Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

KL365 - TLHD Phap luat ve Thanh tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.82 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

MÔN HỌC

PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA

Biên soạn: Võ Nguyễn Nam Trung
Lâm Bá Khánh Toàn

Lưu hành nội bộ
Cần Thơ, 11/2012


MỤC LỤC
Lời nói đầu.....................................................................................................Trang i
Giới thiệu môn học....................................................................................................ii
CHƯƠNG 1: KHÁT QUÁT CHUNG VỀ THANH TRA.................................... 1
1.1. Khái niệm........................................................................................................1
1.2. Vai trò và đặc điểm của thanh tra..................................................................2
1.2.1. Vai trò của thanh tra........................................................................................2
1.2.2. Đặc điểm của thanh tra...................................................................................3
1.3. Hình thức, phương pháp và công cụ thanh tra.............................................4
1.3.1. Hình thức thanh tra.........................................................................................4
1.3.2. Phương pháp thanh tra....................................................................................5
1.3.3. Công cụ thanh tra............................................................................................5
1.4. Lược sử pháp luật về thanh tra ở Việt Nam..................................................6
1.4.1. Trước năm 1945..............................................................................................6
1.4.2. Từ năm 1945 đến 1990...................................................................................7


1.4.3. Từ 1990 đến 2004.........................................................................................10
1.4.4. Từ 2004 đến nay...........................................................................................12
CHƯƠNG 2: CƠ QUAN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ THANH TRA.................18
2.1. Hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước.........................................................18
2.1.1. Khái quát chung............................................................................................18
2.1.2. Hệ thống tổ chức...........................................................................................18
2.2. Cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành.............29
2.2.1. Cơ quan được giao........................................................................................29
2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành...........................................................................................................30
Chương 3: THANH TRA VIÊN............................................................................33
3.1. Khái niệm.......................................................................................................33
3.2. Tiêu chuẩn thanh tra viên............................................................................33
3.2.1. Tiêu chuẩn chung của thanh tra viên.............................................................33
3.2.2. Tiêu chuẩn các ngạch thanh tra viên.............................................................34
3.3. Bổ nhiệm, miễn nhiệm Thanh tra viên........................................................38
3.3.1. Bổ nhiệm Thanh tra viên...............................................................................38
3.3.2. Miễn nhiệm Thanh tra viên...........................................................................39


3.4. Cộng tác viên thanh tra................................................................................39
CHƯƠNG 4: HOẠT ĐỘNG THANH TRA.........................................................42
4.1. Khái quát chung về hoạt động thanh tra.....................................................43
4.2. Quy trình thanh tra.......................................................................................43
4.2.1. Chuẩn bị thanh tra........................................................................................43
4.2.2. Tổ chức thực hiện thanh tra..........................................................................45
4.2.3. Kết thúc thanh tra..........................................................................................46
4.3. Giám sát, kiểm tra hoạt động thanh tra......................................................49
4.3.1. Giám sát hoạt động thanh tra........................................................................49
4.3.2. Kiểm tra hoạt động thanh tra........................................................................49

CHƯƠNG 5: THANH TRA NHÂN DÂN............................................................51
5.1. Khái niệm.......................................................................................................51
5.2. Nhiệm vụ, quyền hạn....................................................................................51
5.2.1. Nhiệm vụ của Ban thanh tra nhân dân..........................................................51
5.2.2. Quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân.........................................................52
5.3. Tổ chức và hoạt động..................................................................................52
5.3.1. Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn..............................................52
5.3.2. Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước..................................................................................................................57


LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,
pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục;
phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hay nói cách khác,
thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra góp phần to lớn vào việc đảm bảo pháp chế
và kỷ luật trong hoạt động hành chính nhà nước. Nhận thấy được điều đó, với mục
đích đào tạo Cử nhân Luật chuyên ngành Luật Hành chính ngày càng chuyên sâu,
môn học Pháp luật về thanh tra được đưa vào chương trình giảng dạy của Trường
Đại học Cần Thơ từ khóa tuyển sinh năm 2010.
Tài liệu này được biên soạn phục vụ cho công tác đào tạo đối với hệ từ xa do đó
các nội dung chủ yếu mang tính gợi mở, định hướng để người học có thể chủ động
nghiên cứu. Tuy nhiên, cũng vì thế nội dung sẽ rất cô đọng, đòi hỏi người học phải
dành nhiều thời gian cho việc tự học.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình biên soạn, song tài liệu cũng không tránh
khỏi những thiếu sót. Tập thể tác giả kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô,
quý đồng nghiệp và các bạn sinh viên.

Nhóm biên soạn

i


GIỚI THIỆU MÔN HỌC

1.Khái quát chung về môn học
Môn học pháp luật về thanh tra giới thiệu những nội dung lý luận thanh tra;
Đồng thời cung cấp những kiến thức cơ bản về các cơ quan, tổ chức, người tham gia
thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Môn học cũng nhằm giới thiệu quy trình tiến hành
thanh tra, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình tiến hành hoạt động thanh
tra và xử lý kết quả thanh tra. Bên cạnh hoạt động thanh tra nhà nước, thanh tra nhân
dân là hoạt động góp phần to lớn vào việc đảm bảo pháp chế và kỷ luật trong quản lý
nhà nước, môn học cũng nhằm giới thiệu nội dung này.
2.Mục tiêu của môn học
Người học có được những hiểu biết về hoạt động thanh tra như cơ quan, tổ
chức, người tham gia thực hiện nhiệm vụ thanh tra; điều kiện, đối tượng thanh tra;
quy trình thực hiện thanh tra cũng như địa vị pháp lý của các bên tham gia vào quá
trình đó. Trên cơ sở tiếp cận này, bước đầu người học có nhận thức tổng thể về hiệu
quả của hoạt động thanh tra, phát hiện những sơ hở trong quy định cũng như thực
tiễn thực hiện.
3.Yêu cầu của môn học
Người học cần nắm vững kiến thức lý luận luật hành chính về quan hệ pháp
luật hành chính, chủ thể của luật hành chính và các hoạt động hành chính nhà nước
như xử lý vi phạm hành chính, quản lý nhà nước trong các lĩnh vực cơ bản.
4.Cấu trúc môn học
Môn học được kết cấu thành 5 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Khát quát chung về thanh tra
Chương 2: Hệ thống cơ quan thực hiện chức năng thanh tra

