Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

KHÔNG GIAN văn hóa HUẾ với sự HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 169 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN QUANG

KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ
VỚI SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN QUANG

KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ
VỚI SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG
2. TS. LÝ VIỆT QUANG

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Văn Quang


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN

7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

7

1.2. Những vấn đề kế thừa và định hướng triển khai của đề tài

24


Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NHÂN CÁCH HỒ CHÍ
MINH VÀ KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ

28

2.1. Nhân cách Hồ Chí Minh

28

2.2. Không gian văn hóa Huế

40

Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ ĐẾN
SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

78

3.1. Một số yếu tố của không gian văn hóa Huế ảnh hướng đến sự hình
thành nhân cách Hồ Chí Minh

78

3.2. Biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ ảnh hưởng của không gian văn
hóa Huế

104

Chương 4: Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI SỰ

PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH CHO CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY

127

4.1. Một số nhận xét về ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình
thành nhân cách Hồ Chí Minh

127

4.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế
đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh đối với sự phát triển nhân
cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN

132
149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152


1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt
xuất của Việt Nam. Người tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc, cho ý chí kiên
cường, bất khuất của con người Việt Nam trong công cuộc dựng xây đất nước. Với
nhân cách cao đẹp, Hồ Chí Minh đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong dòng chảy
lịch sử nhân loại, góp phần làm phong phú và phát triển những giá trị chung của loài
người. Vì vậy, nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh sẽ góp phần làm sáng tỏ những
giá trị đặc sắc của Hồ Chí Minh.
Nhân cách Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển từ sự tác động - ảnh
hưởng đa chiều của các điều kiện kinh tế, lịch sử, môi trường văn hóa, xã hội và con
người của những nơi Người từng sống, học tập, làm việc, được biểu hiện qua tư
tưởng và hành động. Trong các không gian văn hóa ảnh hưởng đến sự hình thành và
phát triển nhân cách Hồ Chí Minh, Huế có vị trí đặc biệt quan trọng. Nơi đây hội tụ
tinh hoa văn hóa dân tộc, đồng thời cũng là vùng văn hóa mang sắc thái và dấu ấn
đặc trưng của văn hóa cung đình quyện hòa với văn hóa dân gian, Người cùng gia
đình sinh sống trong một khoảng thời gian khá dài, thời gian bắt đầu hình thành nhân
cách trước khi ra đi tìm đường cứu nước.
Tại kinh đô Huế, sự biến động về kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội đã tác
động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh. Bằng sự mẫn cảm của người học trò thông minh,
sự khát khao tìm tòi học hỏi, chiếm lĩnh tri thức mới, Người sớm thâu nhận những
giá trị của văn hóa Huế, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại. Đó là truyền
thống yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập, tự do; lối sống đoàn kết, thương
yêu, đùm bọc trong khó khăn hoạn nạn; lòng tự hào, tự tôn dân tộc của những vị vua
yêu nước, của những thầy dạy học và những nhà cách mạng tiền bối; tư tưởng “Tự
do, Bình đẳng, Bác ái” của văn hóa Pháp; tư tưởng dân tộc, dân chủ của Tân văn,
Tân thư... Để từ đó, Hồ Chí Minh có bước trưởng thành hơn trong suy nghĩ và hành
động, trực tiếp tham gia phong trào Duy Tân, đấu tranh chống thuế cùng nhân dân
Thừa Thiên. Những nhân tố quan trọng đó đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành
và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.



2
Thời kì Hồ Chí Minh ở Huế cũng là khoảng thời gian không chỉ để lại những
kỉ niệm đẹp về tuổi thơ hồn nhiên, về cuộc sống đầm ấm bên sự giáo dưỡng của
cha, sự yêu thương, đùm bọc của mẹ và làng xóm láng giềng… mà còn là nơi ghi
dấu những kỉ niệm đau buồn, mất mát về sự ra đi của người mẹ kính yêu, tiếng khóc
của em thơ khát sữa. Trên hết, chính nhờ sự giáo dục và nền nếp của một gia đình
nhà Nho yêu nước cùng với tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lối sống trọng
nghĩa trọng tình, đoàn kết, tương ái của văn hóa và con người xứ Huế, đã hun đúc
và hình thành nên nhân cách của một con người mà tương lai làm rạng danh cả một
dân tộc.
Thời gian sống ở Huế, tiếp nối văn hóa xứ Nghệ, văn hóa Huế đã thẩm thấu và
ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, hành động, góp phần quan trọng định hình nhân
cách của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Đúng như lời khẳng định
của Phạm Văn Đồng: “Thời gian ở Huế là thời gian Nguyễn Tất Thành lớn lên và
bắt đầu đi học. Những năm tháng đó là thời gian cực kỳ quan trọng đối với sự hình
thành con người Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, thời gian hình thành một con
người lạ lùng, với những ý tưởng lạ lùng, đưa đến những thành tựu lạ lùng” [172,
tr.6]. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu, luận giải về
sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Hồ Chí Minh.
Trong giai đoạn hiện nay, ý thức được tầm quan trọng của nguồn lực con người
trong phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta những năm qua đã ban hành nhiều văn
bản quan trọng (Chỉ thị 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 về “Tổ chức cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 05-CT/TW,
ngày 15/5/2016 “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”) nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng
sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở

thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, là cơ sở khoa học để xây
dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


3
Tuy nhiên, vấn đề nhân cách Hồ Chí Minh và phát huy giá trị nhân cách Hồ Chí
Minh lại chưa được chú trọng nghiên cứu và triển khai; chưa có các chuyên đề học
tập và sinh hoạt trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên, học sinh
sinh viên, cán bộ đảng viên, trong khi yêu cầu cấp bách hiện nay là xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, không chỉ về thể lực, trí lực, khả năng lao động
mà cần có đạo đức và trí tuệ, đúng như Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải xây dựng
những con người “vừa có đức vừa có tài”, “vừa hồng vừa chuyên”.
Từ ý nghĩa đó, nghiên cứu đề tài Không gian văn hóa Huế với sự hình thành
nhân cách Hồ Chí Minh để thấy được không gian văn hóa Huế ảnh hưởng rất lớn đến
sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh. Đồng thời, góp phần làm sáng rõ hơn về cuộc
đời, tiểu sử, sự nghiệp cách mạng và tư tưởng một con người vĩ đại, một nhân cách vĩ
đại - Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu và làm rõ những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế
đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó, phân tích những biểu hiện
của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế, từ đó rút
ra ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với việc phát triển nhân cách Hồ Chí Minh
cho con người Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm và cấu trúc nhân cách và nhân cách Hồ Chí Minh.
- Làm rõ những khái niệm, cấu trúc của không gian văn hóa Huế.
- Phân tích và luận giải các nhân tố của không gian văn hóa Huế ảnh hưởng

đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.
- Phân tích những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của
không gian văn hóa Huế.
- Rút ra một số nhận xét về sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự
hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với sự
phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay.


