dụng, chạy theo
đồng tiền đang trở thành “mốt thời đại”, nhiều giá trị xã hội bị đảo lộn, sự mất
7
phương hướng, tệ sùng ngoại đang là những vấn đề đáng lo ngại của xã hội.
Đặc biệt là sự thoái hóa, biến chất về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, sự quan liêu của bộ máy nhà nước đang trở thành
những nguy cơ lớn đến sự tồn vong của chế độ. Bên cạnh đó, các thế lực thù
địch không ngừng tìm mọi cách phá hoại với những thủ đoạn thâm độc và
ngày càng tinh vi hơn.
Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp
gia và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở
nước ta hiện nay sẽ cung cấp và luận chứng cho chúng ta tiếp thu, kế thừa
những yếu tố tích cực của nó để góp phần xây dựng nền đạo đức và pháp luật
mới, hoàn thiện đạo đức con người nhằm phát huy nội lực của con người Việt
Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước một cách vững chắc,
tiến cùng thời đại, đồng thời phê phán và khắc phục những biểu hiện tiêu cực
đang tồn tại trong nhiều mặt, nhiều lĩnh vực ở nước ta hiện nay.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Tư tưởng trị nước của
Nho gia và Pháp gia đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở
nước ta hiện nay.” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Triết học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói, Nho gia và Pháp gia nói chung, tư tưởng Đức trị của Nho gia
và tư tưởng Pháp trị của phái Pháp gia nói riêng đã thu hút nhiều người, nhiều
ngành khoa học quan tâm nghiên cứu với nhiều công trình, nhiều hội nghị,
hội thảo trong và ngoài nước. Đặc biệt là ở Việt Nam, trong những năm gần
đây, vấn đề đó càng được quan tâm thêm và nhiều hơn trong nghiên cứu và
giảng dạy Nho gia và Pháp gia.
Liên quan đến đề tài của luận văn, trước hết, là các công trình đi sâu vào
nghiên cứu từng lĩnh vực hay từng phạm trù cụ thể trong học thuyết Nho giáo.
Các tác giả đi theo hướng này đề cập đến tư tưởng của Nho gia về giáo dục,
8
luân lý, đạo đức và vai trò của nó đối với xã hội và với con người. Có thể kể
đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: Trong “Học thuyết chính
trị xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến
nửa thế kỷ XIX) của Nguyễn Thanh Bình, tác giả đã nghiên cứu Nho giáo chủ
yếu với tư cách là một học thuyết chính trị-xã hội, được các triều đại phong
kiến Việt Nam tiếp nhận và sử dụng làm hệ tư tưởng, công cụ cai trị và quản
lý xã hội, trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thực tiễn đặt ra cho
các triều đại phong kiến và dân tộc. Tác giả cho rằng, học thuyết chính trị-xã
hội của Nho giáo là căn cứ chủ yếu để thi hành đường lối Đức trị, xây dựng
và thực thi pháp luật. Theo đó, các phạm trù Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hiếu,
Trung không chỉ là những phạm trù đạo đức mà còn là công cụ chính trị chủ
yếu để cai trị và quản lý xã hội.
Các cuốn sách như: “Nho giáo xưa và nay” của Quang Đạm, “Nho giáo
và đạo đức” của Vũ Khiêu, “Nho học và Nho học ở Việt Nam” của Nguyễn
Tài Thư và “Đến hiện đại từ truyền thống” của Trần Đình Hượu đã đề cập
đến nội dung của tư tưởng Đức trị với tư cách là điểm xuất phát, thực chất của
Nho giáo. Đặc biệt, trong cuốn sách “Đức trị và Pháp trị trong Nho giáo”, GS
Vũ Khiêu đã trình bày sự thống nhất biện chứng giữa Đức trị và Pháp trị trong
hệ tư tưởng Nho giáo, coi chúng là hai mặt của một vấn đề. Tác giả chú ý đến
nội dung và ảnh hưởng của Đức trị trong đời sống của nhân dân, nhưng phần
cơ sở lý luận, triết lý hầu như ít đề cập ở cuốn sách này.
Với cuốn “Lịch sử các học thuyết chính trị Trung Quốc” của Lã Trấn
Vũ, ông đã trình bày và đánh giá khá hoàn thiện, sâu sắc quá trình hình thành,
phát triển các tư tưởng, học thuyết của Nho gia, Đạo gia, Pháp gia. Trong đó,
ông đặc biệt nhấn mạnh, thực chất và bao trùm trong tư tưởng của Nho giáo là
tư tưởng Đức trị và tư tưởng Pháp gia là pháp trị.
9
Cuốn sách “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, đã nghiên cứu Nho giáo từ
tâm thế của nhà Nho. Ông nhìn nhận Nho giáo không chỉ là một học thuyết
triết học, chính trị xã hội, học thuyết đạo đức mà còn là học thuyết trị nước.
Thứ hai, là các công trình nghiên cứu về Pháp gia và tư tưởng pháp trị
của phái Pháp gia như trong cuốn “Tư tưởng pháp trị của Pháp gia với sự
nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam” của PGS. TS Doãn Chính
và TS. Nguyễn Văn Trịnh, đã nghiên cứu sâu sắc bối cảnh ra đời của phái
Pháp gia; phân tích những mặt tích cực, hạn chế của tư tưởng Pháp trị. Nội
dung chủ yếu trong cuốn sách này là tư tưởng Pháp trị, pháp luật là công cụ
chủ yếu để cai trị và quản lý xã hội, là phương thức cơ bản để thiết lập và duy
trì trật tự, kỷ cương của xã hội. Trong các cuốn sách: “Hàn Phi tử” của
Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi và “Hàn Phi tử” của Phan Ngọc, các tác giả đã
tập trung nghiên cứu nội dung tư tưởng chính trị-xã hội của Hàn Phi, nhất là
tư tưởng Pháp trị của ông.
