Lời cam đoan
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả
trong khoá luận là trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kì một cơng trình nào
khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Hà Trang
i
Lời cảm ơn
Tác giả khố luận xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới
giảng viên Th.s. Trương Thị Thanh Thoài – người đã trực
tiếp hướng dẫn tác giả thực hiện và hồn thành khố luận
tốt nghiệp này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các Tiến sĩ, Thạc sĩ, các
thầy cô giáo tham gia giảng dạy sinh viên sư phạm Mầm
non, Thư viện trường Đại học Quảng Bình cùng các giáo
viên của trường Mầm non Ba Đồn đã nhiệt tình ủng hộ và
tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tác giả cũng xin cảm ơn gia đình, những người thân,
bạn bè… đã động viên, khích lệ và giúp đỡ tác giả rất nhiều
trong quá trình học tập.
Đồng Hới, tháng 6 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Hà Trang
Danh mục các từ viết tắt
Kí hiệu
LQTPVH
NXB
Chú giải
Làm quen tác phẩm văn học
Nhà xuất bản
NXBGD
Nhà xuất bản giáo dục
iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan.................................................................................................... i
Lời cảm ơn........................................................................................................ii
Danh mục các từ viết tắt................................................................................... iii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................. 5
3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài................................................. 8
5. Giả thuyết khoa học....................................................................................... 8
6. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................... 8
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 9
8. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu....................................................... 10
9. Bố cục của khóa luận...................................................................................10
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HƯỚNG DẪN TRẺ 3
– 4 TUỔI CẢM THỤ TỐT TÁC PHẨM THƠ, TRUYỆN
1.1. Cơ sở lý luận của việc hướng dẫn trẻ 3 - 4 cảm thụ tốt tác phẩm thơ,
truyện.............................................................................................................. 11
1.1.1. Đặc điểm thơ, truyện trong chương trình làm quen văn học với việc
hướng dẫn trẻ cảm thụ tác phẩm văn học........................................................ 11
1.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 3 – 4 tuổi với việc hướng dẫn trẻ cảm thụ
tốt tác phẩm thơ, truyện................................................................................... 19
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc hướng dẫn trẻ 3 – 4 tuổi cảm thụ tác phẩm thơ,
truyện.............................................................................................................. 29
1.2.1. Về chương trình LQTPVH dành cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi...............29
1.2.2. Về phương pháp hướng dẫn trẻ 3 – 4 tuổi làm quen thơ, truyện ở trường
Mầm non.........................................................................................................33
1.2.3.Về kết quả cảm thụ tác phẩm thơ, truyện đạt được ở trẻ........................36
Chương 2: BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 3 – 4 TUỔI CẢM THỤ TỐT CÁC TÁC PHẨM
THƠ, TRUYỆN
2.1. Chuẩn bị tốt tầm đón nhận ở trẻ trước khi LQTPVH............................... 37
2.2. Thu hút sự chú ý của trẻ trong quá trình tiếp cận văn bản tác phẩm........38
2.3. Đàm thoại, giảng giải, giải thích giúp trẻ hiểu tác phẩm..........................42
2.5. Luyện tập cho trẻ thể hiện tác phẩm thơ, truyện...................................... 44
2.5.1. Tập cho trẻ kể lại truyện........................................................................ 45
2.5.2. Tập cho trẻ đọc thuộc thơ diễn cảm...................................................... 46
1
2.5.3. Tổ chức trị chơi đóng kịch dựa theo cốt truyện.................................... 48
2.6. Tổ chức hoạt động bổ trợ trong quá trình LQTPVH................................ 52
2.7. Đa dạng hố các hình thức tổ chức hoạt động LQTPVH.........................53
2.7.1. Tổ chức hoạt động làm quen thơ, truyện............................................... 53
2.7.2. Tổ chức cho trẻ làm quen các tác phẩm thơ, truyện trong các giờ học
khác 64
2.7.3. Tổ chức cho trẻ làm quen tác phẩm thơ, truyện trong giờ hoạt động
góc 64
2.7.4. Cho trẻ làm quen tác phẩm thơ, truyện qua các hoạt động ngoài giờ .. 65
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm.............................................................................. 66
3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm........................................... 66
3.3. Phương pháp tiến hành thực nghiệm........................................................ 67
3.4. Nội dung thực nghiệm.............................................................................. 67
3.5. Quá trình tổ chức thực nghiệm................................................................. 67
3.6. Kết quả thực nghiệm................................................................................ 68
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận....................................................................................................... 74
2. Kiến nghị..................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân có
vai trị đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách của con người. Vì thế chăm sóc, giáo dục trẻ Mầm non là một vấn đề đặc
biệt quan trọng trong chiến lược phát huy nhân tố con người của Đảng và Nhà nước.