4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách
Hồ Chí Minh và những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ ảnh hưởng của
không gian văn hóa Huế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng không gian văn hóa
Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và những biểu hiện của nhân cách
Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế.
Tuy nhiên, trong luận án, nghiên cứu sinh chỉ đề cập đến những khía cạnh sau
đây: Thứ nhất, làm rõ các yếu tố cơ bản của không gian văn hóa Huế có ảnh hưởng
đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh; Thứ hai, làm rõ những biểu hiện của
nhân cách Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian sống ở Huế, dưới sự tác động của
không gian văn hóa Huế.
- Về không gian: Thừa Thiên Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu không gian văn hóa Huế trong khoảng cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, gắn với thời gian Hồ Chí Minh sống, học tập và hoạt
động ở Huế đến trước khi ra đi tìm đường cứu nước.
4. Cơ sở lí luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể
4.1. Cơ sở lí luận
Cơ sở lí luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh; quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong nghiên cứu về cuộc
đời, tiểu sử Hồ Chí Minh và văn hóa.
4.2. Phương pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp luận của việc
nghiên cứu, thực hiện đề tài luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân
cách Hồ Chí Minh được thực hiện trên cơ sở tiếp cận của các khoa học tổng hợp
liên ngành; trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.


5
- Tiếp cận liên ngành lấy lịch sử, khoa học lịch sử làm nền, sử dụng Hồ Chí
Minh học làm trục chính, văn hóa học, nhân học làm chất liệu nghiên cứu, phân tích
và luận chứng, làm rõ những vấn đề liên quan đến văn hóa, giá trị, nhân cách con
người. Các khoa học tâm lí học, giáo dục học, xã hội học, nghiên cứu con người
làm rõ các vấn đề liên quan đến nhân cách con người, sự ảnh hưởng của đời sống
đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
- Ngoài cơ sở lí luận và phương pháp luận nêu trên, tác giả còn sử dụng các
phương pháp như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, thống kê, so sánh, điền dã,
văn bản học, trao đổi với chuyên gia… nhằm tìm kiếm, phân tích các kết quả nghiên
cứu có sẵn để miêu tả, khái quát hoá toàn cảnh về chủ đề nghiên cứu từ các góc độ
khác nhau.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Làm rõ những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành
nhân cách Hồ Chí Minh.
- Trên cơ sở nghiên cứu sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự
hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, luận án góp phần làm rõ những biểu hiện của
nhân cách Hồ Chí Minh từ sự tác động của các yếu tố trong không gian văn hóa

Huế, gắn với quá trình Người sống và học tập tại Huế.
- Rút ra ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với việc phát triển nhân cách Hồ
Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm về cuộc đời, tiểu
sử, nguồn gốc hình thành tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh; hệ thống hoá các cứ
liệu lịch sử về những sinh hoạt, hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh thời kì ở
Huế (1895-1901 và 1906-1909).
- Luận án hệ thống hóa và làm rõ ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến
sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, luận giải về những biểu hiện của nhân cách
Hồ Chí Minh.


6
- Luận án rút ra một số nhận xét về những tác động của không gian văn hóa
Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và rút ra ý nghĩa của vấn đề nghiên
cứu đối với việc phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam
hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, tuyên truyền, học tập,
nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng, tiểu sử, sự nghiệp, nhân cách của Hồ Chí Minh tại
địa phương.
- Luận án có thể sử dụng làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nhân cách
Hồ Chí Minh; nghiên cứu những ảnh hưởng của các không gian văn hóa đến Hồ
Chí Minh, cũng như là nguồn tư liệu để giáo dục nhân cách cho học sinh sinh viên.
- Luận án có thể xây dựng thành tài liệu giáo dục lịch sử địa phương, định
hướng để giáo dục và rèn luyện nhân cách cho sinh viên trong các trường cao đẳng,
đại học, giáo dục lối sống trong gia đình, nhà trường và xã hội hiện nay.
7. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình của tác giả đã công bố
liên quan đến đề tài luận án và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 8 tiết.


7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu không gian văn hóa Huế
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Huế là một trong những trung tâm văn hóa của Việt Nam, luôn thu hút nhiều
nhà nghiên cứu nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên
cứu Huế chuyên sâu, hệ thống và hoàn chỉnh. Khảo sát thực tế cho thấy, các học giả
nước ngoài nghiên cứu Huế trên các lát cắt văn hóa hoặc gắn với các lĩnh vực cụ thể
nhất định. Trong đó, Hội Những người bạn Cố đô Huế (Association des Amis du
Vieux Hué - B.A.V.H) [118] có hẳn chuyên mục là “sưu tầm, bảo tồn và truyền đạt
những dấu tích xưa về chính trị tôn giáo, nghệ thuật và văn học liên quan đến Huế
và phụ cận”. Từ ý nghĩa đó, Tập san B.A.V.H (Bulletin des Amis du Vieux Hué) vốn
là nội san của Hội Những người bạn của Huế xưa (ra đời từ năm 1914 và hoạt động
đến giữa năm 1944 thì bị đình bản vì những biến cố lịch sử) chuyên viết về các vấn
đề văn hóa, lịch sử, địa lí, nghệ thuật, tôn giáo, phong tục, mĩ thuật, ngôn ngữ, dân
tộc học… Nguồn tư liệu viết được đề cập trong B.A.V.H rất phong phú, bao gồm:
tư liệu về Kinh thành Huế và phụ cận, kiến trúc vùng Huế, các vấn đề về tôn giáo,
tín ngưỡng, dân gian, câu hò, câu hát, ca dao hay cuộc sống trong cung đình hoặc
các chủ đề cụ thể như: đền, chùa, am, miếu, lễ nghi cung đình được đề cập sâu sắc.
Ngoài ra, tập san còn có những bài viết chuyên sâu vào các chủ đề như: kiến

trúc cung đình, tín ngưỡng và tôn giáo như đền, chùa, am, miếu như chùa Thiên
Mụ, Quốc Ân, Bảo Quốc, Diệu Đế, Từ Hiếu, Túy Vân, đền Voi Ré, Chiêu Ứng,
điện Huệ Nam.... Tác giả Đào Thái Hanh có nhiều bài nghiên cứu về các vị nữ thần
làm tăng thêm nét cổ kính của Cố đô Huế với một màu sắc huyền hoặc biểu thị lòng
tin vào thần linh của người dân vùng Huế xưa: Histoire de la déesse Thiên Y A
Na (Lịch sử nữ thần Thiên Y A Na), La déesse Liễu Hạnh (Nữ thần Liễu Hạnh),
Histoire de la déesse Thái Dương Phu Nhơn (Chuyện Thánh mẫu Thái Dương phu