Chương 3: Thanh tra viên
Chương 4: Hoạt động thanh tra
Chương 5: Thanh tra nhân dân

ii


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

CHƯƠNG 1
KHÁT QUÁT CHUNG VỀ THANH TRA

1.1. Khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt, "Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của
địa phương, cơ quan, xí nghiệp"; Theo Từ điển Luật học, thanh tra "là sự tác động
của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt
được mục đích nhất định". Còn trong tiếng La tinh, thanh tra có nghĩa là "nhìn vào
bên trong", chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối
tượng nhất định;
Có thể thấy, thanh tra bao hàm trong đó nghĩa kiểm soát nhằm xem xét và phát
hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra, thanh tra còn
được hiểu là sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra thường xuyên, định kỳ nhằm rút ra
những nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị với các cơ quan nhà nước nhằm khắc
phục những nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước.
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra

nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.1
Theo đó, Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Còn Thanh tra chuyên ngành là
hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định
về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.2
 Phân biệt thanh tra, giám sát và kiểm tra
Giám sát theo nghĩa chung nhất là “theo dõi, kiểm tra thực hiện nhiệm vụ” 3. Ở
góc độ pháp lý, với tính chất là một biện pháp bảo đảm pháp chế trong hoạt động
quản lý nhà nước, giám sát được xác định là hoạt động của các cơ quan quyền lực
nhà nước đối với hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan
kiểm sát. Bên cạnh đó, các chủ thể khác như công dân, tổ chức và toàn xã hội cũng
tham gia vào hoạt động giám sát quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước. Đối
1

Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
Khoản 2 và 3 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.
3
Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, 1998.
2

Pháp luật về thanh tra

Trang 1


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra


tượng của hoạt động giám sát là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương
cũng như cán bộ, công chức và viên chức. Nội dung giám sát là tính hợp hiến, hợp
pháp trong việc ban hành văn bản và trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Còn hoạt động kiểm tra thường được hiểu là việc các cơ quan nhà nước thực
hiện quá trình xem xét, kiểm tra hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc hoặc
chính cơ quan của mình nhằm phát hiện những sai phạm, yếu kém từ đó đưa ra các
biện pháp giải quyết.
1.2. Vai trò và đặc điểm của thanh tra
1.2.1. Vai trò của thanh tra
Thanh tra là nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước, là giai đoạn cuối
cùng trong quy trình quản lý, có vai trò kiểm định, đánh giá hiệu quả hoạt động quản
lý nhà nước. Thông qua thanh tra để có các kiến nghị, giải pháp khắc phục những
thiếu sót, yếu kém, cũng như đề xuất những biện pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả
quản lý và sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm quản lý tốt hơn, hiệu quả hơn. Chính vì
vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước cần phải có thanh tra và thanh tra phải phục
vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước.
Vai trò này được thể hiện ở các điểm sau:
- Thứ nhất, thanh tra là phương thức bảo đảm trật tự, kỷ cương trong quản lý,
góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Thứ hai, việc thanh tra còn nhằm mở rộng và bảo đảm cho quyền dân chủ của
nhân dân được thực thi một cách nghiêm minh.
- Thứ ba, vai trò quan trọng nữa của thanh tra là nhằm tham mưu cho các cấp
chính quyền trong giải quyết khiếu nại hành chính, nhất là trong việc thực hiện
nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc các cấp, các ngành trong việc tiếp công dân, nhận các
khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo và thi hành quyết định giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thanh tra năm 2010 thì mục đích của hoạt động
thanh tra là: “phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến
nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát

hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện
đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.’’.
Như vậy, hoạt động thanh tra là nhằm điều chỉnh cách thức, phương pháp quản
lý của các cơ quan quản lý nhà nước, với ý nghĩa là bảo vệ mục đích của quản lý nhà
nước, tạo điều kiện cho công dân thực hiện tốt các quyền của mình trên thực tế.
Pháp luật về thanh tra

Trang 2


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

1.2.2. Đặc điểm của thanh tra
Thanh tra là một hoạt động trong quá trình quản lý nhà nước và giúp quá trình
này được khép kín. Từ các hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện quyết định quản
lý được gắn bó chặt chẽ hơn, từ việc đánh giá việc thực hiện các chủ trương, chính
sách, đến việc đề xuất các biện pháp hoàn thiện chủ trương, chính sách, nâng cao
hiệu quả quản lý của chủ thể. Đó là quy trình, quy luật tất yếu trong bất cứ hoạt động
quản lý của Nhà nước nào.
Có thể thấy, hoạt động thanh tra mang những đặc điểm sau:


Tính quyền lực nhà nước

Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác
động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối t ượng quản

lý. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền
uy - phục tùng. Thanh tra được nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong
quá trình quản lý, bởi theo Lênin, thanh tra mà thiếu quyền lực là thanh tra suông.
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra được thể hiện ở những mặt sau
đây:
- Ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng bị thanh tra về
những vấn đề đã bị thanh tra phát hiện và xử lý;
- Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra; yêu cầu truy cứu
trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật;
- Trong những trường hợp cần thiết, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước.
Ngoài ra, tính quyền lực nhà nước của thanh tra còn được cụ thể hoá ở chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức thanh tra; phương thức tiến hành thanh
tra; xử lý kết quả thanh tra; trong mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng
thanh tra cũng như trong sự phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước theo cấp
hành chính và theo ngành, lĩnh vực.


Tính khách quan

Bản chất của thanh tra là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của các cơ quan, tổ chức và cá nhân nhằm
đưa ra kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phòng ngừa và xử lý vi phạm. Vì
thế, hoạt động thanh tra phải mang tính khách quan. Tính khách quan của hoạt động
thanh tra được biểu hiện ở chỗ mọi hoạt động thanh tra đều phải dựa trên các quy
định pháp luật và phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Nếu như hoạt động thanh tra mà
không dựa trên cơ sở pháp luật thì nó sẽ mất đi tính công minh, ảnh hưởng đến hiệu
quả quản lý nhà nước.
Pháp luật về thanh tra


Trang 3


Chương 1



Khái quát chung về thanh tra

Tính độc lập tương đối

Tính độc lập tương đối là đặc điểm vốn có, gắn liền với bản chất của thanh tra.
Khác với hoạt động kiểm tra, thường do chính các cơ quan quản lý nhà nước tự tiến
hành trong nội bộ, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan
chuyên trách. Vì vậy, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, ngoài việc đảm
bảo sự phối kết hợp nhịp nhàng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, hoạt
động thanh tra còn có tính độc lập tương đối trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
Có thể thấy, tính độc lập của thanh tra chỉ là tương đối. Vì hoạt động thanh tra
ngoài việc căn cứ vào pháp luật, chính sách hiện hành còn xuất phát từ thực tế cuộc
sống, vào tính hợp lý của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.


Thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước

Điểm chung của hoạt động quản lý nhà nước và thanh tra là nhân danh quyền
lực nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng quản lý. Hơn nữa, với tư cách
là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với hoạt động
quản lý nhà nước. Như vậy, quản lý nhà nước và thanh tra có mối quan hệ mật thiết
với nhau.
Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà nước và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó

có thanh tra.Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối
hoạt động của thanh tra. Hơn nữa, hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước thường
bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình chấp hành các văn bản pháp luật
đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tuy nhiên, xét về mặt cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh thanh tra chỉ là
phương tiện, công cụ để quản lý nhà nước.
Ngoài ra, với tư cách là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng
buộc, chế ước bởi quản lý nhưng đồng thời lại tác động trở lại, góp phần điều chỉnh
cách thức, phương pháp quản lý của chủ thể quản lý. Nhờ có thanh tra mà mục đích
của quản lý được đảm bảo.
1.3. Hình thức, phương pháp và công cụ thanh tra
1.3.1. Hình thức thanh tra
Hình thức thanh tra là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động thanh tra. Phụ
thuộc vào các cách phân loại khác nhau hay các căn cứ phân loại khác nhau mà có
nhiều hình thức thanh tra khác nhau.
- Căn cứ vào phạm vi, quy mô của cuộc thanh tra có: Thanh tra diện rộng,
thanh tra diện hẹp.
- Căn cứ vào chương trình thanh tra có: Thanh tra theo kế hoạch; thanh tra
thường xuyên, thanh tra đột xuất.
Pháp luật về thanh tra

Trang 4


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

- Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của hoạt động thanh tra có: Thanh tra kinh
tế - xã hội; thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra công vụ.