Thứ ba, là các công trình nghiên cứu về đạo đức công vụ có cuốn sách
:Đạo đức trong nền công vụ do Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn và Nguyễn Thị
Kim Thảo là những người hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tổ chức và cán bộ
của Việt Nam biên soạn trên cơ sở các bài viết và tham luận của các đại biểu
từ các nước ASÊAN tham dự Hội thảo quốc tế: “Đạo đức trong nền công vụ”
tại Hà Nội vào ngày 30 và 31 tháng 5 năm 2001. Cuốn sách gồm hai phần:
Phần thứ nhất, các tác giả nêu vị trí, vai trò và ý nghĩa vấn đề đạo đức công
chức trong nền công vụ. Phần thứ hai, nói về sáng kiến nâng cao đạo đức
công vụ của các nước, xuất phát từ thực tế của đất nước mình. Trong nhiều
bài viết của các tác giả Việt Nam, đều nhấn mạnh đặc điểm dân tộc và tính
giai cấp của vấn đề đạo đức và đưa ra một số nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo
đức công chức ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số tạp chí như: Tạp chí
Quản lý Nhà nước có bài “Bàn về đạo đức công vụ” của TS. Vũ Duy Yên.
Tạp chí Giáo dục lý luận có bài “Nâng cao đạo đức công vụ góp phần đấu
tranh chống tham nhũng” của Tiến sĩ Nguyễn Minh Phương, năm 2008. Tạp
10
chí Quản lý Nhà nước có bài viết “Bàn thêm về đạo đức công vụ” của Tiến sĩ
Đỗ Thị Ngọc Lan, năm 2010. Tạp chí Triết học có bài viết “Đạo đức công vụ
và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta
hiện nay” của Nguyễn Hữu Khiển, năm 2003.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, liên quan đến đề tài luận văn,
còn có nhiều luận án, luận văn, các bài viết trên nhiều tạp chí như “Quan niệm
của Nho giáo về xã hội lý tưởng”, “Tư tưởng về Đạo trị nước của các nhà
Nho Việt Nam”, “Đạo đức Nho giáo với việc nâng cao phẩm chất đạo đức
cộng sản” của Nguyễn Thanh Bình, “Tìm hiểu tư tưởng Đức trị trong Nho
giáo” của Nguyễn Thế Kiệt, “Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức
trong nền kinh thế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục”
của Nguyễn Đình Tường
Nhìn chung, dù với góc độ, mục đích nghiên cứu khác nhau nhưng các
công trình nghiên cứu trên đều là những kết quả nghiên cứu đáng ghi nhận về
tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư
tưởng trị nước trong Nho gia và Pháp gia và ý nghĩa của nó đối với việc xây
dựng hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay chưa được nghiên cứu
nhiều, nghiên cứu một cách có hệ thống và còn có một số đánh giá chưa thật
sự khách quan và toàn diện. Vì vậy, với khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ,
từ góc độ tiếp cận triết học, luận văn cố gắng trình bày một cách có hệ thống
và làm sáng tỏ hơn một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng trị nước của Nho
gia và Pháp gia đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước
ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3.1. Mục đích của luận văn.
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung tư tưởng trị nước
của Nho gia và Pháp gia, luận văn chỉ ra ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng
và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay.
11
3.2. Nhiệm vụ của luận văn.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau:
Thứ nhất, trình bày một cách có hệ thống những nội dung chủ yếu trong
tư tưởng trị nước của phái Nho gia và phái Pháp gia.
Thứ hai, làm rõ ý nghĩa nổi bật của tư tưởng trị nước của Nho gia và
Pháp gia đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện
nay. Trên cơ sở đó, luận chứng một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy những
giá trị tích cực của tư tưởng trị nước Nho gia và Pháp gia trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay.
4 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn.
- Tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia.
- Thực trạng của đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Những quan điểm, luận điểm chủ yếu trong tư tưởng trị nước của Nho
gia (qua các tác phẩm kinh điển của Nho gia) và trong tư tưởng trị nước của
Pháp gia (chủ yếu qua sách Hàn Phi tử của Hàn Phi).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm, nguyên lý cơ
bản của triết học Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam làm cơ sở lý luận.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, kết hợp với một số phương
pháp nghiên cứu khoa học khác, như phương pháp phân tích-tổng hợp,
phương pháp lôgic-lịch sử, đối chiếu, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa
12
6. Đóng góp của luận văn.
Luận văn bước đầu chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản
trong tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia, đặc biệt phân tích rõ ý nghĩa
của nó đối với việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện
nay.
Những kết quả đạt được của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập về Lịch sử triết học Trung
Quốc và Đạo đức học.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội
dung của Luận văn gồm 02 chương, với 7 tiết.
Chương 1: Tư tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia, với 3 tiết.
Chương 2: Ý nghĩa tư tuởng trị nước của Nho gia và Pháp gia đối với
việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay, với 4 tiết.
13
Chương 1: TƯ TƯỞNG TRỊ NƯỚC CỦA NHO GIA VÀ PHÁP GIA.
1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng hình thành tư
tưởng trị nước của Nho gia và Pháp gia.
Với tính cách là hình thái ý thức xã hội, quá trình phát sinh và phát triển
mỗi trường phái triết học đều gắn liền và bị chi phối bởi những đặc điểm, điều
kiện lịch sử nhất định đã nảy sinh ra nó, đúng như C. Mác đã nói: “Các triết
gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại của mình,
của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung
lại trong những tư tưởng triết học” [46, tr.156]. Tư tưởng trị nước của Nho gia
và Pháp gia cũng vậy, nó hình thành không phải ngẫu nhiên, hay xuất phát từ
ý muốn chủ quan của nhà tư tưởng nào đó, mà nó bị quy định, chi phối và
phản ánh những điều kiện lịch sử xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu-Chiến
Quốc. Vì vậy, muốn xem xét, đánh giá một cách đúng đắn nội dung, tính chất
của các trào lưu tư tưởng triết học Trung Quốc nói chung và tư tưởng trị nước
của Nho gia và Pháp gia nói riêng, chúng ta không thể không nghiên cứu bối
cảnh lịch sử, cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của Trung Quốc trong hai thời kỳ
ấy.