8
nhân), Histoire de la déesse Kỳ Thạch Phù Nhơn (Sự tích của nữ thần Kỳ Thạch
phu nhơn)... Bên cạnh các lễ nghi cung đình, mảng tư liệu về tôn giáo, tín ngưỡng
của người An Nam cũng được đề cập trong B.A.V.H, nổi bật là các công trình có
giá trị của linh mục L.Cadière như: “L'Annam” (An Nam), “Introduction à l'étude
l'Annam et du Champa” (Hướng dẫn nghiên cứu về An Nam và Champa) và “La
Famille et la religion en pays Annamites” (Gia đình và tôn giáo ở các xứ An Nam).
Tác giả Nguyễn Đình Hòe đã có nhiều chuyên đề nghiên cứu về văn hóa lịch sử
Huế có giá trị như: Note sur les pins du Nam Giao (Esplanade des sacrifices) (Ghi
chú về những cây thông ở Nam Giao), La pagode de l’éléphant qui barrit (Miếu
Voi Ré), Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường (Ghi
chú về các tro di cốt Tây Sơn trong Khám Đường), Histoire de I’Ecole des Hâu Bô
de Hué (Lịch sử trường Hậu Bổ ở Huế), Les Barques royales et mandarinales dans
le vieux Hue (Thuyền ngự và thuyền quan thời Huế xưa), La pagode de Diệu
Đế (Chùa Diệu Đế), Quelques coins de la Citadelle de Hué (Một vài nơi ở Kinh
thành Huế). Các công trình nghiên cứu này được giới nghiên cứu đánh giá cao về sự
tâm huyết trong sưu tầm, công phu về biên soạn.
Đặc biệt, tập san đã dành nhiều trang nghiên cứu về lịch sử Huế và những vấn
đề liên quan từ khi Pháp chiếm Việt Nam, như: Quá trình can thiệp của Pháp vào
Việt Nam, Các cuộc phế lập ở Huế, Cuộc bôn ba của vua Hàm Nghi và căn cứ Tân
Sở, Những lễ nghi của Nam triều... Lịch sử Huế thời cận đại nằm trong khuôn khổ

của lịch sử Việt Nam (An Nam) nửa đầu thế kỉ XX, bao gồm các nguồn lịch sử triều
Nguyễn: từ Gia Long đến Bảo Đại; cuộc xâm lược An Nam của Pháp; công cuộc
bảo hộ của Pháp… Ngày nay, tập san B.A.V.H đã trở thành một nguồn tư liệu rất
phong phú, quý hiếm và có giá trị cho những ai muốn nghiên cứu về Huế.
Các công trình nghiên cứu trong Tập san B.A.V.H rất phong phú, mặc dù
không đi trực tiếp nghiên cứu “không gian văn hóa Huế”, nhưng lại tập trung
nghiên cứu các vấn đề nhỏ hơn của văn hóa Huế.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Thừa Thiên Huế với tư cách là một vùng văn hóa đặc trưng của Việt Nam đã
được nhiều nhà khoa học dày công nghiên cứu. Tuy nhiên, khảo sát các tài liệu


9
nghiên cứu về Huế, phần nhiều các học giả tập trung vào cấu trúc văn hóa (gồm văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần, hay văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể). Trong
số các công trình nghiên cứu về văn hóa tinh thần, chưa có công trình nghiên cứu
chuyên sâu về các giá trị văn hóa truyền thống của Huế và không gian văn hóa Huế,
cũng như những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân
cách Hồ Chí Minh trong những năm Người sống ở Huế. Liên quan đến nhóm công
trình này có thể điểm qua một số tài liệu sau:
Địa chí Thừa Thiên Huế là công trình của nhiều nhà khoa học cung cấp nguồn
tư liệu phong phú, xác thực về đặc điểm của vùng đất và con người Thừa Thiên
Huế. Công trình được xuất bản dưới dang sách và trang tin điện tử. Trang điện tử
Địa chí Thừa Thiên Huế [166] được biên soạn dưới hình thức địa chí tổng hợp gồm:
tự nhiên, lịch sử, dân cư và hành chính, kinh tế, văn hóa. Sau đó, Địa chí Thừa Thiên
Huế - Phần Tự nhiên [167], Phần Lịch sử [168] và Phần Dân cư và hành chính được
xuất bản. Về “Phần Văn hóa”, cho đến nay vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung và hoàn thiện. Trong khoa học nghiên cứu về Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế là
bộ công trình hữu ích, cung cấp hệ thống thông tin cần thiết trên nhiều phương diện
về vùng đất này. Tuy nhiên, bộ công trình này chưa thống nhất trong việc phân tích

lĩnh vực “Văn hóa” - một yếu tố quan trọng làm nên không gian văn hóa Huế.
Bên cạnh đó, hai công trình Văn hóa cố đô [181] và 700 năm Thuận Hóa Phú Xuân - Huế [185] do Nguyễn Đắc Xuân biên soạn đã giới thiệu tổng hợp về
triều Nguyễn và Huế xưa. Các công trình cung cấp bức tranh tổng quan về Huế với
địa lí - địa danh, lịch sử - sự kiện, văn hóa - giáo dục, văn hóa nghệ thuật, danh
nhân. Bên cạnh đó, ấn phẩm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế - 700 năm
hình thành và phát triển [68] đã đề cập tương đối đầy đủ và toàn diện về quá trình
hình thành và phát triển của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế
trong hơn 700 năm, trên các lĩnh vực: lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Đặc biệt, trong công trình này, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Tuyết Nga bước đầu
khẳng định Huế là vùng đất đánh dấu sự mở đầu của quá trình nhận thức, tư duy
yêu nước và cách mạng, góp phần quan trọng hình thành nên nhân cách của Nguyễn
Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Chính những cứ liệu quan trọng nêu
trên, cung cấp thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu không gian văn hóa Huế.