1.3.2. Phương pháp thanh tra
Phương pháp thanh tra là cách thức, biện pháp mà cơ quan, người có thẩm
quyền thanh tra sử dụng để thực hiện hoạt động thanh tra nhằm đạt được mục đích đề
ra.
Việc sử dụng các phương pháp này để thực hiện hoạt động thanh tra tuỳ thuộc
vào đặc điểm, tính chất của vụ việc, của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng của
thanh tra. Bên cạnh đó, còn tuỳ thuộc vào chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan, người
có thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra. Trong quá trình thanh tra, các phương
pháp chủ yếu sau đây thường sử dụng:
- Thu thập và nghiên cứu thông tin, hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan;
- Nghiên cứu, so sánh, thống kê các dữ liệu ;
- Thu thập ý kiến từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức;
- Tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn;
- Thuyết phục đối tượng thanh tra tích cực hợp tác với chủ thể thanh tra;
- Chất vấn đối tượng thanh tra;
- Xử lý kịp thời, đúng pháp luật những hành vi gây cản trở đến hoạt động
thanh tra.
1.3.3. Công cụ thanh tra
Những phương tiện mà chủ thể thanh tra sử dụng để thực hiện hoạt động
thanh tra chính là công cụ thanh tra và nếu thiếu những công cụ này thì hoạt động
thanh tra không thể thực hiện được. Các loại công cụ thanh tra được sử dụng bao
gồm:
Văn bản pháp luật là công cụ rất quan trọng của hoạt động thanh tra, do đây
chính là cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động thanh tra. Nếu không có văn bản pháp
luật thì không thể thực hiện hoạt động thanh tra; không thể đưa ra được kết luận đúng
sai về vụ việc.
Kế hoạch thanh tra4 - những chương trình hành động cụ thể của cơ quan,
người có thẩm quyền thanh tra đã được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt,
thông qua - vừa là nhiệm vụ vừa mang tính chất định hướng cho hoạt động của chủ
thể thanh tra.

Hồ sơ, tài liệu về vụ việc giúp cho chủ thể thanh tra hiểu được nội dung, bản
chất của vụ việc để từ đó đưa ra những kết luận và quyết định hoặc đề nghị biện pháp
xử lý thích hợp. Chủ thể thanh tra cần thu thập đầy đủ hồ sơ, tài liệu về vụ việc bằng
4

Xem thêm Khoản 5 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010.

Pháp luật về thanh tra

Trang 5


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

cách: yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp; đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân
cung cấp; trực tiếp khảo sát, nghiên cứu;…
Quá trình thanh tra cần được ghi thành biên bản hoặc ra những văn bản nhất
định để bảo đảm giá trị pháp lý của hoạt động thanh tra đã thực hiện.
1.4. Lược sử pháp luật về thanh tra ở Việt Nam
1.4.1. Trước năm 1945
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, trải qua hơn nghìn năm Bắc thuộc cũng
như sau đó các triều đại phong kiến kế tiếp nhau, mặc dù chưa có cơ quan với tên gọi
“ thanh tra”, nhưng chức năng thanh tra thì đã hình thành. Để kiểm tra các hoạt động
của quan lại và can gián nhà vua, ngay từ thời nhà Lý đã có chức quan “Ngự sử đại
phu” đặt ra dưới triều Lý Thái Tổ hoặc “Gián nghị đại phu”, “Tả hữu gián nghị đại
phu”.
Sang đời nhà Trần bắt đầu đặt Ngự sử đài là cơ quan làm nhiệm vụ: “đàn hặc
các quan, nói bàn về chính sự hiện thời. Phàm các quan làm trái phép, chính sự hiện

thời còn thiếu sót đều được xét hoặc trình bày, cùng là xét bàn thành tích của các nha
môn, đề lĩnh, phủ doãn, thừa ty và xét hỏi các vụ kiện về người quyền quý ở kinh ức
hiếp, về người cai quản hà lạm...”5; có các chức như Thị Ngự sử, Giám sát Ngự sử,
Ngự sử trung tán.
Đến thời Lê đặt thêm các chức Trung thừa, Phó Trung thừa, Chủ bạ, Đô ngự sử,
Phó Đô ngự sử, Thiêm Đô ngự sử. Lê Thái Tổ cũng theo chế độ nhà Trần, đặt Ngự
sử đài giữ việc xem xét, chấn chỉnh kỷ cương trong triều, gọi là “ngôn quan” 6.
Sang đời Nguyễn, thời vua Gia Long, năm 1804 đặt ra các chức quan phụ trách
công tác giám sát tối cao là Đô ngự sử và Phó Đô ngự sử phụ trách ngự sử đài. Đến
vua Minh Mạng đổi tên Ngự sử đài thành Đô sát viện nhưng về cơ bản nhiệm vụ
cũng là can gián nhà vua, chất vấn quan lại không phân biệt chức vị cao hay thấp về
thực thi nhiệm vụ chấp hành pháp luật, đối xử với nhân dân nhằm giữ gìn kỉ cương
phép nước. Quyền hành của Đô sát viện rất lớn, người đứng đầu phải có hàm nhị
phẩm, tương đương với chức thượng thư.

1.4.2. Từ năm 1945 đến 1990
Từ khi bắt đầu thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945,
để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hiện tượng quan liêu, tha hóa ngay trong bộ
máy Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11
năm 1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt " có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các
công việc và các nhân viên của các Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”.
5
6

Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí tập II, NXB Sử học, 1961.
Thanh tra Nhà nước, Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra tập IIA, 2003.

Pháp luật về thanh tra

Trang 6



Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

Sắc lệnh là cơ sở pháp lý cho hoạt động của Ban Thanh tra, đồng thời cũng là một
trong những văn kiện pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống luật
pháp về thanh tra. Cũng theo Sắc lệnh 64, tổ chức thanh tra được xác định là một bộ
phận cần thiết có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu trong công tác quản lý
điều hành của Chính phủ. Thẩm quyền Ban thanh tra đặc biệt rất lớn, có toàn quyền
nhận các đơn khiếu nại của nhân dân; Điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy
tờ của các Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc
giám sát; Đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Uỷ ban nhân dân hay của
Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Toà án đặc biệt
xét xử; Tịch biên hoặc niêm phong những tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập
một hồ sơ mang một phạm nhân ra Toà án đặc biệt.
Đặc biệt, Ban thanh tra có thể truy tố cả các việc đã xảy ra trước ngày ban bố
sắc lệnh này, có quyền đề nghị lên Chính phủ những điều cần sửa đổi trong các cơ
quan.
Bên cạnh Ban thanh tra đặc biệt nói trên, trong Sắc lệnh số 57-SL ngày
3/5/1946 về tổ chức bộ máy của các Bộ đã quy định trong mỗi Bộ: “có một Văn
phòng, các Nha và có thể có một cơ quan thanh tra và ban cố vấn”. Các tổ chức
thanh tra này kiểm tra việc chấp hành và điều hành trong phạm vi Bộ mình.
Sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động toàn dân đứng lên tiến hành cuộc
kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp (19/12/1946), hoạt động thanh tra đã được
thay đổi cho phù hợp với điều kiện kháng chiến. Hoạt động của Ban Thanh tra đặc
biệt không còn phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Chính phủ thành lập các Đặc uỷ Đoàn
và các Đặc phái viên hoạt động có tính cách như một cơ quan Thanh tra của Chính
phủ.