1.1.1. Bối cảnh kinh tế-xã hội.
Theo quan niệm của triết học Mác-Lênin, ý thức xã hội do tồn tại xã hội
quyết định và phản ánh điều kiện kinh tế-xã hội của xã hội trong từng giai
đoạn phát triển nhất định. C.Mác cho rằng: “không phải ý thức của con người
quyết định tồn tại của họ, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”
[Dẫn theo 51, tr.15]. Tư tưởng trị nước của mỗi thời đại bao giờ cũng phản
ánh những dấu ấn của thời đại đó. Với tính cách là một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, một hình thái ý thức xã hội, Nho giáo (trong đó có tư tưởng Đức
trị), Pháp gia (trong đó có tư tưởng Pháp trị) cũng nảy sinh, tồn tại trên một
cơ sở hạ tầng, một tồn tại xã hội nhất định.
Trên lĩnh vực kinh tế:
14
Xã hội Trung Quốc vào thời Xuân Thu- Chiến Quốc, với việc sử dụng
công cụ lao động chuyển từ đồ đồng sang công cụ bằng sắt đã làm cho lực
lượng sản xuất phát triển lên trình độ cao hơn. Vào thời kỳ này, với việc chế
tạo, phát minh và sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ mới trong việc cải
tiến công cụ và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Có thể nói, điều này đã đánh
dấu sự thay đổi vượt bậc của nền kinh tế Trung Quốc. Nếu như trước đây, tư
liệu sản xuất (trong đó có ruộng đất) đều nằm thuộc quyền sở hữu của nhà
Chu thì đến giai đoạn này, đã có sự thay đổi, đó là việc biến ruộng đất của
công thành đất của tư ngày càng nhiều đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ
“tỉnh điền”. Về sau, pháp luật đã có sự thay đổi, đó là việc công nhận sự tồn
tại của chế độ tư hữu ruộng đất. Việc thay thế công cụ bằng đồng sang bằng
sắt lúc này ngày càng trở nên phổ biến, sự mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm
lao động, thủ công nghiệp ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn với rất nhiều
ngành nghề đã được mở ra như nghề rèn, nghề mộc, nghề đúc đã tạo nên sự
cách biệt giữa những người làm nông nghiệp ở vùng nông thôn với những
người làm nghề buôn bán ở khu vực thành thị, đã bắt đầu xuất hiện sự phân
hóa giữa tầng lớp quý tộc với những người được coi là hèn mọn, tiểu nhân
trong xã hội.
Trên cơ sở phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương
nghiệp cũng phát triển hơn trước, tiền tệ đã xuất hiện. Đây là thời kỳ khởi sắc
của nền kinh tế thương nghiệp. Trong thời kỳ này, ở Trung Quốc xuất hiện
nhiều trung tâm thương nghiệp mà ở đó việc buôn bán ngày càng trở nên
nhộn nhịp đặc biệt là ở các nước Hán, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có một cơ sở
kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi thành thị, thị tộc của quý tộc
và dần trở thành những đơn vị, khu vực kinh tế của tầng lớp địa chủ mới lên.
Sự biến động trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh hưởng, tác động to lớn đến
các mặt của đời sống chính trị-xã hội. Nó làm xuất hiện một cục diện mới
trong xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu –Chiến Quốc, đó là tình trạng các
15
nước chư hầu nổi lên lấn át địa vị và quyền lực của nhà Chu. Sự phát triển của
sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu
ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều tầng lớp mới xuất hiện và
ngày càng khẳng định địa vị và vai trò của mình. Cái mới và cái cũ cùng đan
xen tồn tại, những mâu thuẫn giữa các giai tầng được hình thành và ngày càng
phát triển, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp nông dân
và các tầng lớp bị thống trị khác. Nếu như vào đầu thời Chu, “Đất đai và thần
dân ở khắp dưới gầm trời này không đâu không phải là sở hữu của nhà vua”
(Kinh Thi) thì cho đến lúc này, cái quyền sở hữu tối cao (về đất và dân) ấy đã
bị một tầng lớp người mới lên có sức mạnh kinh tế tấn công và chiếm lấy làm
tư hữu. Tầng lớp quý tộc, thị tộc- cơ sở xã hội của nhà Chu- do bị mất đất,
mất dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút, vì vậy mà đương nhiên, địa vị và vai
trò chính trị cùng ngôi thiên tử của nhà Chu ngày càng suy giảm và trên thực
tế chỉ còn là hình thức. Các nước chư hầu của nhà Chu không những không
chịu phục tùng địa vị và quyền uy của thiên tử (vua nhà Chu), không chịu
cống nạp mà còn phát động chiến tranh thôn tính lẫn nhau, luôn tự xưng và
cho mình là bá chủ thiên hạ. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên miêu tả thời kỳ này là
thời đại “vương đạo suy vi”, “bá đạo” cường thịnh lấn át “vương đạo”.
Trong nội bộ các nước- đặc biệt là các nước lớn- quý tộc chia bè lập
cánh, chia cắt đất đai của các nước chư hầu để mở rộng bờ cõi. Vì thế, nếu ở
đầu thời Chu có khoảng trên dưới 1000 nước chư hầu thì đến thời Xuân Thu
chỉ còn lại hơn trăm nước. Trong đó có khoảng chục nước lớn, mạnh nhất là
nhóm Thất hùng (Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống, Ngô, Việt). Chiến tranh ngày càng
dai dẳng và khốc liệt, nhân dân gánh chịu nhiều tổn thất. Đời sống của họ vốn
đã cơ cực ngày càng lâm vào bế tắc.