Chiến lược này được cụ thể hố trong xây dựng chương trình giáo dục mầm non.
Trong đề án phát triển giáo dục Mầm non giai đoạn 2006 – 2015, quan điểm trọng tâm
là đẩy mạnh xã hội hoá, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách để mọi tổ chức, cá
nhân và tồn xã hội tham gia phát triển giáo dục quốc dân. Ở nhiều nước, không chỉ ở những
nước nghèo mà ngay cả ở những nước giàu, để phát triển sự nghiệp giáo dục, họ đã tìm
nhiều giải pháp để đẩy mạnh xã hội hố giáo dục, trong đó có xã hội hố giáo dục Mầm
non.
Hiện nay Bộ giáo dục đào tạo và Vụ giáo dục Mầm non chủ trương cải tiến nội dung
giáo dục dựa trên quan điểm kết hợp giữa các tri thức tự nhiên, xã hội và nghệ thuật nhằm
giáo dục trẻ một cách tồn diện. Trong đó cho trẻ làm quen tác phẩm văn học (LQTPVH)
được xem là hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực phát triển nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm xã
hội và phát triển thẩm mỹ cho trẻ. Việc đổi mới phương pháp, đề xuất các biện pháp cụ thể
nhằm giúp trẻ cảm thụ tốt các tác phẩm văn học, hướng tới mục tiêu sử dụng tác phẩm văn
học giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ là việc làm cấp thiết đòi hỏi nhiều tâm huyết của
các nhà quản lý, các nhà giáo dục và những ai quan tâm đến sự nghiệp giáo dục Mầm non.
1.2. Là một loại hình nghệ thuật, văn học giữ vai trị to lớn trong việc hình
thành và phát triển tồn diện nhân cách của trẻ, là món ăn tinh thần không thể thiếu
đối với trẻ thơ nhất là lứa tuổi mẫu giáo. Cho trẻ LQTPVH là một trong những hoạt
động chủ yếu ở trường Mầm non, thông qua hoạt động truyền khẩu, vui chơi giáo
viên giúp trẻ bước đầu cảm thụ nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm văn học.
Đặc biệt là với lứa tuổi Mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi thì hoạt động LQTPVH đem đến cho
trẻ những hiểu biết đầu tiên về cuộc sống xung quanh, mở ra cho trẻ thế giới tình cảm của
con người, kích thích sự chú ý đến con người, nuôi dưỡng và phát
triển trí tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật và làm cho vốn ngơn ngữ của trẻ có cấu trúc ngữ
pháp đúng.
1.3. Để đạt được những mục đích mà các tác phẩm thơ, truyện mang lại cho
trẻ thì điều quan trọng nhất là trẻ phải cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện. Khả
năng cảm thụ đó là sự phát triển trực tiếp của trẻ về các lĩnh vực: Nhận thức – Ngơn
ngữ – Tình cảm xã hội. Trẻ Mầm non chưa biết chữ, năng lực và vốn sống, vốn kinh
nghiệm chưa đủ để có thể tự mình tiếp cận tác phẩm, chưa có khả năng cảm thụ một
cách tồn diện, sâu sắc vẻ đẹp của các sáng tác nghệ thuật ngơn từ. Vì vậy nhiệm vụ
của người giáo viên mầm non trong việc hướng dẫn trẻ tiếp cận và cảm thụ các tác
phẩm thơ, truyện là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Địi hỏi người giáo viên
phải có suy nghĩ sáng tạo và lựa chọn những tác phẩm phù hợp với lứa tuổi, có ý
nghĩa giáo dục trẻ để từ đó đưa ra những phương pháp, biện pháp thích hợp nhằm
giúp trẻ phát triển tốt khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học. Đối với trẻ mẫu giáo
3 – 4 tuổi thì quá trình làm quen với các tác phẩm thơ, truyện phải từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp, để từ đó trẻ bộc lộ được khả năng cảm thụ thơ, truyện của
mình.