Cuối năm 1949, để thống nhất hoạt động thanh tra trong cả nước, tại phiên họp
toàn thể, Hội đồng Chính phủ ra quyết nghị giải thể Ban Thanh tra đặc biệt và thành
lập Ban thanh tra Chính phủ. Nhiệm vụ của Ban Thanh tra Chính phủ lúc này là: xem
xét sự thi hành chính sách, chủ trương của Chính phủ; xem xét các ủy viên Ủy ban
kháng chiến hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết; thanh tra sự khiếu
nại của nhân dân.
Sau năm 1954 tình hình đất nước chuyển sang giai đoạn mới, thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh thống nhất
đất nước ở Miền Nam. Vì vậy công tác thanh tra cũng được tổ chức, hoạt động cho
phù hợp với tình hình mới. Đáp ứng yêu cầu thực tiễn của việc quản lý nhà n ước,
ngày 28/3/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Sắc lệnh số 261-SL quy định thành lập
Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà với mục
đích: để đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách và mệnh lệnh của
Chính phủ, để giữ gìn pháp luật và bảo hộ tài sản của nhà nước (Điều 1). Sắc lệnh
Pháp luật về thanh tra

Trang 7


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

nêu rõ nhiệm vụ của Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ (Điều 2): Thanh tra
công tác các Bộ, các cơ quan hành chính và chuyên môn các cấp, các doanh nghiệp
của nhà nước; thanh tra việc thực hiện hiện kế hoạch nhà nước, việc sử dụng, bảo
quản tài sản nhà nước, chống phá hoại, tham ô và lãng phí. Như vậy chức năng,
nhiệm vụ đã có sự thay đổi căn bản, trọng tâm là hướng hoạt động thanh tra vào việc
thanh tra nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước.
Vị trí của Ban Thanh tra Trung ương cũng tương đương với một Bộ, gián tiếp

thông qua quy định tại Điều 5: “Tổng Thanh tra được hưởng mọi quyền lợi như Bộ
trưởng. Tổng Thanh tra phó được hưởng mọi quyền lợi như Thứ trưởng”. Sắc lệnh
261 cũng quy định về việc thành lập Ban thanh tra ở các Bộ cần thiết và các khu,
thành phố, tỉnh sẽ do Nghị định của Thủ tướng Chính phủ quy định sau.
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 18/LCT công bố Luật tổ
chức Hội đồng Chính phủ . Tại Điều 3 của Luật này quy định Ủy ban thanh tra của
Chính phủ là cơ quan ngang Bộ. Như vậy Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ
được đổi tên thành Ủy ban thanh tra của Chính phủ. Trên cơ sở Luật tổ chức Hội
đồng Chính phủ, ngày 29/09/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số
136/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của cơ quan này. Ủy ban
Thanh tra của Chính phủ có trách nhiệm giữ gìn kỷ luật Nhà nước bảo đảm chấp
hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Sang năm 1965, do Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại trên tòan miền Bắc nên
Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 93/NQUBTVQH ngày
6/11/1965 phê chuẩn việc giải thể Uỷ ban thanh tra Chính phủ; hoạt động thanh tra
được giao cho thủ trưởng các cấp, các ngành phụ trách, để gắn liền công tác thanh tra
với việc chỉ đạo thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và nhiệm vụ công tác khác. Cụ
thể công tác thanh tra ở trung ương được giao cho Văn phòng Phủ Thủ tướng đảm
nhiệm. Ở các tỉnh, thành phố, hoạt động thanh tra đươc giao cho Uỷ ban hành chính
các cấp đảm nhiệm. Riêng ở các Bộ, Tổng cục, tổ chức thanh tra vẫn tiếp tục hoạt
động.
Qua một số năm, thực tế cho thấy do sự thiếu vắng công tác chỉ đạo nghiệp vụ
thanh tra đã dẫn đến sự bất cập như : các ngành, các cấp không bao quát hết toàn bộ
quá trình tổ chức, triển khai thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách; các cơ quan
chuyên môn không đáp ứng yêu cầu tham mưu cho lãnh đạo trong việc chỉ đạo quản
lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội. Mặt khác, tình trạng buông lỏng quản lý làm
phát sinh nhiều tiêu cực; tình hình khiếu nại, tố cáo gia tăng. Đứng trước thực tế trên,
ngày 11/8/1969, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Quốc hội ra Nghị quyết số 786/NQTVQH thành lập Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ.
Ngày 31/8/1970, để kiện toàn tổ chức, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định
số 165/CP qui định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban thanh tra của

Pháp luật về thanh tra

Trang 8


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

Chính phủ. Nghị định quy định: Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ là cơ quan của Hội
đồng Chính phủ có trách nhiệm thanh tra việc thực hiện các chủ trương chính sách
của Đảng và Chính phủ, pháp luật của nhà nước, kế hoạch và ngân sách của nhà
nước nhằm tăng cường kỷ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, cải tiến tổ chức và lề
lối làm việc trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Sau ngày đất nước thống nhất, ở miền Nam, cho đến giữa năm 1976, tại phần
lớn các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở miền Nam đều đã thành lập cơ quan
thanh tra. Đồng thời, tại nhiều địa phương, cấp ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố cũng bắt đầu coi trọng việc tổ chức các Uỷ ban thanh tra cấp huyện và tương
đương.
Trước sự phát triển về kinh tế, xã hội của đất nước nói chung, đồng thời để
thống nhất, kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước, ngày 03/01/1977 Chính phủ ban
hành Nghị định số 01 quy định tổ chức và hoạt động của Ủy ban Thanh tra Chính
phủ gồm 3 chương, nêu rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của
Uỷ ban Thanh tra Chính phủ và thanh tra các ngành, các cấp. Trong Nghị định quy
định rõ nhiệm vụ của Ủy ban Thanh tra là hướng dẫn, đôn đốc thủ trưởng các ngành
các cấp làm đúng trách nhiệm của mình trong việc xét, giải quyết các đơn, thư khiếu
nại, tố cáo của nhân dân; đồng thời tự mình xét, giải quyết các đ ơn thư khiếu tố.
Nghị định số 01/CP của Chính phủ là văn bản có tính pháp lý để ngành thanh tra mở
rộng tổ chức trong cả nước, xác định việc xây dựng hệ thống Ủy ban Thanh tra cấp
huyện và tương đương; hình thành một hệ thống tổ chức bao gồm các cơ quan thanh