10
Nghiên cứu tổng thể văn hóa Huế không thể không kể đến Giáo trình Tổng
quan văn hóa Huế [150] của Trương Minh Trai. Đây là công trình nghiên cứu tổng
quan về văn hóa Huế, hình thành trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những thành tự
nghiên cứu về văn hóa Huế của các nhà khoa học và nhà nghiên cứu Huế, cung cấp
hệ thống tri thức về di tích, danh lam, thắng cảnh, các thiết chế văn hóa xưa nay, các
giá trị văn hóa tinh thần được bảo tồn khá nguyên vẹn và hiện hữu qua cuộc sống
thường ngày của người dân xứ Huế. Công trình này còn cung cấp một cách tiếp cận
văn hóa Huế trên ba phương diện gồm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, cảnh
quan và con người xứ Huế, đồng thời cung cấp một số khái niệm cần thiết về văn
hóa Huế. Mặc dù khá đầy đủ, tuy nhiên công trình này chưa làm rõ về không gian
văn hóa Huế, những đặc trưng và các giá trị văn hóa truyền thống của vùng đất này.
Tiếng Huế - Người Huế & Văn Hóa Huế [153] của Trung tâm nghiên cứu
Quốc học. Công trình này tổng hợp những bài phát biểu, bài nghiên cứu về Huế,
khám phá Huế ở những giá trị nhân văn về con người Huế - Văn hóa Huế. Đặc biệt,

Lê Nguyễn Lưu với bộ sách Văn Hóa Huế Xưa được biên soạn nhân kỷ niệm 700
năm lịch sử vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế (1306 - 2006). Bộ
sách gồm 3 tập: Đời sống văn hóa gia tộc [87], Đời sống văn hóa làng xã [88] và
Đời sống văn hóa cung đình [89]. Tác giả đã phân tích khá sâu sắc về văn hóa Huế
xưa từ đời sống văn hóa gia tộc (cội nguồn, các thiết chế, đời sống văn hóa vật thể
và phi vật thể), đến đời sống văn hóa làng xã (quá trình hình thành, cơ cấu tổ chức
và các văn hóa vật thể, phi vật thể trong làng xã) và đời sống văn hóa cung đình
(gắn với công cuộc xây dựng Phú Xuân - Huế, văn hóa vật thể và phi vật thể cung
đình Huế). Kết quả nghiên cứu của các công trình trên cung cấp những thông tin
cần thiết cho việc nghiên cứu không gian văn hóa Huế.
Tiếp cận văn hóa Huế từ nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, Trần Đức
Anh Sơn trong công trình Huế - Triều Nguyễn. Một cái nhìn [134] đã giới thiệu
văn hóa Huế dưới “cái nhìn” về sự tinh tế trong văn hóa vật chất đến văn hóa tinh
thần xứ Huế. Với một cách tiếp cận khác, Phan Thuận An qua công trình Quần thể
di tích Huế [4] nhấn mạnh đến “diện mạo” và “giá trị” của giá trị văn hóa vật chất.
Nhà nghiên cứu Phạm Thị Dung qua công trình Huế - Qua miền di sản [31], cung


11
cấp cái nhìn toàn cảnh về Huế theo tám chủ đề cụ thể: Di tích - Danh thắng xưa và
nay, Địa danh văn hóa, Làng quê nổi tiếng, Kiến trúc tôn giáo, Một phần di sản,
Kinh thành cổ kính, Lăng tẩm các triều vua, Nét riêng xứ Huế. Với các cách tiếp
cận nêu trên của các nhà nghiên cứu, chúng ta vẫn chưa thấy được những giá trị
văn hóa tinh thần của văn hóa Huế. Phải chăng đây là sự thiếu sót của các nhà
nghiên cứu này.
Trong bài viết “Cảm nhận về văn hóa xứ Huế” in trong công trình Văn hóa,
văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam [140] của Ngô Đức Thịnh và “Tiểu vùng
văn hóa xứ Huế” của Trần Quốc Vượng trong Cơ sở văn hóa Việt Nam [179] đã
chỉ ra những nét tiểu biểu của văn hóa Huế với tư cách là một vùng văn hóa,
không gian văn hóa mang tính địa phương, nối tiếp văn hóa Thăng Long - Hà Nội,

là bộ mặt của văn hóa Đại Việt thế kỉ XVIII-XIX. Mặc dù là hai công trình tiêu
biểu về văn hóa nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, tuy nhiên các tác giả
chưa đi sâu lý giải một thành tố quan trọng cấu thành văn hóa đó là hệ thống các
giá trị văn hóa truyền thống (hiểu theo nghĩa hẹp của định nghĩa văn hóa là các
giá trị văn hóa tinh thần).
Ngoài các công trình nêu trên, liên quan đến luận án còn có một số tài liệu
như: Văn hóa Huế trong dòng chảy văn hóa Việt [33], Di sản văn hóa cố đô Huế
[61], Một vài ý nghĩa về bản chất văn hóa Huế [158], Phác thảo về quá trình phát
triển của văn hóa Phú Xuân - Thời kì thành Hóa Châu [160], Bản sắc văn hóa dân
tộc qua sắc thái Huế” [178]…
Các công trình nêu trên mặc dù đã tiếp cận văn hóa Huế và không gian văn
hóa Huế theo các khía cạnh khác nhau, tuy nhiên hạn chế của các công trình này
chưa có sự thống nhất khi phân tích cấu trúc “không gian văn hóa Huế”, cũng như
hệ thống các giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của vùng đất này.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Công trình nghiên cứu nước ngoài
Các công trình nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh ở nước ngoài không
nhiều nên các nghiên cứu chuyên biệt về nhân cách Hồ Chí Minh gần như chưa
được thống kê cụ thể. Khảo sát các công trình, bài viết của các tác giả nước ngoài,


12
chưa thấy có công trình nào nghiên cứu trực diện và hệ thống về nhân cách Hồ Chí
Minh, đôi khi xuất hiện một số quan điểm, nhân định về các đặc điểm của nhân
cách Hồ Chí Minh gắn với quá trình hoạt động cách mạng của Người.
Đánh giá về Hồ Chí Minh, Hans D’Orville - Phó Tổng giám đốc UNESCO
nhận định: “Các chuyến bôn ba nước ngoài mà Người đã trải qua, những trào lưu tư
tưởng mà ông đã tiếp nhận và đặc biệt là khả năng giao hòa những sự đa dạng mà
Người đã tiếp thu đã khiến Hồ Chí Minh trở thành một người thầy về cuộc sống
trong một thế giới có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay” [122, tr.207]. Dấu ấn về