Thực tiễn giáo dục Mầm non hiện nay trẻ Mầm non đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo 3 – 4
tuổi khả năng cảm thụ và bộc lộ cảm xúc khi tiếp cận với các tác phẩm thơ, truyện còn
nhiều hạn chế. Trẻ chưa diễn đạt được bằng những ngôn ngữ cũng như chưa tự tin trong giao
tiếp. Bên cạnh đó vẫn cịn một số giáo viên khả năng phân tích, cảm nhận các tác phẩm
thơ, truyện còn yếu, giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ minh họa chưa bộc
lộ cảm xúc cuốn hút trẻ, phương pháp lồng ghép tích hợp chưa linh hoạt, sáng tạo, trẻ chưa
thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa có khoa học dẫn đến giờ học trẻ ít
tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao.
Việc giúp trẻ mầm non cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện đã được tiến hành nghiên
cứu nhiều qua các chuyên đề cho trẻ LQTPVH. Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu
cho trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi. Vì vậy, tơi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện
pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện” nhằm mục đích nâng cao hiệu
quả của các tác phẩm thơ, truyện trong việc giáo dục trẻ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Ở nước ngoài
Vài thập kỷ trở lại đây, vấn đề cho trẻ mẫu giáo LQTPVH nói chung, các tác phẩm thơ,
truyện nói riêng được nhiều chuyên gia trong và ngoài nước nghiên cứu. Người ta đã nghiên
cứu cảm thụ thẩm mỹ thông qua sự cảm thụ tác phẩm văn học. Nghiên cứu đặc điểm cảm
thụ văn học ở trẻ mẫu giáo. Nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ mẫu giáo dựa trên sự
cảm thụ các tác phẩm văn học. Nghiên cứu các phương pháp cho trẻ LQTPVH theo các
mục đích khác nhau…
Trong cơng trình nghiên cứu của mình nhà tâm lý học nổi tiếng người Nga
L.X Vưgốtxki nói rằng nghệ thuật là hành vi sáng tạo. Theo ông không thể dạy
được sự sáng tạo nghệ thuật nhưng điều đó khơng có nghĩa là người giáo viên
không thể tác động lên sự sáng tạo ra biểu hiện của nó [42].
Nhà nghiên cứu nghệ thuật B.M. Treplop khẳng định “Nghệ thuật bao trùm sâu rộng
lên các phương diện khác nhau của tâm lý con người cả tưởng tượng, tình cảm, trí tuệ và
nghị lực” ý nghĩa to lớn của nghệ thuật thể hiện trong sự phát triển ý thức và tự ý thức, trong
giáo dục tình cảm đạo đức và hình thành thế giới quan của con người. Vì vậy nghệ thuật là
một trong những phương diện phát triển nhân cách toàn diện.
Với trẻ lứa tuổi tiền học đường thì sự cảm thụ và hiểu biết các tác phẩm văn học
không phải là một hình thức có sẵn, nó được hình thành ở trẻ mẫu giáo trong mối liên hệ
thường xuyên với tác phẩm văn học. Sự cảm thụ này được tạo nên nhờ sự giáo dục và dạy
dỗ phải dựa trên việc tổ chức một quá trình sư phạm tỉ mỉ, dựa trên phương pháp chung của
sự kết hợp giữa giáo dục thẩm mỹ và việc dạy các tác phẩm nghệ thuật, phải biết kết hợp
nhuần nhuyễn giữa việc làm của giáo viên và trẻ em, khơi gợi xúc cảm, thúc đẩy sự phát
triển nhận thức và cảm xúc của trẻ em.
Chính nhờ q trình giáo dục trẻ mẫu giáo có thể hiểu được (ở một mức độ nào đó)
nội dung và ý nghĩa của tác phẩm văn học, phân biệt được biểu tượng nghệ thuật và hiện
thực, có khả năng xây dựng cốt truyện, cấu trúc và mối quan hệ giữa các nhân vật.
Muốn giúp trẻ cảm thụ văn học được tốt, các nhà sư phạm người Nga M.K.