tra chuyên trách của Nhà nước ở các cấp, các ngành và tổ chức thanh tra nhân dân tại
các cơ sở.
Ngày 15/02/1984, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị quyết số 26/HÐBT về việc tăng
cường tổ chức thanh tra và nâng cao hiệu quả thanh tra. Ủy ban Thanh tra Chính phủ
được đổi tên thành Uỷ ban Thanh tra Nhà nước trung ương. Về chức năng, nhiệm vụ
về cơ bản vẫn thực hiện theo Điều lệ tổ chức và hoạt động thanh tra của Ủy ban
Thanh tra của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 01 ngày 03/01/1977. Về
tổ chức thanh tra được quy định như sau: “Hệ thống thanh tra các cấp gồm Ủy ban
Thanh tra Nhà nước trung ương (sau đổi tên thành Ủy ban Thanh tra Nhà nước theo
Nghị định số 77 ngày 7/3/1985); Ủy ban thanh tra Nhà nước cấp tỉnh, thành phố,
huyện, quận và tương đương (sau đổi tên thành Uỷ ban Thanh tra tỉnh, thành phố đặc
khu trực thuộc Trung ương và Ban thanh tra quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh theo Nghị định số 77 ngày 7/3/1985); Ban thanh tra nhân dân cấp cơ sở. Đó là
một hệ thống được quản lý và chỉ đạo tập trung, thống nhất từ Trung ương đến cơ
sở”.

Pháp luật về thanh tra

Trang 9


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

Nghị quyết 26 của Hội đồng Bộ trưởng đã nhấn mạnh một lần nữa vị trí, vai trò
của hoạt động thanh tra trong quản lý Nhà nước. Trên cơ sở đó Uỷ ban thanh tra Nhà
nước cùng Bộ Tư pháp đã nghiên cứu soạn thảo pháp lệnh về công tác thanh tra.
1.4.3. Từ 1990 đến 2004
Sang thời kỳ đổi mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước đòi hỏi phải

có sự thay đổi cả về tổ chức và hoạt động của công tác thanh tra. Vì vậy ngày
01/4/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước công bố ban hành Pháp lệnh Thanh tra (có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6//1990). Là một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất
từ trước đến thời điểm bấy giờ, Pháp lệnh đã thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về tổ chức và hoạt động của thanh tra. Điều
1 Pháp lệnh Thanh tra 1990 ghi nhận ngay mục đích của thanh tra là “nhằm phát huy
nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành
nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công
dân” cho thấy Đảng và Nhà nước tiếp tục đánh giá cao vai trò của công tác thanh
tra.
Trên cơ sở Pháp lệnh Thanh tra 1990, một loạt các văn bản pháp lý khác được
ban hành để làm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra. Hội
đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 244 ngày 30/6/1990 quy định rõ hơn về tổ
chức của cơ quan thanh tra Nhà nước bao gồm: Vụ Thanh tra kinh tế 1, Vụ Thanh tra
kinh tế 2; Vụ Thanh tra nội chính – văn xã; Vụ Thanh tra xét khiếu tố; Vụ Tổng hợp
– pháp chế; Vụ Tổ chức cán bộ; Văn phòng và các đơn vị trực thuộc là : Trường Cán
bộ thanh tra; Tạp chí Thanh tra. Ngày 18/6/1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị
định 191 Quy chế thanh tra viên và việc sử dụng cộng tác viên thanh tra . Thanh tra
viên được phân làm 3 cấp theo thứ tự từ thấp đến cao: Thanh tra viên cấp 1 do Chủ
tịch UBND tỉnh, thành phố hoặc do Bộ trưởng bổ nhiệm; Thanh tra viên cấp II do
Tổng thanh tra Nhà nước bổ nhiệm; Thanh tra viên cấp III do Thủ tướng Chính phủ
bổ nhiệm. Sau này theo Nghị định số 25/Chính phủ ngày 23/5/1993 của Chính phủ
các chức danh Thanh tra viên được đổi thành Thanh tra viên, Thanh tra viên chính,
Thanh tra viên cao cấp.
Trong Pháp lệnh thanh tra 1990 chưa đề cập đến tổ chức và hoạt động của
Thanh tra chuyên ngành. Loại hình tổ chức này, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao
cho Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức hoạt động của thanh tra chuyên ngành ở
một lĩnh vực cụ thể. Ví dụ như Chính phủ quy định chi tiết tổ chức và hoạt động của
Thanh tra chuyên ngành Y tế, giáo dục…Chính vì nằm rải rác trong nhiều văn bản

pháp lý khác nhau dẫn đến không có quy định thống nhất về loại hình thanh tra này.

Pháp luật về thanh tra

Trang 10


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

Bên cạnh đó, Pháp lệnh còn quy định rõ để phân biệt giữa: hệ thống Thanh tra
Nhà nước và các tổ chức thanh tra nhân dân được hình thành ở các cơ quan, đơn vị
sản xuất, kinh doanh, hành chính sự nghiệp ở các xã phường, thị trấn .
Về hoạt động của Thanh tra Nhà nước tập trung vào hai lĩnh vực chính là:
• Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch Nhà nước
của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội, lực lượng vũ trang
nhân dân và các cá nhân có trách nhiệm.
• Xét, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân theo thẩm quyền.
Trong thực tiễn chỉ ra rằng các tổ chức thanh tra làm rất tốt vai trò tham mưu
cho thủ trưởng cơ quan hành chính trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn việc tổ
chức thanh tra trực tiếp ra các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo thì tính hiệu
quả không cao. Bởi vì nguyên nhân sâu xa do cơ chế tố chức, cơ quan thanh tra cũng
chỉ là một cơ quan chuyên môn của cơ quan hành chính cùng cấp nên những quyết
định giải quyết khiếu nại, tố cáo hiệu lực thi hành rất thấp.
Khắc phục hạn chế trên, Luật Khiếu nại, tố cáo 1998 đã xác định lại thẩm
quyền của thanh tra Nhà nước trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo để phù hợp
hơn với thực tiễn cũng như vai trò của cơ quan thanh tra trong hệ thống các cơ quan
hành chính Nhà nước. Luật Khiếu nại, tố cáo 1998 không quy định các cơ quan
thanh tra là một cấp trực tiếp giải quyết khiếu nại mà thông qua cơ chế ủy quyền của