Thực chất, sự xuất hiện những tầng lớp mới, những mâu thuẫn về lợi ích
giữa các giai cấp, những cuộc chiến tranh tàn bạo và khốc liệt trong thời Xuân
Thu- Chiến Quốc ở Trung Quốc là những biểu hiện về mặt xã hội mang tính
16
tất yếu khách quan của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi phải giải thể chế độ nô lệ
thị tộc đại diện cho phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời và lạc hậu để giải
phóng lực lượng sản xuất và tiến nhập vào xã hội phong kiến phân quyền đại
diện cho phương thức sản xuất mới.
Trong bối cảnh đó, luân lý, đạo đức xã hội rơi vào tình trạng băng hoại,
khủng hoảng sâu sắc. Mọi giá trị, chuẩn mực, đạo đức bị đảo lộn, trật tự, kỷ
cương xã hội ngày càng thêm rối loạn, thiết chế chính trị, lễ nghĩa của nhà
Chu vi phạm và bị phá hoại nghiêm trọng. Đây được coi là thời kỳ “Lễ hoại
nhạc tan” với những cảnh bề tôi giết vua hoặc đuổi vua đi ra khỏi đất nước,
con hại cha, anh em, vợ chồng bất hòa, chia lìa thường xuyên xẩy ra, thiên hạ
trở nên “vô đạo”, trật tự, lễ nghĩa, cương thường của xã hội bị đảo lộn, các
mối quan hệ giữa con người với con người bị biến dạng, “ngũ luân” không
còn được coi trọng như trước nữa. Khi nhận định về vấn đề này, Khổng Tử
cho rằng, sự biến đổi của trật tự lễ nghĩa nhà Chu đã diễn ra từ rất lâu chứ
không phải là mới bắt đầu. Đánh giá về thời kỳ này, Khổng Tử nói: “Thiên hạ
loạn lạc như nước chảy cuồn cuộn, khắp nơi đều như thế, còn mong cùng
người nào làm thay đổi đây?” [28, tr.646].
Trong khi chế độ tông pháp đã tỏ ra quá lạc hậu với thời đại như vậy, thì
những cơ sở cho sự định hình thể chế của xã hội mới lại chỉ mới manh nha.
Giữa cái cũ và cái mới, không cái nào đủ sức đại diện chân chính cho lịch sử.
Bị trói buộc trong trạng thái “giao thời” đó, các chuẩn mực, giá trị xã hội hầu
như không được định hình.
Như vậy, ở Trung Quốc thời Xuân Thu-Chiến Quốc, do sự phát triển của
sản xuất, của kinh tế, như đã trình bày trên đây, đã làm cho những mâu thuẫn
giữa các giai cấp, các đẳng cấp, các tập đoàn phong kiến xuất hiện thời Xuân
Thu đến thời Chiến Quốc ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt đến thời Chiến
Quốc, đã xuất hiện tầng lớp địa chủ lớn, địa chủ kiêm thương nhân, làm nảy
sinh thêm mâu thuẫn giai cấp này với đẳng cấp, giai cấp khác. Tất cả đã dẫn
17
đến xã hội hết sức rối loạn, không có trật tự, kỷ cương. Việc cai trị, quản lý xã
hội, việc khắc phục loại trừ sự rối loạn trong xã hội theo phương thức cai trị
cũ không có hiệu quả, yêu cầu phải thay thế bằng một phương thức cai trị mới
phù hợp.
Nhằm loại trừ thực trạng xã hội ấy và đưa xã hội từ loạn tới bình trị, một
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách là cần phải có một cuộc cải
cách về đường lối trị nước, phải kiến tạo một phương thức trị nước có hiệu
quả. Bởi vậy mà, hàng loạt các học thuyết chính trị-xã hội được xem là lý
tưởng do những mưu sĩ đưa ra và được các vua chư hầu tùy chọn làm công cụ
cai trị. Lịch sử gọi đây là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy),
“Bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng). Từ đây đã sản sinh hàng loạt
những nhà tư tưởng, những nhà chính trị xuất sắc và hình thành nhiều tư
tưởng triết học, chính trị-xã hội như Nho gia, Pháp gia, Mặc gia, Đạo
gia…Trong số “bách gia” xuất hiện thời Tiên Tần ở Trung Quốc thì Nho giáo
và Pháp gia là những học thuyết có tính hiệu quả và sức sống lâu dài nhất.
Nếu phái Nho gia đặc biệt đề cao đạo đức, coi đạo đức là công cụ, là phương
tiện cai trị, quản lý xã hội có hiệu quả nhất thì phái Pháp gia lại đề cao vai trò
của pháp luật trong việc trị nước, trong việc đưa xã hội từ “loạn” đến “bình
trị”.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng.
Tư tưởng Đức trị của Nho giáo và tư tưởng Pháp trị của Pháp gia còn
được hình thành trên cơ sở tiếp thu những tiền đề tư tưởng sau:
Về tôn giáo: Nhà Ân chỉ tôn sùng và cúng tế một vị thần toàn năng, đó là
thần tổ tiên, vì nhà Ân cho rằng, phàm như mọi việc như gió, bệnh tật, hạn
hán, được mùa, mất mùa đều do sự giáng phúc, giáng họa của tổ tông. Vào
khoảng thế kỷ XI TCN, tộc Chu từ phía Bắc tiến vào đất Ân và tiêu diệt hoàn
toàn nhà Ân lập nên nhà Chu. Tiếp tục truyền thống tế Đế tổ, tiên vương của
người Ân, nhà Chu thêm tư tưởng kính trời, thờ thượng đế, hợp mệnh trời,
18
người với trời hợp nhất. Họ cho rằng, Thượng đế và thần tổ tiên nguyên là hai
không thể lẫn làm một. Nhà Ân do không biết “mệnh trời”, hành động không
hợp “mệnh trời” nên nay Thượng đế không ưa nhà Ân nữa, cho nên ban mệnh
xuống cái quyền ấy cho nhà Chu, để nhà Chu lập ấp, dựng nước.