Bôgôliupxkaia và V.V. Sepstenko trong cơng trình nghiên cứu Đọc và kể chuyện
văn học ở vườn trẻ [2] đã nhấn mạnh tới những yêu cầu của người giáo viên trong việc đọc
và kể chuyện văn học cho trẻ ở trường mẫu giáo, những yêu cầu đó bao gồm cả nắm vững
tri thức về cốt truyện, về thanh điệu, về âm hưởng cơ bản của các tác phẩm văn học, những
thủ thuật đọc kể… Để truyền thụ và diễn đạt các tác phẩm một cách ấn tượng nhất, sâu sắc
nhất đối với trẻ, giúp trẻ cảm thụ tác phẩm, ghi nhớ và sống tiếp với những gì mà văn học đã
đề ra.
Muốn trẻ hứng thú với đọc và khả năng nghe tốt còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ
và năng lực sư phạm của giáo viên mầm non. Trong cơng trình Văn hoá
văn học ở trường
mẫu giáo các tác giả người Ba Lan Stanis Lawa Fryciegô, Iabeli Kariowskiej Lewanskie đã
nhấn mạnh giáo viên phải là người có kiến thức, có tài
về tổ chức là người nắm vững giá
trị văn bản tác phẩm, nắm vững hình thức nghệ thuật của nó. Đồng thời giáo viên phải biết
cách truyền đạt sinh động những giá trị ấy để kích thích sự tiếp nhận đúng hướng và đầy
hứng thú đối với tác phẩm. Các tác giả nêu lên sự cần thiết phải nói chuyện về tác phẩm,
động viên các cháu có nhận định của mình vềcác nhân vật của tác phẩm, hướng dẫn trẻ tự
bộc lộ sáng tạo và hoà nhập vào các hoạt động nghệ thuật.
2.2 Ở trong nước
Ở Việt Nam nước ta trong 2 thập kỉ trở lại đây các phương pháp cho trẻ LQTPVH cũng
đã được đề cập tới song chưa nhiều. Công trình nghiên cứu Hình thành sự cảm thụ nghệ
thuật các tác phẩm văn học ở trẻ mẫu giáo lớn của PTS Lê Thị Ánh Tuyết [31] là một trong
những nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục mẫu giáo về cho trẻ làm quen
với các tác phẩm văn học nghệ thuật. Trong nghiên cứu này tác giả nêu lên những đặc điểm
thực tế của các tác phẩm văn học ở trẻ mẫu giáo lớn trong trường mầm non Việt Nam. Làm
sáng tỏ mức độ cảm thụ tác phẩm văn học của trẻ mẫu giáo lớn.
Tác giả Nguyễn Thu Thuỷ trong cuốn sách Giáo dục trẻ mẫu giáo qua thơ, truyện [29]
đã đưa ra một số phương pháp cho trẻ LQTPVH, nhưng chỉ dừng lại ở phương pháp đọc, kể
của giáo viên là chủ yếu mà chưa đề cập đến việc làm thế nào để giúp trẻ mẫu giáo cảm thụ
tốt các tác phẩm thơ, truyện.
Khi đề cập đến mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức cho trẻ làm quen
với tác phẩm văn học, các tác giả Phạm Thị Việt, Lê Thị Ánh Tuyết, Cao
Đức Tiến trong cơng trình nghiên cứu Văn học và phương pháp cho trẻ tiếp xúc với
tác phẩm văn học [30] các tác giả đã chú ý tới sự gần gũi phù hợp, tự nhiên bắt
nguồn từ tâm sinh lý trẻ với các thể loại văn học dân gian từ đó đề xuất các phương
pháp giúp trẻ tiếp xúc với các phẩm văn học.