nhân cách Hồ Chí Minh tiếp tục được Charles Fenn viết trong lời tựa của cuốn sách
Hồ Chí Minh - Một chân dung: “Nếu chúng ta so sánh Hồ Chí Minh với các lãnh tụ
nổi tiếng khác của thế kỉ XX, chúng ta không thể không có ấn tượng khi biết rằng
trong một thời gian, Hồ Chí Minh đã đi đến nhiều nơi trên thế giới và đã bắt đầu in
dấu ấn của mình lên các biến cố quốc tế trước cả Mao Trạch Đông, Găng-đi, Nê-ru,
Ru-dơ-ven, Sơc-sin hay Đơ-Gôn được biết đến trên thế giới”.
Lady Borton và C. David Thomas trong công trình Hồ Chí Minh - Một chân
dung (HO CHI MINH - A Portrait) [76] đã tập hợp, nghiên cứu về cuộc đời và sự
nghiệp của Hồ Chí Minh. Tư liệu được tập hợp trong cuốn sách không có gì mới
nhưng lại được trình bày sáng tạo, cung cấp hệ thống tri thức về cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người. Các tác giả này đánh giá cao tư tưởng, phẩm chất đạo
đức trong sáng, cao đẹp của một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, nhưng cũng là một
con người vô cùng giản dị, khiêm tốn, gần gũi thân thiết với tất cả mọi người. Dẫn
lời giới thiệu của Charles Fenn, công trình khẳng định: “Cuộc sống cá nhân mẫu
mực, tính kiên định vì nền độc lập và tự do của Việt Nam, những thành quả phi
thường của Người bất chấp những khó khăn chồng chất, đã có thể đưa Hồ Chí
Minh trong sự phán xét cuối cùng của nhân loại lên hàng đầu danh sách những
lãnh tụ của thế kỉ 20”. Hồ Chí Minh với những cống hiến của mình đã góp phần
tạo nên một khuôn mặt mới của thế giới, đối thoại hòa bình thay cho chiến tranh,
phản ánh khát vọng của các dân tộc trong đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.


13
William J. Duiker với công trình Hồ Chí Minh cuộc đời (Ho Chi Minh a life)
[195] xuất bản lần đầu tiên vào năm 2000, được đánh giá là cuốn tiểu sử về Hồ Chí
Minh đầy đủ và có giá trị nhất Hoa Kỳ. Qua công trình này, tác giả nhận định Hồ Chí
Minh là “một trong những nhân vật chính trị có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ 20” - một
con người có “một tính cách lãnh đạo riêng bằng thuyết phục và đồng tâm hơn là áp
đặt ý chí quyền lực của mình cho người khác”; là biểu tượng có sức cổ vũ nhất của

đất nước ông, là nhà tổ chức tài ba, nhà chiến lược sắc sảo và nhà lãnh đạo có sức
thuyết phục. Con người Hồ Chí Minh một nửa là Lênin, một nửa là Gandhi; người
kết hợp được trong cá nhân mình hai sức mạnh trung tâm của lịch sử Việt Nam hiện
đại: khát vọng độc lập dân tộc và đòi hỏi công bằng xã hội và kinh tế. “Ông đã có
một vị trí trong ngôi đền các danh nhân cách mạng, những người đấu tranh kiên
cường để đưa lại cho những người cùng khổ trên toàn thế giới tiếng nói trung thực
của họ”.
Bên cạnh đó, Jean Lacouture, là tác giả công trình Ho Chi Minh, A Political
Biography (Hồ Chí Minh: Tiểu sử Chính trị”) in lần đầu năm 1967 [192]. Công trình
gồm 15 chương, mô tả một cách sinh động toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí
Minh. Lồng ghép trong những trình bày về quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh,
Jean Lacouture nêu bật những phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh - cơ sở cho
những thắng lợi mang tính tất yếu của cách mạng Việt Nam. Tác giả cho rằng Hồ Chí
Minh “là kiểu mẫu cao nhất và hầu như độc đáo, một người gắn bó mật thiết với quần
chúng”, là “người có óc xét đoán vượt trội với những năng khiếu đột hứng và trí
thông minh kỳ diệu”.
Đánh giá về những phẩm chất đặc biệt của Hồ Chí Minh, trong cuốn Why
Vietnam? (Tại sao Việt Nam?) [2] A. Pát-ti nhìn nhận ở Người có những phẩm chất
đặc biệt: “Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như một nhà cách mạng không thực tế
hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn, hét to
đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại mà không có những kế hoạch xây dựng
lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình,
một con người biết điều và tinh tế” [2, tr.92]. Tầm vóc của Hồ Chí Minh được tác
giả nhận định: “...Hơn một phần tư thế kỉ nay, chỉ có Hồ Chí Minh mới giữ được


14
cho ngọn đuốc độc lập bập bùng cháy trong trái tim, khối óc của những người Việt
Nam cộng sản cũng như không cộng sản, và duy nhất chỉ có ông đã trở thành hiện
thân của chủ nghĩa quốc gia Việt Nam, một Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn của Việt Nam...

Từ lâu ông đã trở thành Bác Hồ của người nghèo và tầm thường với một ánh hào
quang trên đầu mà tất cả các chế độ bù nhìn liên tiếp đã không bao giờ có khả năng
đánh đổ được”.
Nguyên Bí thư thứ nhất ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô N. Khơ-rút-sốp đã dành hẳn một chương trong cuốn Hồi ký của mình để viết về Hồ
Chí Minh: “Trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, tôi đã biết rất nhiều người
nhưng không có người nào gây được cho tôi ấn tượng đặc biệt như Hồ Chí Minh.
Người có đầu óc tín ngưỡng thường hay nói đến các vị thánh. Đúng vậy, với cách
sống và uy tín của ông đối với đồng bào trong nước, Hồ Chí Minh đúng là có thể so
sánh với “các vị thánh đỏ, một vị thánh cách mạng”... Mỗi lời nói của ông hình như
dựa vào niềm tin là về nguyên tắc tất cả mọi người cộng sản đều là anh em cùng
giai cấp, học chỉ có thể tỏ ra trung thực và chân thành với nhau mà thôi. Hồ Chí
Minh quả thật là một trong “các vị Thánh” của chủ nghĩa cộng sản” [108, tr.52-54].
Cũng với góc nhìn phẩm chất của Hồ Chí Minh, Stanley Karnow trên tờ Time (Mỹ)
có bài viết nhận định: Một thân hình gầy gò, chòm râu dài, chiếc áo khoác cũ và đôi
dép cao su đã mòn, Hồ Chí Minh đã tạo ra một hình ảnh Bác Hồ hiền lành giản dị.
Nhưng Người là nhà cách mạng dày dạn kinh nghiệm và một nhà dân tộc chủ nghĩa
nồng nhiệt, suốt đời đấu tranh cho một mục đích duy nhất: mang lại độc lập tự do cho
dân tộc mình. Không có sự dao động trong niềm tin của Hồ Chí Minh, không thể lay
chuyển ý chí của Người, ngay cả khi cuộc chiến tranh của Mỹ leo thang, tàn phá đất
nước, Người vẫn giữ niềm tin đối với nền độc lập của Việt Nam. Dưới con mắt
phương Tây, điều dường như không thể tưởng tượng được là Hồ Chí Minh có thể
cống hiến sự hi sinh to lớn như ông đã làm. Cũng với cách nhìn nhận ấy, trong bài
báo “Thăm một chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc” đăng trên tờ Ogoniok (Ngọn
lửa nhỏ) số 39, ngày 23/12/1923, nhà báo Liên Xô Ô-xíp Man-đen-sơ-tam viết: “Từ
Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ
là một nền văn hóa tương lai” [92, tr.462]. Ông còn nhận xét: “Qua phong thái