thủ trưởng cơ quan cùng cấp. Khi tổ chức thanh tra được ủy quyền giải quyết thì
quyết định giải quyết cũng được coi như quyết định của thủ trưởng cơ quan cùng cấp
và không bị xem xét lại bởi chính thủ trưởng đã ủy quyền.
Cùng với hai lĩnh vực thanh tra và xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Pháp lệnh
chống tham nhũng được thông qua ngày 26/2/1998 và sửa đổi bổ sung năm 2000 đã
quy định Thanh tra Nhà nước các cấp đóng vai trò đầu mối trong việc kiểm tra, đôn
đốc, theo dõi việc phòng ngừa và phát hiện, xử lý những hành vi tham nhũng. Trong
quá trình thanh tra, thủ trưởng cơ quan thanh tra Nhà nước có quyền đình chỉ công
tác của người có hành vi tham nhũng; niêm phong tài liệu; kê biên tài sản của cơ
quan, tổ chức đã được xác định có liên quan đến tham nhũng; có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý kỷ luật người có hành vi tham nhũng và thu hồi
tài sản đã bị chiếm đoạt. Với những quy định trên, ta thấy Thanh tra Nhà nước đóng
vai trò rất quan trọng trong hoạt động phòng, chống tham nhũng. Phòng, chống tham
nhũng đã trở thành một trong hoạt động chính của Thanh tra Nhà nước.
Như vậy, với hệ thống văn bản pháp lý trên đã tạo nền tảng vững chắc cho sự
phát triển trong tổ chức và hoạt động của thanh tra. Tuy nhiên bên cạnh những kết
quả tiến bộ, chúng ta thấy tổ chức bộ máy của hệ thống thanh tra còn cồng kềnh, dàn
trải; chức năng, nhiệm vụ chưa rõ ràng, chồng chéo; việc thực hiện quyền hạn của
Pháp luật về thanh tra

Trang 11


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

các tổ chức thanh tra còn gặp nhiều khó khăn. Về cơ bản hệ thống thanh tra được xây
dựng và hoạt động ở tất cả các bộ, các ngành, các cấp từ trung ương đên địa phương.
Với đặc điểm tổ chức theo cách thức “song trùng trực thuộc” chịu sự lãnh đạo, chỉ

đạo của hai cơ quan: cơ quan thanh tra cấp trên và cơ quan quản lý cùng cấp. Quyền
hạn thanh tra được tăng thêm nhưng nhìn chung chủ yếu vẫn là kiến nghị. Những đòi
hỏi này cũng dẫn đến yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thanh tra.
1.4.4. Từ 2004 đến nay
Giai đoạn từ 2004 đến nay được đánh dấu bằng hai văn bản pháp lý đặc biệt
quan trọng, đó là Luật Thanh tra năm 2004 và Luật Thanh tra năm 2010 (có hiệu lực
01/7/2011).
Năm 2004 Luật Thanh tra được ban hành đã đánh dấu một giai đoạn phát triển
mới về tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước nói chung và thanh tra hành
chính nói riêng, với những nét mới nổi bật như:
Mục đích, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Thanh tra nhà nước
được quy định cụ thể và đầy đủ hơn với mục đích thanh tra là “phát hiện những sở
hở trong có chế quản lý, chính sách pháp luật để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền các biện pháp khắc phục…”. Sự đổi mới trong Luật này tạo cơ sở cho Thanh
tra nhà nước thực hiện nhiệm vụ phù hợp với giai đoạn phát triển mới của thời kỳ
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước;
Lần đầu tiên Luật đã ghi nhận một nhiệm vụ mới của Thanh tra nhà nước là
phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng bên cạnh nhiệm vụ thanh tra và nhiệm
vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo.
* Tổ chức của Thanh tra nhà nước theo Luật Thanh tra 2004
Xuất phát từ chức năng của thanh tra nhà nước là kiểm soát quyền lực nhà nước
về nhánh quyền lực hành pháp dẫn đến nhu cầu tất yếu khách quan phải hình thành
tổ chức thanh tra trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Do đó cơ quan thanh
tra hành chính mang đặc trưng cơ bản sau:
- Cơ quan thanh tra là các cơ quan thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà
nước cùng cấp, do đó, cơ quan thanh tra có trách nhiệm giúp cơ quan và thủ trưởng
cơ quan quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng.
- Một trong những chức năng cơ bản của cơ quan Thanh tra nhà nước là thực
hiện hoạt động thanh tra. Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ

quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp
luật quy định.
Pháp luật về thanh tra

Trang 12


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

- Các cơ quan thanh tra được chia thành hai loại: thanh tra hành chính được tổ
chức theo đơn vị hành chính (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện);
Thanh tra ngành, lĩnh vực được tổ chức ở những cơ quan theo ngành, lĩnh vực
chuyên môn (Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, Thanh tra sở).
Tổ chức Thanh tra Nhà nước được phân chia thành hai hệ thống:
Thứ nhất là Cơ quan thanh tra theo cấp hành chính bao gồm:
- Thanh tra Chính phủ
- Thanh tra tỉnh
- Thanh tra huyện
Thứ hai là Cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực bao gồm
- Thanh tra Bộ
- Thanh tra Sở
- Thanh tra viên
* Về hoạt động của Thanh tra nhà nước
Hoạt động thanh tra nhà nước được chia thành hai loại: Hoạt động của thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Nhìn chung Luật quy định tương đối rõ ràng, cụ thể hoạt động của thanh tra nhà
nước, ghi nhận những quy định tiến bộ nhất định trong nội dung điều luật cũng như

về kỹ thuật lập pháp. Để Luật được thực hiện và áp dụng cụ thể trong thực tế, Nhà
nước đã ban hành rất nhiều văn bản cụ thể hóa Luật như Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật Thanh tra, Nghị định số 99/2005/NĐ-quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thanh tra về tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra
nhân dân, Nghị định số 100/2007/NĐ-CP ngày 13/06/2007 về thanh tra viên và cộng
tác viên thanh tra, Nghị định số 55/2005/NĐ-CP ngày 25/4/2005 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ. Thanh tra
Chính phủ là cơ quan quản lý nhà nước về thanh tra, căn cứ theo thẩm quyền, Tổng
thanh tra đã ban hành nhiều thông tư, quyết định hướng dẫn về tổ chức, hoạt động
thanh tra đối với các bộ ngành, địa phương và chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thanh tra
các cấp, ngành thực hiện theo đúng quy định của Luật Thanh tra. Về phía các bộ,
ngành, địa phương, nhiều nơi đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến công tác thanh tra của mình.
Luật Thanh tra năm 2004 đã góp phần tạo lập khung pháp lý quan trọng trong
việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, qua
triển khai thực hiện nhiều quy định của Luật Thanh tra đã bộc lộ những hạn chế, bất
cập.
Pháp luật về thanh tra