Phó tiến sĩ Hà Nguyễn Kim Giang trong các nghiên cứu của mình đã khẳng định ngơn
ngữ nghệ thuật ảnh hưởng lớn đến sự phát triển, tâm hồn của trẻ đặc biệt là sự nhạy cảm
thẩm mĩ, sáng tạo ngơn ngữ. Cũng như cơng trình Văn học và phương pháp cho trẻ tiếp xúc
với tác phẩm văn học của nhóm tác giả: Lê Thị Ánh Tuyết, Cao Đức Tiến, Phạm Thị Việt,
tác giả Hà Nguyễn Kim Giang đã nhấn mạnh các phương pháp cơ bản cho trẻ mẫu giáo tiếp
xúc với tác phẩm văn học như đọc và kể các tác phẩm có nghệ thuật, trao đổi gợi mở, sử
dụng các phương tiện đồ dùng trực quan và đưa trẻ vào văn học nghệ thuật. [13]
Mấy năm gần đây cũng đã có nhiều sáng kiến kinh nghiệm của các giáo viên mầm non
cũng đề cập đến lĩnh vực này như Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học
(Sáng kiến kinh nghiệm, 2010, Nguyễn Thị Phương), Những biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi
nâng cao khả năng cảm thụ văn học (Sáng kiến kinh nghiệm, 2010, Nguyễn Thị Hồng
Hạnh) có cập nhật đến vị trí văn học trong giáo dục, và cũng đã đưa ra được một số biện
pháp giúp trẻ cảm thụ tốt các tác phẩm văn học nhưng chưa chuyên sâu. Chúng tơi chưa thấy
cơng trình nào nghiên cứu và đưa ra biện pháp giúp trẻ cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện
dành riêng cho lứa tuổi mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc thành quả của
các tác giả đi trước chúng tơi đã bước đầu hệ thống hố và đưa ra một số biện pháp giúp trẻ
mẫu giáo 3 – 4 tuổi cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn
mang tính khả thi.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đưa ra một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi cảm thụ tốt các tác phẩm
thơ, truyện nhằm góp phần giúp các giáo viên tổ chức tốt hoạt động cho trẻ LQTPVH ở
trường mầm non.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số biện pháp giúp trẻ cảm thụ tốt các tác phẩm
thơ, truyện giành cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung vào việc xây dựng các biện pháp hướng dẫn trẻ LQTPVH để
trẻ có thể tiếp nhận tác phẩm tốt hơn.
- Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên trẻ 3 – 4 tuổi trường mầm non Ba Đồn
– Thị xã Ba Đồn – Tỉnh Quảng Bình.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu những biện pháp đề tài đưa ra phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, phù hợp
với nội dung, hình thức tác phẩm và được ứng dụng một cách khoa học các phương tiện dạy
học hiện đại thì sẽ phát huy hiệu quả cao trong việc giúp trẻ cảm thụ tốt các tác phẩm thơ,
truyện.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hướng dẫn trẻ 3 - 4 tuổi cảm thụ tốt
các tác phẩm thơ, truyện. Cụ thể đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu các lĩnh vực học có liên
quan thuộc ngôn ngữ học, giáo dục học, tâm lý học sư phạm, phương pháp cho trẻ làm quen
với tác phẩm văn học nhằm tạo cơ sở lý luận cho đề tài. Nghiên cứu thực tiễn về mục tiêu
giáo dục và chương trình làm quen văn học dành cho trẻ 3 – 4 tuổi và phương pháp hướng
dẫn trẻ 3 – 4 tuổi làm quen thơ, truyện. Trên cơ sở đó phân tích và rút ra được kết luận sư
phạm nhằm định hướng cho việc giúp trẻ cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện.
- Đưa ra một số biện pháp nhằm giúp trẻ 3 – 4 tuổi cảm thụ tốt các tác phẩm
thơ, truyện.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm, phân tích kết quả thực nghiệm nhằm đánh giá
khả năng đưa ra các biện pháp vào thực tế dạy học ở trường Mầm non.
7. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra trong đề tài, chúng tôi đã kết hợp sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp thu thập tài liệu, đọc sách, phân tích, so sánh, tổng hợp, khái
quát, hệ thống những nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
- Quan sát để thấy được biểu hiện khả năng cảm thụ các tác phẩm thơ, truyện
của trẻ ở trường mầm non.
- Dự giờ, đánh giá các kết quả mà giáo viên mầm non cho trẻ thực hiện.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
- Trao đổi, trò chuyện với giáo viên về việc tổ chức hoạt động cho trẻ làm
quen với tác phẩm thơ, truyện mà họ đã tiến hành trước và sau khi chúng tôi nghiên
cứu, các biện pháp khác nhau mà họ đã sử dụng trong hoạt động này.
- Trò chuyện với trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi qua các hoạt động trong ngày cũng
như trong hoạt động LQTPVH để tìm hiểu về mức độ nhận thức và khả năng cảm
thụ các tác phẩm thơ, truyện của trẻ.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng anket
- Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về việc
giúp trẻ mẫu giáo bé 3 – 4 tuổi cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện.