15
thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy

ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái thế giới” [92, tr.463].
Trong công trình “Ho” (Hồ) của David Halberstam, tác giả đánh giá Hồ Chí
Minh “là hiện thân của một cuộc cách mạng”, “là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng,
đấu tranh, hi sinh và thắng lợi”. Tác giả đi tìm nguyên nhân từ những yếu tố thuộc
phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh, đặc biệt nhấn mạnh Người “không cố tìm kiếm
cho mình những cái trang sức quyền lực vì ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của
ông với nhân dân”. Hay trong công trình Chủ tịch Hồ Chí Minh qua cảm nghĩ của
một người Hàn Quốc [1] của Ahn Kyong Hwan, cho rằng tinh thần yêu nước thương
dân, yêu dân tộc của Hồ Chí Minh, một nhân vật vĩ đại nhất xứng đáng là tấm gương
cho tất cả các nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới. Người đã không màng đến địa vị
của mình, được công nhận là một nhà lãnh đạo tầm cỡ thế giới, sống như cuộc sống
của người dân bình thường, chăm lo cải thiện cuộc sống của đồng bào Việt Nam.
Khẳng định giá trị và sức sống của phẩm chất nhân cách và giá trị tinh thần của
Hồ Chí Minh trong lòng nhân loại nói chung, đặc biệt là nhân dân các nước Mỹ
Latinh, nhà báo, nhà hoạt động chính trị I-gơ-na-xi-ô Gôn-xa-lết Han-xen trong
Tinh thần Hồ Chí Minh ở Mỹ Latinh [73] đã phân tích tầm nhìn xa và nhãn quan
chính trị thiên bẩm của Hồ Chí Minh. Theo tác giả, đối với những người cách mạng
và những nhà đấu tranh xã hội trên toàn thế giới, tấm gương đấu tranh của nhân dân
Việt Nam luôn gắn liền với tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh - tầm nhìn mang tính giác
ngộ, đoàn kết và tập hợp lực lượng, với một niềm tin vào chủ nghĩa yêu nước lịch
sử của quần chúng. Tầm nhìn xa và thiên bẩm chính trị Hồ Chí Minh được nảy sinh
từ mối quan hệ gắn bó với người dân và nhận thức nhạy bén trước những nguyện
vọng của nhân dân.
Trong số học giả nước ngoài nghiên cứu về Hồ Chí Minh, có nhiều người vừa
là “người quen”, vừa là đối thủ của Người trong các cuộc chiến tranh trước đây như
Tổng đại diện của Chính phủ Pháp Jean Sainteny. Trong công trình Face à Ho Chi
Minh (Đối diện Hồ Chí Minh) [193] đã khẳng định: “Chắc chắn, ông Hồ Chí Minh
là con người rất mực tế nhị, đến mức không cảm thấy tính giản dị của mình, lòng
tha thiết với những phong tục, tập quán của địa phương đã làm ông trở nên rất quần



16
chúng. Ngay kẻ thù của ông cũng không bao giờ hồ nghi cái điều giản dị ấy”. Hay
trong tác phẩm “Một nền hòa bình bị bỏ lỡ”, Sainteny đã viết một cách khách quan:
“Sự hiểu biết văn hóa rộng lớn, trí thông minh, những hoạt động phi thường và lòng
vô tư tuyệt đối đã làm cho uy tín của Người và lòng tin của nhân dân đối với Người
không gì so sánh nổi. Những lời nói, những hành động, thái độ của Người, đều
thuyết phục là Người không muốn dùng giải pháp bạo lực” [152, tr.94].
Tóm lại, khi nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh, những công trình nghiên cứu
của các học giả nước ngoài đã làm rõ một số nét đặc trưng về phẩm chất và năng lực
đặc biệt của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đến nay chưa thấy thống kê các công trình ở
nước ngoài nghiên cứu chuyên biệt về nhân cách Hồ Chí Minh. Mặc dù còn nhiều
vấn đề chưa có sự thống nhất về quan điểm, cách tiếp cận, thậm chí có những sai sót,
song tất cả đều phải thừa nhận rằng Hồ Chí Minh là một con người đặc biệt của dân
tộc và nhân loại, đã hi sinh đời mình cho Tổ quốc, cho phong trào giải phóng dân tộc
và phong trào hòa bình trên thế giới.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Nhân cách Hồ Chí Minh là một chủ đề khá mới trong khoa học nghiên cứu về
Hồ Chí Minh, do đó chưa có nhiều công trình luận giải về chủ đề này. Liên quan đến
nhóm công trình này có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
Trong công trình Nhân cách Hồ Chí Minh [136], tác giả Mạch Quang Thắng
luận giải khá sâu sắc về nhân cách Hồ Chí Minh. Tác giả đã luận giải từ “con đường
hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách Hồ Chí Minh” đến quan niệm “nhân
cách Hồ Chí Minh”, các đặc trưng và giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh. Trong
công trình này, tác giả chỉ đề cập đến “nhân tố gia đình, quê hương”, “truyền thống
văn hóa của dân tộc” nói chung, mà chưa đi sâu phân tích những ảnh hưởng của các
không gian văn hóa (trong đó có không gian văn hóa Huế) đến sự hình thành và
phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.
Trần Thái Bình với công trình Hồ Chí Minh - Sự hình thành một nhân cách
lớn [25] đã dành hẳn Phần 1 với 2 chương để nói về “Môi trường: Thiên - Địa Nhân” đã có những ảnh hưởng nhất định đến Hồ Chí Minh thời trẻ. Tuy nhiên, tác

giả cũng chưa nêu lên được sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình
thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.