Chế độ nhà Chu luôn đề cao tư tưởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”,
“thiên nhân-hợp nhất”. Theo đó, nhà Chu cho rằng, trời là lực lượng có uy
quyền tối cao, tuyệt đối. Do vậy, vì nhà Ân không biết vâng theo “mệnh trời”
nên trời trừng phạt để cho nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị nhân dân. Nhà Chu
cho rằng: “mệnh trời không nhất định, thiện thì được, bất thiện thì mất- duy
mệnh bất vô thường, đạo thiện tất đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỷ” [7, tr.26].
Về chính trị: Tư tưởng chính trị chủ yếu của giai cấp quý tộc Chu là
“Nhận dân”, “Hưởng dân”, “Trị dân”. Tư tưởng này xuất phát từ quan niệm
của nhà Chu cho rằng, vì nhà Chu biết và làm theo “mệnh trời”, tuân theo
“mệnh trời” mà được “nhận dân” từ tay nhà Ân để “hưởng dân” và “trị dân”
suốt đời. Giai cấp quý tộc nhà Chu cho rằng, kẻ chịu mệnh trời để thống trị
thiên hạ là Thiên tử, Thiên tử cùng sánh với trời và vì vậy, nếu kẻ nào chống
lại “mệnh trời” thì nhà Chu sẽ vâng mệnh trời trừng trị, chém giết. Vua là
Thiên tử (con trời) được thay trời thống trị thiên hạ, cai trị dân. Rõ ràng, tư
tưởng chính trị dưới thời nhà Chu là hết sức phản động, nhưng lại được phủ
lên một lớp son tôn giáo về “ý trời”, “mệnh trời”.
Về đạo đức: Tư tưởng đạo đức của nhà Chu lấy hai chữ Đức và Hiếu làm
nòng cốt. Xuất phát từ quan niệm tôn giáo về trời- người hợp nhất, nhà Chu
cho rằng, tổ tiên của mình là bậc Tiên vương do luôn có đức mà được sánh
cùng thượng đế, nhận được “mệnh trời” mà “hưởng nước”, “hưởng dân”. Do
vậy, các vua sau phải kính cái đức đó, mà giữ gìn và bồi đắp nó để con cháu
được hưởng lâu dài. Hiếu là nhớ ơn tổ tiên, là phải luôn giữ gìn và làm sáng
tỏ khuôn phép của tổ tiên để lại, có như vậy, mới nhận được mệnh trời mà
được hưởng nước, hưởng dân mãi mãi. Rõ ràng, đây là quan niệm đạo đức
19
duy tâm, bảo thủ và phản động nhằm tuyên truyền và củng cố địa vị thống trị
vĩnh viễn của giai cấp quý tộc, thị tộc, bảo vệ nhà nước chuyên chính thị tộc.
Nhưng về sau, quan niệm này lại được nhiều nhà Nho tiếp nhận vào hệ thống
Nho giáo nói chung và tư tưởng đạo đức của Nho giáo nói riêng. Chính điều
này, một phần giúp chúng ta cắt nghĩa vì sao, ở Nho giáo, đạo đức và chính trị
gắn chặt với nhau, coi đạo đức là một trong những công cụ, phương tiện chính
trị chủ yếu của nhà vua, của người cầm quyền trong việc trị dân, trị nước,
bình thiên hạ.
Như vậy, tư tưởng trị nước của Nho giáo là tư tưởng Đức trị nhằm mục
đích là đưa xã hội từ “vô đạo” thành xã hội “hữu đạo”. Nho giáo tiếp nhận
vào hệ thống của mình nhiều tư tưởng tôn giáo để giáo hóa con người, buộc
con người phải tuân theo những quy tắc, chuẩn mực xã hội mà các nhà Nho
đưa ra.
Bên cạnh đó, Tư tưởng Pháp trị của phái Pháp gia được hình thành trên
những tiền đề chủ yếu sau đây:
Tư tưởng pháp trị của Pháp gia là sự kế thừa nhiều tư tưởng triết học của
các bậc tiền bối đương thời. Đặc biệt là sự kế thừa tư tưởng “tôn quân”,
“chính danh” của Khổng Tử, tư tưởng “thượng đồng”, “công lợi” của Mặc gia
và kế thừa tư tưởng quan điểm về “đạo”, “đức”, “đạo vô vi” của Đạo gia, tư
tưởng “tính ác” của Tuân Tử. Tư tưởng về “đạo”, “lý” của Pháp gia là sự kế
thừa tư tưởng duy vật về thế giới của Lão Tử. “Đạo” được thể hiện (bộc lộ,
hiện ra) trong các sự vật, hiện tượng cụ thể bằng cái “lý”, vì vậy “lý” đó là sự
phân biệt giữa vuông và tròn, ngắn và dài, thô kệch và tinh tế, mạnh và yếu” [
Dẫn theo 5, tr.336]. Trong học thuyết của Lão Tử, học thuyết về “đạo” có một
vị trí cực kỳ quan trọng. Nó là nền tảng chi phối xuyên suốt các vấn đề trong
triết học của ông và hầu hết các quan điểm về vũ trụ, nhân sinh của người
Trung Hoa cổ đại.