Trang 13


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

Một là, về vị trí, chức năng của thanh tra nhà nước. Luật chưa quy định rõ cơ
quan thanh tra vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, vừa
là công cụ hữu hiệu tiến hành thanh tra phục vụ công tác quản lý, điều hành của Thủ

trưởng cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Dẫn đến sự thiếu thống nhất trong
nhận thức về vị trí, vai trò của cơ quan thanh tra, có nơi coi thanh tra chỉ đơn thuần là
công cụ của Thủ trưởng cơ quan quản lý, các cơ quan thanh tra không phát huy được
tính chủ động và tính tự chịu trách nhiệm khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn được giao.
Hai là, về tổ chức cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực. Việc thực hiện cải
cách bộ máy hành chính trong thời gian qua đã làm xuất hiện nhiều bộ ngành được
sáp nhập cho nên đa số các bộ, ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Trong đó đa số
các bộ, ngành đã thành lập thanh tra Tổng cục, Cục, Chi cục để giúp Tổng cục, Cục,
Chi cục quản lý các lĩnh vực kinh tế - xã hội mà Luật Thanh tra chưa quy định.
Ba là, về hoạt động thanh tra nhà nước nổi lên một số vướng mắc sau: Theo
quy định của Luật quy định phương thức hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành về cơ bản là giống nhau. Trong khi đó phương thức hoạt động thanh
tra chuyên ngành rất đa dạng, chuyên sâu, phù hợp với đặc thù của quản lý nhà nước
theo ngành, lĩnh vực. Hoạt động thanh tra chuyên ngành phải nhanh nhạy, linh hoạt,
thủ tục đơn giản, khác với hoạt động thanh tra hành chính. Ngay cả phương thức hoạt
động thanh tra hành chính được quy định trong Luật Thanh tra cũng có nhiều nội
dung không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Pháp luật về thanh tra

Trang 14


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

Luật cũng chưa quy định việc xử lý chồng chéo trong hoạt động thanh tra;
chồng chéo giữa hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra khác của các cơ quan

nhà nước, do đó khi phát sinh không có cơ chế để xử lý, làm giảm hiệu quả, hiệu lực
công tác thanh tra, kiểm tra nói chung và thanh tra nói riêng. Theo quy định Luật,
thủ trưởng cơ quan quản lý có trách nhiệm xem xét, xử lý kết luận, kiến nghị thanh
tra, cho nên sau khi có kết luận thanh tra, việc thi hành kết luận phụ thuộc chủ yếu
vào thủ trưởng. Luật cũng chưa xác định cơ quan nào có trách nhiệm kiểm tra, đôn
đốc thực hiện kiến nghị, kết luận, quyết định xử lý về thanh tra, do vậy nhiều quyết
định xử lý về thanh tra không được cơ quan, tổ chức cá nhân có trách nhiệm thi hành
hoặc thi hành không đúng, các hành vi sai phạm không được ngăn chặn, xử lý kịp
thời, thậm chí tiếp tục diễn ra ở mức độ nghiêm trọng hơn.
Việc quy định hoạt động thanh tra chuyên ngành tuân theo các trình tự như: phê
duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra, ra quyết định thanh tra, thời hạn thanh tra, ra
kết luận thanh tra…là chưa phù hợp vì trên thực tế cho thấy, hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ ngày càng phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã
hội, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước với từng ngành, lĩnh vực phải linh hoạt. Do đó
hoạt động thanh tra chuyên ngành cần phải được đổi mới theo hướng quy định linh
hoạt hơn để đáp ứng yêu cầu quản lý hiện nay.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của các cơ quan thanh tra, ngày 15/11/2010, Quốc hội đã thông qua
Luật Thanh tra 2010.
Bên cạnh đó, Luật Thanh tra năm 2010 có nhiều quy định các biện pháp bảo
đảm thi hành yêu cầu, kiến nghị, kết luận, quyết định xử lý về thanh tra. Điều 41 quy
định về việc xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu, kết luận, kiến nghị, quyết định
xử lý về thanh tra được quy định có thể áp dụng các biện pháp chế tài xử phạt như:
xử lý vi phạm hành chính; xử lý kỷ luật; truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, Thanh tra nhà nước mà tiền thân của nó là “Ban Thanh tra đặc biệt
không chỉ với chức năng thanh tra mà còn kiêm cả chức năng của cơ quan kiểm sát,
điều tra (Sắc lệnh 64/SL ngày 23/11/1945) đến chức năng thanh tra nhà nước như
ngày nay là quá trình không ngừng hoàn thiện đặc biệt là về tổ chức và hoạt động
của mình. Trải qua các giai đoạn phát triển từ thanh tra phục vụ công cuộc kháng

chiến, kiến quốc (1945 - 1954); Thanh tra phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH ở
miền bắc, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955 1975) và thanh tra Việt Nam thời kỳ thống nhất đi lên chủ nghĩa xá hội (1975 đến
nay), mỗi một giai đoạn phát triển được đánh dấu bằng sự ra đời và hoàn thiện các
văn bản pháp luật về thanh tra từ các văn bản sắc lệnh, chỉ thị, thông tư, nghị định
đến văn bản Luật.
Pháp luật về thanh tra

Trang 15


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra

Nhìn nhận về tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước từ 1945 đến nay ta
thấy có một số đặc điểm nổi bật sau:
Một là, tổ chức và hoạt động của Thanh tra Nhà nước chịu sự tác động rất lớn
của các văn bản pháp luật quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
trong bộ máy hành chính. Chính vì thế tổ chức và hoạt động của thanh tra Nhà nước
qua các giai đoạn lịch sử có sự biến động rất lớn.
Xuất phát từ vị trí của cơ quan thanh tra được xác định là cơ quan chuyên
môn, là một bộ phận cấu thành của bộ máy hành chính, cho nên cơ cấu, tổ chức của
các các cơ quan trong bộ máy hành chính thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi về vị trí, cơ
cấu, tổ chức của cơ quan thanh tra. Vì vậy, các văn bản pháp luật về thanh tra phải
quy định tổ chức và hoạt động thanh tra phù hợp với các văn bản pháp luật về tổ
chức bộ máy hành chính.
Hai là, các quy định về tổ chức và hoạt động Thanh tra Nhà nước được thể hiện
trong nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước.
Nếu như giai đoạn trước năm 1990, pháp luật về thanh tra chưa mang tính pháp
điển hóa cao, còn nằm rải rác trong rất nhiều văn bản pháp lý khác nhau do các cơ

quan của Chính phủ ban hành. Kể cả sau khi ban hành Pháp lệnh Thanh tra năm
1990 và Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra 2010 chúng ta thấy pháp luật
thanh tra còn được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật ở các lĩnh vực liên
quan như Luật Môi trường, Luật Đất đai, Luật Khoáng sản, Luật Xây dựng và các
văn bản Luật, Pháp lệnh về thuế… Điều này xuất phát từ quan niệm thanh tra, kiểm
tra là một chu trình của quản lý nhà nước, cho nên trong lĩnh vực nào cũng phải có
hoạt động thanh tra, kiểm tra. Vì vậy, trong các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến sự quản lý nhà nước đối với từng lĩnh vực, ngành đều có quy định về thanh
tra, kiểm tra. Thực trạng này dẫn đến một vấn đề khi mà trình độ lập pháp ở nước ta
còn hạn chế thì hệ thống pháp luật về thanh tra khó có thể bảo đảm sự đồng bộ,
thống nhất. Từ đó giảm hiệu quả tác động của Luật Thanh tra trên thực tế và cũng
dẫn đến những khó khăn trong hoạt động của thanh tra .
Ba là, dù có những quan điểm khác nhau về tính độc lập của hoạt động thanh
tra nói chung và tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước nói riêng nhưng từ lý
luận, luật pháp cũng như thực tiễn đều chỉ ra rằng thanh tra có lúc “thăng trầm“
nhưng thanh tra luôn luôn được tổ chức theo cấp hành chính và thanh tra chuyên
ngành, lĩnh vực phù hợp với cơ chế quản lý. Hơn nữa, thanh tra được tổ chức thành
hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương, hoạt động theo pháp luật, có vị
trí, chức năng và mục đích cụ thể.
Thanh tra Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà
nước. Hoạt động thanh tra đã góp phần tích cực trong công tác phòng ngừa, phát hiện
và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý,
Pháp luật về thanh tra

Trang 16


Chương 1

Khái quát chung về thanh tra


chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện
pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong tổ chức
và hoạt động thanh tra hiện nay vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục để đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền.

CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Thanh tra, thanh tra nhà nước, thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành là
gì?
2. Nêu vai trò của hoạt động thanh tra.
3. Nêu khái lược quá trình phát triển của pháp luật về thanh tra.
--------------------------------------------TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thanh tra năm 2010;
2. Nghị định số 86/2011/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thanh tra;
3. Chủ biên: PGS. TS Lê Thị Hương, Giáo trình Lý luận và pháp luật về thanh tra,
Học viện Hành chính, Hà Nội, 2011.

Pháp luật về thanh tra

Trang 17


Chương 2

Cơ quan thực hiện nhiệm vụ thanh tra

CHƯƠNG 2:

CƠ QUAN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ THANH TRA

2.1. Hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước
2.1.1. Khái quát chung
Hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà
nước bao gồm một hệ thống các cơ quan thanh tra được thành lập từ trung ương đến
địa phương (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ, Thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra sở,
Thanh tra cấp huyện) để xem xét, đánh giá, xử lý đối với việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý; kiến nghị các
biện pháp khắc phục những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nhằm
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ
chức và nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ và cơ quan thanh tra cấp trên.

Chức năng của cơ quan thanh tra nhà nước
Cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của
pháp luật.
2.1.2. Hệ thống tổ chức
2.1.2.1. Thanh tra Chính phủ
 Tổ chức của Thanh tra Chính phủ
Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Thanh tra Chính phủ có Tổng Thanh tra Chính phủ, các Phó Tổng Thanh tra

Chính phủ và Thanh tra viên.
Tổng Thanh tra Chính phủ là thành viên Chính phủ, là người đứng đầu ngành
thanh tra. Tổng Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng.
Phó Tổng Thanh tra Chính phủ giúp Tổng Thanh tra Chính phủ thực hiện
nhiệm vụ theo sự phân công của Tổng Thanh tra Chính phủ.
Tổ chức của Thanh tra Chính phủ được quy định bao gồm:
Pháp luật về thanh tra

Trang 18


Chương 2

Cơ quan thực hiện nhiệm vụ thanh tra

1. Vụ Thanh tra khối kinh tế ngành (gọi tắt là Vụ I).
2. Vụ Thanh tra khối nội chính và kinh tế tổng hợp (gọi tắt là Vụ II).
3. Vụ Thanh tra khối văn hóa, xã hội (gọi tắt là Vụ III).
4. Vụ Giám sát, thẩm định và xử lý sau thanh tra.
5. Vụ Tiếp dân và Xử lý đơn thư.
6. Vụ Pháp chế.
7. Vụ Tổ chức Cán bộ.
8. Vụ Hợp tác Quốc tế.
9. Vụ Kế hoạch, Tài chính và Tổng hợp.
10. Văn phòng (có Văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh).
11. Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 1 (gọi tắt là Cục I).
12. Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 2 (gọi tắt là Cục II).
13. Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 3 (gọi tắt là Cục III).

14. Cục Chống tham nhũng (gọi tắt là Cục IV).
15. Viện Khoa học Thanh tra.
16. Trường Cán bộ Thanh tra.
17. Báo Thanh tra.
18. Tạp chí Thanh tra.
19. Trung tâm Thông tin.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cụ thể của các vụ, cục, đơn
vị do Tổng Thanh tra Chính phủ quy định.
 Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ

Trong quản lý nhà nước về thanh tra:
- Xây dựng chiến lược, Định hướng chương trình, văn bản quy phạm pháp luật
về thanh tra trình cấp có thẩm quyền ban hành, phê duyệt hoặc ban hành theo thẩm
quyền; hướng dẫn, tuyên truyền, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về thanh
tra;
- Lập kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ; hướng dẫn Thanh tra bộ,
Thanh tra tỉnh xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra;
- Chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra; bồi dưỡng nghiệp vụ
thanh tra đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra;
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức bộ máy, biên chế thanh
tra các cấp, các ngành, điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm Chánh Thanh tra, Phó Chánh
Thanh tra, Thanh tra viên các cấp, các ngành;
- Yêu cầu bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo về công tác
thanh tra; tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra; tổng kết kinh nghiệm về
công tác thanh tra;
- Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử
lý về thanh tra của Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ;
- Thực hiện hợp tác quốc tế về công tác thanh tra.

Trong hoạt động thanh tra:

- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thanh tra đối với doanh nghiệp
nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập;
Pháp luật về thanh tra

Trang 19


Chương 2

Cơ quan thực hiện nhiệm vụ thanh tra

- Thanh tra vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều bộ,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
- Thanh tra vụ việc khác do Thủ tướng Chính phủ giao;
- Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý
sau thanh tra của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh khi cần thiết.

Quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ
giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ
phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
 Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Thanh tra Chính phủ

Tổng Thanh tra Chính phủ có nhiệm vụ sau đây:
- Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước
của Chính phủ; lãnh đạo Thanh tra Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của Luật Thanh tra và các quy định khác của pháp luật có liên quan;

- Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Định hướng chương trình thanh tra và
tổ chức triển khai Định hướng chương trình thanh tra;
- Chủ trì xử lý việc chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian
thanh tra giữa các Thanh tra bộ; giữa Thanh tra bộ với Thanh tra tỉnh;
- Xem xét xử lý vấn đề mà Chánh Thanh tra bộ không nhất trí với Bộ trưởng,
Chánh Thanh tra tỉnh không nhất trí với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về công
tác thanh tra. Trường hợp Bộ trưởng không đồng ý với kết quả xử lý của Tổng Thanh
tra Chính phủ thì Tổng Thanh tra Chính phủ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định.

Tổng Thanh tra Chính phủ có quyền hạn sau đây:
- Quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu
trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về quyết định của mình;
- Quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Bộ trưởng kết luận nhưng phát hiện
có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Thủ tướng Chính phủ giao; quyết định thanh
tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kết luận nhưng phát hiện
có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
- Đề nghị Bộ trưởng, yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiến hành
thanh tra trong phạm vi quản lý của bộ, của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi phát hiện
có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm
trước Thủ tướng Chính phủ về quyết định của mình;
- Kiến nghị Bộ trưởng đình chỉ việc thi hành hoặc hủy bỏ quy định do bộ đó
ban hành trái với quy định của cơ quan nhà nước cấp trên, của Tổng Thanh tra Chính
phủ về công tác thanh tra; trường hợp Bộ trưởng không đình chỉ hoặc không hủy bỏ
văn bản đó thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định;

Pháp luật về thanh tra

Trang 20



×