- Dự giờ, trao đổi với các giáo viên nhằm thu thập những kinh nghiệm quý báu
của các nhà chuyên môn về các biện pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi cảm thụ tốt các tác
phẩm thơ, truyện và đề ra kết luận chính xác, khoa học, rút ra bài học cho bản thân.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Mục đích thực nghiệm:
Thực nghiệm các biện pháp đã lựa chọn nhằm đánh giá hiệu quả thực tiễn của các
biện pháp đó đối với khả năng cảm thụ các tác phẩm thơ, truyện của trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi
trong hoạt động LQTPVH.
- Đối tượng thực nghiệm: Trẻ 3 – 4 tuổi trường Mầm non Ba Đồn.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học
Trên cơ sở quan sát và điều tra bằng phiếu để thống kê lại mức độ nhận thức của giáo
viên và mức độ cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện của trẻ mẫu giáo bé 3- 4 tuổi.
8. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu
- Đề tài góp phần hệ thống các vấn đề lý luận về các biện pháp giúp trẻ mẫu
giáo 3 – 4 tuổi cảm thụ tốt tác phẩm thơ, truyện.
- Đề tài đã xây dựng được một số giáo án thơ, truyện cho trẻ mẫu giáo 3 – 4
tuổi mang tính thực tiễn, giúp trẻ cảm thụ tác phẩm thơ, truyện một cách tốt nhất.
- Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho giáo viên, phụ huynh trong việc hướng
dẫn trẻ làm quen với các tác phẩm thơ, truyện.
9. Bố cục của khoá luận
Khoá luận gồm những phần sau:
Phần mở đầu: Lí do chọn đề tài, lịch sử nghiên cứu vấn đề, mục đích nghiên cứu, đối
tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, giả thuyết khoa học, nhiệm vụ nghiên cứu, phương
pháp nghiên cứu, những đóng góp của đề tài, bố cục khố luận.
Phần nội dung gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hướng dẫn trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi cảm
thụ tác phẩm thơ, truyện.
Chương 2: Biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi cảm thụ tốt các tác phẩm thơ,
truyện.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Phần kết luận và kiến nghị: Những kết quả đạt được của khoá luận
- Tài liệu tham khảo: Thống kê 42 tài liệu đã sử dụng trong quá trình nghiên
cứu đề tài.
- Phần phụ lục: Giới thiệu phiếu tham khảo ý kiến giáo viên về thực trạng hoạt
động cho trẻ 3 – 4 tuổi LQTPVH ở trường Mầm non, Phiếu đánh giá kết quả hoạt
động, 5 giáo án mẫu và kịch bản truyện.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HƯỚNG DẪN TRẺ 3 – 4 TUỔI
CẢM THỤ TỐT TÁC PHẨM THƠ, TRUYỆN
1.1. Cơ sở lý luận của việc hướng dẫn trẻ 3 - 4 cảm thụ tốt tác phẩm thơ,
truyện
1.1.1. Đặc điểm thơ, truyện trong chương trình làm quen văn học với việc
hướng dẫn trẻ cảm thụ tác phẩm văn học
1.1.1.1. Đặc điểm thơ, truyện trong chương trình làm quen văn học dành cho
trẻ Mẫu giáo 3 – 4 tuổi
Văn học giành cho lứa tuổi Mầm non cũng nằm trong nghệ thuật văn học nói chung, vì
thế nó cũng mang đầy đủ những đặc điểm của nghệ thuật ngôn từ, lấy ngôn từ làm chất liệu
phản ánh hiện thực. Nhưng do đối tượng phục vụ chủ yếu là những “bạn đọc” chưa biết đọc,
chưa biết viết nên văn học giành cho trẻ ở lứa tuổi Mầm non cịn có những đặc điểm riêng:
- Về thể loại: Bao gồm văn học dân gian và văn học hiện đại.
+ Thơ ca dân gian: Ở độ tuổi 4 – 6 tuổi trẻ được làm quen với thơ lục bát, ca dao, đồng
dao… Nhưng ở lứa tuổi 3 – 4 tuổi với thể loại thơ ca dân gian thì trẻ chỉ được làm quen với
ca dao, đồng dao.