20
Theo Hàn Phi Tử, “đạo” vừa là nguồn gốc của vạn vật, vừa là quy luật
phổ biến của chúng, vì vậy nó không thay đổi. Còn “lý” là quy luật riêng, nên
nó “bất thường” luôn biến hóa không ngừng [Dẫn theo 5, tr.336]. Chính vì
vậy, theo Hàn Phi, để nhận thức được sâu sắc được sự vật và hoạt động có kết
quả, mọi hoạt động của con người phải tuân theo quy luật “thể hiện đạo” và
“tuân theo lý”. Vận dụng thuyết “đạo” và “lý” vào phép trị nước. Hàn Phi cho
rằng, ngày nay cái “lý” (thời thế, hoàn cảnh ) đã thay đổi, thì phép trị nước
không thể viện theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “vô vi
trị” của Đạo gia như trước nữa, mà trong hoàn cảnh hiện tại (vương đạo suy
vi, đất nước loạn lạc ) cần phải dùng pháp trị. Như ông nói: “Phàm dựa theo
đạo lý mà làm việc thì không việc nào là không thành. Không việc nào không
thành thì lớn có thể thành cái thế cao quý của thiên tử, nhỏ dễ được hưởng cái
lộc của vị khanh tướng, tướng quân” [57, tr.175] và “Lấy đạo mà cai trị thiên
hạ thì quỷ không thiêng mà là cái thiêng của nó không làm thiệt hại đến
người ta” [57, tr.182-183]. Người trị vì thiên hạ phải nhận thức được “đạo” và
“lý” của vạn vật. Như ông cho rằng, “đạo” tuy không thể nhìn thấy, nhưng
thánh nhân nắm được chỗ công hiệu của nó mà thấy được hình dạng của nó.
Hàn Phi kịch liệt phê phán người trị vì thiên hạ mà lại mê tín, bói toán tin vào
quỷ thần. Ông nhấn mạnh, trên thế giới không có gì chứng thực được là có
quỷ thần, người cai trị tin vào quỷ thần thì sẽ mất nước, đánh giặc mà nhờ cầu
khấn quỷ thần sẽ thất bại.
Trong khi kế thừa và phát triển thuyết “tính ác” của Tuân Tử, Hàn Phi
cho rằng, bản chất con người là “ích kỷ” và đặc tính chủ yếu của nó là “sự
ham mê lợi ích và thù ghét tai họa” [Dẫn theo 5, tr.339], rằng không có con
người nào mà lại “không mong muốn nhận được sự giúp đỡ của người khác”
và “không tính toán, ham thích lợi ích của người khác” [Dẫn theo 5, tr.339].
Xuất phát từ luận điểm “lợi ích vật chất là cơ sở của tất cả quan hệ xã hội và
hành vi con người”, Hàn Phi cho rằng, con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi,
21
luôn “thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó ”[ Dẫn theo 5, tr.339],
đó là bản tính tự nhiên. Vì vậy, tất cả các quan hệ xã hội (kể cả quan hệ đạo
đức, tình cảm ruột thịt ) đều được xây dựng trên cơ sở tính toán lợi hại cá
nhân. Người chủ cho người làm thuê ăn uống và trả tiền công khá sòng phẳng
không phải vì lòng thương người, mà chính để cho người làm thuê gắng sức
làm việc, còn người làm thuê tận tâm làm việc không phải vì thương chủ, mà
vì được ăn uống, có tiền bạc Tất cả quan hệ cha-con, chồng-vợ, anh-em,
vua- tôi đều có chỗ lợi hại như vậy.
Theo Hàn Phi, bản tính con người thực ra chỉ là sự tính toán cho riêng
mình mà thôi, bởi vì: “Thầy lang khéo mút vết thương, ngậm máu bệnh nhân
đâu phải là vì tình cốt nhục mà chỉ vì lợi. Thợ đóng xe mong cho nhiều người
giàu sang, còn thợ đóng quan tài mong cho nhiều người chết yểu, không phải
là thợ đóng xe có lòng nhân mà thợ đóng quan tài tàn nhẫn, chỉ vì người ta
không giàu sang thì người ta không mua xe, người ta không chết thì quan tài
không bán được” [40, tr.468] và “Cha mẹ đối với con, sanh con trai thì mừng,
sanh con gái thì giết, là do nghĩ đến sau này, đứa nào có lợi lâu dài cho mình
hơn. Vậy, cha mẹ đối với con mà còn đem lòng tính toán lợi hại huống hồ là
những người không có tình cha con với nhau” [40, tr.459]. Chính vì vậy, theo
Hàn Phi muốn trị dân, muốn nước mạnh không thể lấy giáo dục, lễ nghĩa làm
trọng, mà phải đề cao pháp luật vì: “Người tuân theo nhân nghĩa mà trị dân,
để dân theo nghĩa chỉ là một ảo tưởng của Nho gia, làm hại cho nước vì tính
con người ta vốn ác”[ Dẫn theo 5, tr.339]. Hơn nữa, theo ông, nếu dùng nhân
nghĩa để phán xét phải trái sẽ rơi vào tình trạng dùng tâm lý cá nhân để định
nặng nhẹ, thiếu công minh, bởi vì ông vua nhân đức nào mà không có lòng tư
dục, ân oán? Sự thiếu khách quan và công bằng là đầu mối của sự náo loạn
thiên hạ. Vì vậy, phép trị nước công bằng và hữu hiệu hơn cả là dùng luật
pháp.
22
Như vậy, trên cơ sở phân tích kinh nghiệm trị nước của các thời đại
trước và căn cứ vào hoàn cảnh xã hội và con người cụ thể đường thời. Hàn
Phi đã luận chứng khá thuyết phục về pháp trị. Theo ông, muốn trị nước, yên
dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội dù có phức
tạp, nước có đông dân bao nhiêu vẫn trị được. “Thánh nhân trị nước, không
cậy người tự làm thiện mà khiến người không làm được trái Kẻ trị nước mà
dùng số đông mà bỏ ít, cho nên không vụ đức mà vụ pháp. Ôi, nếu phải chờ
đốn gỗ thẳng mới làm tên bắn thì trăm đời chưa có tên, nếu phải đợi gỗ tròn
mới làm bánh xe thì trăm đời chưa có bánh xe” [Dẫn theo 5, tr.340].