17
Trong công trình Làng Sen năm ấy [146], tác giả Nguyễn Yên Thy cho rằng
nhân cách Hồ Chí Minh được hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1901 đến
1906. Tác giả khẳng định thời điểm đó, Hồ Chí Minh ở độ tuổi thiếu niên, nhạy
cảm, theo cha từ kinh thành Huế về quê. Tuổi thơ được sống trong khung cảnh ấm
áp tình người như vậy chắc chắn sẽ có những tác động lớn. Tuy nhiên, tác giả chưa
đưa ra những luận cứ, luận chứng thuyết phục để chứng minh không gian văn hóa
Nghệ - Tĩnh có ảnh hưởng quyết định sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và
cũng chưa làm rõ được những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh. Đây chính là
sự gợi mở để tiếp tục nghiên cứu không gian văn hóa thứ hai có ảnh hưởng lớn đến
Hồ Chí Minh - không gian văn hóa Huế.
Một trong những công trình kiến giải về nhân cách Hồ Chí Minh khá sâu sắc
là Tỏa sáng nhân cách Hồ Chí Minh [5] được in trong Xây dựng con người Việt
Nam theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh [6]. Tác giả Hoàng Anh xác định
“nhân cách Hồ Chí Minh” là một địa hạt nghiên cứu khó, nhưng nó lại có giá
trị trong thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, tác giả chỉ rõ nhân
cách Hồ Chí Minh được cấu thành từ hai thành tố là phẩm chất đạo đức và phẩm
chất trí tuệ, hay theo như Hồ Chí Minh, nhân cách là sự thống nhất giữa Đức và
Tài. Mặc dù tác giả đã cố gắng luận giải nội hàm của nhân cách Hồ Chí Minh khá
rõ nét, tuy nhiên, tác giả chưa có điều kiện nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, cơ
sở, nguồn gốc hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, công trình Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh - Giá trị và sức lan
tỏa [11] của Phạm Ngọc Anh đã chỉ ra tầm quan trọng của giá trị làm người, giá trị xã
hội to lớn của nhân cách Hồ Chí Minh đối với nhiều thế hệ người Việt Nam. Mặc dù
khẳng định việc nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh nói chung và nhân cách văn hóa nói

riêng là một công việc hết sức cấp bách và quan trọng, và cho đến nay, những nghiên
cứu về chủ đề này vẫn chỉ là bước đầu, là địa hạt mà chưa có nhiều công trình đào sâu
nghiên cứu. Tác giả đã chỉ ra những đặc trưng của nhân cách Hồ Chí Minh như: (1)
Sự khâm phục, đánh giá cao của xã hội, ở niềm tin và sức sống bất diệt bởi những giá
trị làm người, giá trị xã hội mà nhân cách Hồ Chí Minh đã được các thế hệ người Việt


18
Nam và nhân loại trên hành tinh chúng ta thừa nhận; (2) Chí hướng, nhân sinh quan,
thế giới quan khoa học, lí tưởng sống, niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp cứu dân, cứu
nước, sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân lao động toàn thế
giới; (3) Tình yêu quê hương, đất nước, yêu nhân dân sâu sắc gắn liền với lí tưởng và
tình cảm cách mạng của Người; (4) Tầm vóc và hiểu biết cao về lí luận cách mạng;
khả năng vận dụng lí luận vào thực tiễn một cách sáng tạo là một phẩm chất cơ bản
và cốt lõi; (5) Sức mạnh và ý chí, nghị lực, khát vọng phi thường trong đấu tranh cách
mạng; (6) Sự hòa quyện, sự kết đọng của sự thông tuệ dân gian; là sự thông minh, tế
nhị và mộc mạc của tinh hoa văn hóa Việt Nam thể hiện trong ứng xử hàng ngày; (7)
Tính đồng bộ, hệ thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhà nghiên cứu Đỗ Long trong Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học [84]
và Nguyễn Khắc Nho trong Hồ Chí Minh - Đỉnh cao truyền thống Nhân - Trí Dũng Việt Nam [116] tập trung luận giải hai nội dung quan trọng là “quá trình hình
thành tự ý thức” và “nhân cách Hồ Chí Minh”. Trong bài viết “Hồ Chí Minh: Một
nhân cách lớn” in trong ấn phẩm Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học, nhà
nghiên cứu Đỗ Long đã làm rõ nhân cách Hồ Chí Minh nhất quán với năm đặc
trưng: nhất quán về tư tưởng, nhất quán về trí tuệ, nhất quán về tình cảm, nhất quán
về ý chí, nhất quán về đạo đức và nhất quán về nếp sống.
Trong Kỷ yếu hội thảo Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh
nhân văn hóa [163] nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu với công trình “Nhân cách của
Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã nêu lên bảy phẩm chất của nhân cách Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, một số tác giả như Nguyễn Thị Chuẩn, Trương Minh Dục, Đặng Thị
Nhiệt Thu, Lê Bá Vương trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc “Một thế kỉ

Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước” (5/6/1911 - 5/6/2011) [164] đã luận giải những
điều kiện khách quan và chủ quan, những yếu tố tác động đến Nguyễn Tất Thành
trước khi ra đi tìm đường cứu nước. Các tác giả Võ Văn Minh, Nguyễn Văn Quang
bước đầu lý giải sự chuyển biến từ tinh thần yêu nước đến hành động cứu nước, tư
tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh thời trẻ.
Mặc dù không trực tiếp nghiên cứu về Nhân cách Hồ Chí Minh, nhưng trong
công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [48], Đại


19
tướng Võ Nguyên Giáp đã nêu rõ những phẩm chất của nhân cách văn hóa Hồ Chí
Minh, đó là: “sống có hoài bão, có lí tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc, nhất là
đối với những người cùng khổ bị áp bức, bóc lột, có bản lãnh kiên định, có khí tiết
kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục tiêu, lí tưởng đã lựa chọn; thông minh,
sắc sảo, nhạy bén với cái mới, ham học hỏi, có tư duy độc lập sáng tạo; có lòng tin
mãnh liệt ở nhân dân; có ý chí, nghị lực phi thường và đầu óc thực tế, nói đi đôi với
làm; mẫu mực về đạo đức cách mạng; tác phong bình dị, chân tình, khiêm tốn, có
sức cảm hóa lớn đối với mọi người; là bậc đại nhân, đại trí, đại dũng”… Đó là
những phẩm chất nổi bật trong nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh, được hình thành từ
tinh hoa văn hóa Đông - Tây, trên nền truyền thống văn hóa Việt Nam; là tổng hợp
nhuần nhuyễn giữa cách thức tư duy, trí tuệ, tình cảm và hành động đến mức giản
dị, khiêm tốn phi thường. Đúng như Tổng thống Cộng hòa Chilê X. Agienđê đã
khái quát: “Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi thường”.
Trên cơ sở những bài báo từ các hội thảo khoa học, Bảo tàng Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế đã tập hợp và xuất bản sách Âm vang thời Bác Hồ ở Huế [22],
gồm 14 bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về “Những năm tháng Bác Hồ
và gia đình Người ở Huế”. Một số bài viết bước đầu luận giải về sự ảnh hưởng
của đời sống chính trị - xã hội Huế đối với Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất
Thành. Tác giả Nguyễn Sĩ Đạm bước đầu chỉ rõ những tác động thúc đẩy sự phát