Trong thời Chiến Quốc, xã hội thay đổi nhanh chóng, chế độ phong kiến
trước đó đã bị tan rã hoàn toàn nhưng Nho gia vẫn cố giữ lấy chế độ tông
pháp đã lỗi thời. Trái lại, Hàn Phi cũng chủ trương đối mặt với hiện thực.
Theo ông, hoàn cảnh khác nhau, thời thế khác nhau thì những biện pháp tùy
cơ ứng biến cũng khác nhau. Như trong thiên Ngũ đố, sách Hàn Phi Tử, ông
viết “ bậc thánh nhân không cốt trau giồi chuyện xưa, không noi theo những
phép tắc bất biến, khi bàn việc làm ở đời thì dựa theo tình hình của thời mình
mà đặt ra những biện pháp” [55, tr.540]. Như đã nói ở trên, Hàn Phi đã nhiều
lần phê phán các nhà Nho với thói hoài cổ, trọng cổ và kinh viện. Mặt khác,
ông không phải là người duy tâm, mê tín. Cho nên, chúng ta có thể khẳng
định rằng, thế giới quan cơ bản của Hàn Phi là duy vật, cụ thể là chủ nghĩa
duy lợi coi lý luận và chế độ chính trị đều phải hợp thời, khi thời đại thay đổi
thì chúng cũng phải thay đổi theo.
Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi còn tiếp thu, phát triển và hệ thống hóa
những quan niệm về đường lối trị nước theo pháp luật của các nhà tư tưởng
trước Hàn Phi như Ngô Khởi, Lý Khôi và ba phái trong phái Pháp gia:
Thương Ưởng, Thân Bất Hại, Thận Đáo.
Thương Ưởng, người nước Vệ, tên họ là Công Tôn, xuất thân từ giới quý
tộc nhưng đã sa sút, sống cùng thời với Mạnh Tử, Thân Bất Hại, Thận Đáo.
23
Ông là nhà chính trị có tài được Tần Hiếu Công trọng dụng làm tể tướng.
Trong thời gian này, ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật, hành
chính và kinh tế làm cho nước Tần ngày càng hùng mạnh. Với những công
lao đó, ông được Tần Hiếu Công phong tước Thương Công (bởi vậy mới có
tên là Thương Ưởng. Thương Ưởng là đại biểu cho nhóm trọng “pháp” trong
Pháp gia.
Thân Bất Hại (khoảng 401-337 trước Công Nguyên) là người đất Kinh
thuộc nước Trịnh, chuyên học về hình danh, trước làm một chức danh nhỏ
nước Trịnh, sau được Chiêu Ly Hầu dùng làm tướng quốc nước Hàn, là người
xuất thân từ giai cấp quý tộc mới. Thân Bất Hại chủ trương ly khai “đạo đức”,
chống “lễ”, đề cao “thuật” trong phép trị nước.
Thận Đáo (370-290 trước Công Nguyên) là người nước Triệu. Thận Đáo
là đại biểu tiêu biểu trong nhóm trọng “thế” trong Pháp gia. Tư tưởng triết học
của ông chịu ảnh hưởng “đạo” tự nhiên, “vô vi” thuần phát của Lão Tử. Tuy
nhiên, về chính trị, ông chủ trương trị nước bằng pháp luật. Theo ông, pháp
luật phải khách quan như “vô vi”, điều đó, loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng
tư của người cầm quyền. Trong phép trị nước, Thận Đáo đặc biệt đề cao thuật
trị nước.
1.2. Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng trị nước của Nho gia
(Tư tưởng Đức trị).
Ở Trung Quốc, “đức trị”, “pháp trị” là hai đường lối cơ bản của Nho gia
và Pháp gia được xây dựng từ thời cổ đại. Nó trở thành nền tảng lý luận trong
chính sách cai trị của các vương triều phong kiến Trung Quốc suốt hơn hai
nghìn năm.
Ngay từ thời cổ đại, các triết gia phương Đông đã nhận thức một cách
khá tinh tế về vai trò, tác dụng của đạo đức và pháp luật trong việc thiết lập,
ổn định chính trị-xã hội. Đặc biệt ở Trung Quốc, như đã trình bày thời kỳ
Xuân Thu-Chiến Quốc đã có sự chuyển biến sâu sắc từ chế độ chiếm hữu nô
24
lệ sang chế độ phong kiến sơ kỳ, từ chế độ phong kiến phân quyền sang chế
độ phong kiến trung ương tập quyền. Đây là thời kỳ mà những thể chế, pháp
luật cùng với những chuẩn mực đạo đức cũ bị băng hoại và những thể chế,
pháp luật và chuẩn mực đạo đức của xã hội mới đang manh nha. Chính trong
điều kiện lịch sử đó đã đặt ra những vấn đề về tư tưởng, đạo đức luân lý,
chính trị, pháp luật làm xuất hiện hàng loạt các trường phái triết học. Các
nhà tư tưởng xuất phát từ lợi ích và địa vị xã hội khác nhau, với các phương
pháp nhằm cải biến xã hội và giáo hóa con người khác nhau, đã đưa ra nhiều
lý thuyết nhằm “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” và đưa xã hội Trung Quốc tới
sự ổn định. Trong đó, Nho giáo nêu cao “Đức trị” khẳng định “chính danh”,
lấy “nhân nghĩa làm gốc”. Vậy đức trị là gì?. Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì
“Đức trị: cai trị dân bằng đức” [81, tr.678]. Tư tưởng trị nước chủ yếu trong
trường phái Nho gia là tư tưởng Đức trị. Nho giáo đặc biệt coi trọng đạo đức
trong trị nước, coi đó là công cụ và phương tiện hữu hiệu nhất để hoàn thiện
con người và ổn định, hoàn thiện xã hội, đưa xã hội từ “vô đạo” trở thành
“hữu đạo”.
Tư tưởng Đức trị là những quan điểm về đường lối trị nước, quản lý xã
hội dựa trên những chuẩn mực đạo đức. Đó là hệ thống những chuẩn mực,
những nguyên tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi của con người
trong các mối quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích cộng đồng. Đức trị phản ánh nhu cầu và lợi ích xã hội của giai
cấp thống trị, được biểu hiện dưới hình thức những quy định và những đánh
giá trên cơ sở xác lập những giá trị luân lý, được mọi người thừa nhận và
chấp hành một cách tự giác. Nó được củng cố bằng những tấm gương đạo
đức.
1.2.1. Quan niệm của Nho giáo về vai trò của đạo đức và Đức trị.
Như chúng ta biết, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện và
nó được phát triển, hoàn thiện trên cơ sở các chế độ kinh tế-xã hội nối tiếp
25
nhau từ thấp đến cao. Trong quá trình phát triển đó, cùng với sự vận động
biến đổi của tồn tại xã hội, đạo đức cũng có những biến đổi, đã tồn tại nhiều
những quan niệm đạo đức khác nhau, thậm chí đối lập nhau trong lịch sử.
Theo quan niệm mác xít, đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập
hợp những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và với xã hội, chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội
[13, tr.816].
Đạo đức có vai trò rất to lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống của
con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm
bảo đảm cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại và phát triển. Vai trò của đạo
đức còn được biểu hiện thông qua các chức năng cơ bản của đạo đức: điều
chỉnh hành vi, giáo dục, nhận thức
Vai trò nổi bật của đạo đức theo quan niệm của Nho giáo biểu hiện cụ
thể như sau:
Thứ nhất, đạo đức và thi hành đạo đức là tiền đề, điều kiện quan trọng
nhất để hình thành, hoàn thiện đạo đức của con người và xã hội, góp phần to
lớn vào việc củng cố, duy trì trật tự, kỷ cương và ổn định của xã hội.
Trong Nho giáo Khổng-Mạnh và Nho giáo nói chung, mẫu người lý
tưởng- cần có của xã hội và phù hợp với yêu cầu của giai cấp thống trị chủ
yếu là con người đạo đức. Các nhà Nho đưa ra nhiều chuẩn mực đạo đức,
nhiều quy phạm đạo đức để khuyên răn, ràng buộc và điều chỉnh mọi suy
nghĩ, hành vi của con người trong mối quan hệ xã hội-chính trị của con người.
Theo sách Tứ thư, những chuẩn mực đó là Nhân, Nghĩa, Lễ, Hiếu, Trung, Trí,
Tín Các chuẩn mực đạo đức này cũng chính là những quy phạm đạo đức và
là những phương thức cơ bản để con người đạt đạo có đạo đức. Trong sách
Mạnh tử đã nói : “Người quân tử tiến sâu (về đức hạnh) nhờ vào đạo lý, muốn
rằng tự nắm bắt được đạo lý. Nắm bắt được thì ở yên với đạo, ở yên thì nhờ
26
đó càng thâm sâu, đã thâm sâu thì mặc sức mà sử dụng dường như đã tới cội
nguồn” [28, tr.1069]. Và để cho cái đức, cái trí ngày càng giàu thêm và bền
vững thì người quân tử không chỉ “tồn đức” mà còn phải “tận tâm” tu dưỡng
cái đức ấy ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. “Quân tử dựa vào điều nhân để
tồn tâm, dựa vào lễ để tồn tâm. Người nhân yêu người, người có lễ kính trọng
người. Yêu người thì người ta yêu lại, kính trọng người thì người ta kính
trọng lại” [28, tr.1088]. Về điểm này, trong sách Luận ngữ Khổng Tử nói:
“Người quân tử chẳng bao giờ rời bỏ điều nhân, dù chỉ trong khoảng thời gian
một bữa ăn, dẫu trong cơn vội vàng hay lúc nghiêng ngả chao đảo, người ấy
cũng vẫn ở với điều nhân” [74, tr.208] và “người quân tử luôn để tâm vào
đạo, không để tâm vào miếng ăn…, người quân tử chỉ lo đạo, không lo
nghèo” [74, tr.500]. Do vậy mà, theo Khổng Tử: “Biết đạo chẳng bằng ưa
đạo, ưa đạo chẳng bằng vui với đạo” [74, tr.326]. Người quân tử khi chưa
hiểu được đạo thì lo lắng, bực tức đến nỗi quên ăn, khi hiểu được đạo thì vui
mà quên cả nỗi buồn, cái gọi là đạo ấy chính là đạo “Nhân”. Người quân tử
không bao giờ rời bỏ đạo “Nhân” dẫu trong cơn vội vàng hay lúc nghiêng
ngả. Vì đạo nhân là chuẩn mực đạo đức cao quý nên người quân tử dốc lòng
tin theo và ham học đến nỗi có thể chết mà hành được đạo nhân thì cũng là
việc nên làm. Khổng Tử cho rằng, tiểu nhân chỉ biết vì lợi, còn người quân tử
hiểu rõ về nghĩa và lợi.
Nhân cách lý tưởng của người quân tử là sự thống nhất của nhân-trí-
dũng và Khổng Tử khẳng định, đạo nhân là đạo của người quân tử. Người
quân tử luôn tự chủ lấy mình, trông cậy ở mình, ngay cả làm điều nhân cũng
do mình chứ không nhờ vào người khác. Như Khổng Tử nói: “Người quân tử
thì thư thái mà không kiêu căng” [74, tr.448]. Bởi vậy mà, “lỗi lầm của người
quân tử giống như mặt trời, mặt trăng bị xâm thực. Khi mắc lỗi thì ai cũng
nhìn thấy, khi sửa lỗi thì ai nấy đều ngưỡng vọng” [74, tr.557]. Người quân tử
luôn trung thực nên “người quân tử giúp người làm việc tốt chứ không giúp