triển nhân cách và tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành ở Huế. Năm 2008,
Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế xuất bản ấn phẩm “Nghiên cứu, xác minh
tư liệu và di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kì 1890 - 1911” [20]. Các tác giả đã
khẳng định chính sự tham gia phong trào chống thuế cùng với nhân dân Thừa
Thiên Huế đã mở ra thời kì “dấn thân” hoạt động cách mạng và tìm đường cứu
nước của Nguyễn Tất Thành. Tác giả Cao Huy Hùng khẳng định rằng chính
những hoạt động thực tiễn sôi động trong phong trào cách mạng của nhân dân
Thừa Thiên Huế giai đoạn 1906 - 1909, đặc biệt là phong trào chống thuế 1908
đánh dấu bước chuyển từ nhận thức yêu nước đến hành động yêu nước và quyết
tâm ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.


20
Năm 2010 và 2011, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hai Hội
thảo về Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay [62] và Kỷ niệm 100 năm ngày
Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước [63]. Hội thảo đã tập hợp nhiều báo cáo của các
nhà khoa học trong cả nước luận giải về giá trị, ý nghĩa của di sản Hồ Chí Minh và
sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Các tác giả như Lê Văn Tích, Lê Văn
Yên, Đinh Xuân Lý đã làm rõ bối cảnh về lịch sử trong nước và thế giới những năm
đầu thế kỉ XX và quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành. Bên
cạnh đó, các tác giả như Phan Công Tuyên, Nguyễn Quốc Bảo, Nguyễn Văn
Quang, Lê Thị Hằng đã bước đầu làm rõ một số ảnh hưởng của văn hóa Huế đến sự
hình thành tư tưởng yêu nước, chí hướng cách mạng và nhân cách Hồ Chí Minh.
Tác giả Đức Vượng trong Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước của Hồ Chí
Minh [177] đã chỉ ra những luồng tư tưởng có ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh trước sự
lựa chọn con đường cứu nước và những nhân tố thúc đẩy Hồ Chí Minh sớm suy
nghĩ về con đường cứu nước, tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, nghiên cứu về đặc trưng, nội dung và giá trị của nhân cách Hồ Chí
Minh nói chung còn có một số bài báo của các tác giả như: Nhân cách Hồ Chí Minh Những giá trị thiết yếu trong hệ giá trị Việt Nam [59], Nhân cách Hồ Chí Minh
[137]... đã bước đầu làm rõ những đặc trưng, giá trị và sức lan tỏa và một phần nhân

cách Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh rất hạn chế.
Một số công trình mới chỉ đề cập đến những khía cạnh về phẩm chất hoặc năng lực
đặc biệt của Hồ Chí Minh.
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu những ảnh hưởng của không gian văn
hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh
1.1.3.1. Công trình nghiên cứu nước ngoài
Các công trình của các tác giả nước ngoài nghiên cứu về những ảnh hưởng của
không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh thật sự không nhiều, bởi lẽ đây
là một chủ đề khá hẹp. Hầu hết các nhà nhiên cứu nước ngoài chỉ điểm qua và nhận
định sơ lược về ảnh hưởng của các không gian văn hóa đến Hồ Chí Minh gắn với quá
trình hoạt động cách mạng của Người.


21
Trong các công trình của các tác giả nước ngoài nghiên cứu chủ đề ảnh hưởng
của không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh, phải kể đến bộ công trình
Đồng chí Hồ Chí Minh [30] của E. Cô-bê-lép. Công trình này được nghiên cứu công
phu, cung cấp nhiều hiểu biết chính xác về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Hồ
Chí Minh, gắn với thời kì lịch sử huy hoàng của dân tộc và những biến cố lớn lao của
thời đại, đồng thời giúp cho người đọc hiểu biết về tư tưởng, đạo đức, phong cách và
nhân cách của một lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đặc
biệt, trong công trình này, E. Cô-bê-lép luận giải sự chuyển biến về nhận thức và
hành động của Nguyễn Tất Thành trong quá trình dịch chuyển giữa hai vùng văn hóa:
xứ Nghệ và xứ Huế. Ông lý giải thời kì ở Huế, “những biến cố phi thường làm tâm trí
Thành sôi nổi hẳn lên. Mùa xuân năm 1908 là mùa xuân Thành học được những bài
học thực tiễn về đấu tranh chính trị, không khí sôi động của những cuộc nổi dậy của
quần chúng đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Thành. Đối với Thành, những ngày ấy
bằng cả mấy năm sống cổ lỗ đều đều ở làng Sen. Cuộc sống thực tế ở Huế cứ mỗi
ngày lại dạy thêm cho anh những bài học khắc nghiệt và bổ ích”.

Jean Lacouture, trong công trình Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh) [191], nhận định
rằng Hồ Chí Minh lớn lên trong cái nôi của phong trào yêu nước, cuộc đời hoạt động
cách mạng của anh “bắt đầu trong không khí bất công, oán hận và phẫn nộ, căm thù
chống lại nước Pháp”. Học giả David Helberstam cũng khẳng định: “Tư tưởng yêu
nước của Hồ được tăng cường ở Huế”, khi đang học ở Huế “Hồ tiếp tục các công
việc yêu nước một cách tích cực và cuối cùng ông đã rời bỏ trường này trước khi có
một mảnh bằng […] Ông là một con người muốn học thêm nữa bằng cách chu du ra
nước ngoài hơn là học trong trường khắt khe do Pháp đỡ đầu”.
1.1.3.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Khảo cứu các công trình nghiên cứu về những ảnh hưởng của không gian văn
hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Huế nói riêng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nghiên cứu
tổng thể, toàn diện và sâu sắc.
Liên quan đến nhóm công trình này, Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ
ở Huế [184] của Nguyễn Đắc Xuân là công trình nghiên cứu về thời niên thiếu của


×