+ Thơ hiện đại giành cho trẻ 3 – 4 tuổi: có thơ người lớn viết cho trẻ nhỏ, tiêu biểu như
thơ Phạm Hổ, Võ Quảng, Nhược Thuỷ, Phương Hoa, Tú mỡ, Xuân Tửu… và thơ của chính
các em thiếu nhi, tiêu biểu như: Trần Đăng Khoa, Cẩm Thơ, Nguyễn Hồng Liên, Chu Hồng
Quý, Phan Thị Vàng Anh…
+ Truyện dân gian: Trẻ 4 – 6 tuổi được làm quen với nhiều thể loại truyện dân gian
như: truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngơn, truyện cười, truyền thuyết. Còn ở trẻ
3 – 4 tuổi chỉ làm quen với một số thể loại như: truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ
ngơn.
+ Truyện hiện đại giành cho trẻ 3 – 4 tuổi: có một số tác giả như Phong Thu, Viết linh,
Thu Hồng…
+ Truyện nước ngoài giành cho trẻ 3 – 4 tuổi có một số câu truyện như : “Nhổ
củ cải”, phỏng theo truyện dân gian Nga; “Cún con ngặc nhiên vì điều gì”, phỏng
theo truyện cùng tên của V. Goliavkin – Liên Xô; “Bông hoa cúc trắng”, phỏng
theo truyện cổ Nhật Bản; “Chiếc đầu máy xe lửa tốt bụng”, phỏng dịch theo truyện
nước ngoài.
- Về nội dung: Các tác phẩm thơ, truyện được tuyển chọn cho trẻ 3 – 4 tuổi làm quen
xoay quanh phản ánh các chủ đề về đời sống tự nhiên và xã hội gần gũi với trẻ. Còn ở lớp 4
– 5 tuổi thì ngồi những chủ đề trên trẻ còn được làm quen thêm các chủ đề như: lịch sử,
Bác Hồ. Lớp 5 – 6 tuổi có thêm chủ đề: quan hệ giàu nghèo…
Ngoài những đặc điểm chung của nghệ thuật văn chương. Văn học dành cho trẻ 3 – 4
tuổi còn mang những đặc điểm sau:
- Sự hồn nhiên, ngây thơ
Hồn nhiên, ngây thơ vốn là bản tính của trẻ Mầm non và đặc biệt là trẻ 3 – 4 tuổi vì thế
các tác phẩm thơ, truyện có trong chương trình LQTPVH dành cho trẻ ở độ tuổi này cũng có
những nét riêng về sự hồn nhiên, ngây thơ.
Ví dụ:
Hơm nay trời nắng chang chang
Mèo con đi học chẳng mang thứ gì
Chỉ mang một cái bút chì
Và mang một mẫu bánh mì con con.
(Phan Thị Vàng Anh,Mèo con đi học)
Bé cài nơ hồng
Rung rinh nhịp bước
Bướm trắng lượn hồng
Theo nơ đến lớp
(Xuân Hoài, Đến lớp)
- Sự ngắn gọn, rõ ràng
Thơ, truyện dành cho trẻ Mầm non cần phải ngắn gọn, rõ ràng. Đối với trẻ mẫu giáo
3 – 4 tuổi, tuy tư duy của trẻ đã đạt tới ranh giới của tư duy trực quan –
hình tượng, nhưng các hình tượng và biểu tượng trong đầu trẻ vẫn còn gắn liền với hành
động nên những tác phẩm thơ, truyện dành cho lứa tuổi này phải có sự ngắn gọn, rõ ràng
hơn so với độ tuổi 4 – 5 tuổi và 5 – 6 tuổi. Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung lượng tác
phẩm mà còn thể hiện trong cả câu văn, câu thơ. Văn xi thường thể hiện bằng câu đơn,
ngắn, ít khi dùng câu phức tạp phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Nhan đề của tác phẩm
bao giờ cũng cụ thể, thường đúc kết ngay ý nghĩa giáo dục, có khi là tên nhân vật chính,
hoặc một câu hỏi mang tính định hướng, ví dụ: Dán hoa tặng mẹ, Bé và mèo, Ai đáng
khen nhiều hơn, chú vịt xám…
Truyện thường có kết cấu đối lập, tương phản, giúp cho trẻ dễ nắm bắt cốt
truyện, dễ hiểu nội dung, ý nghĩa của câu truyện và trẻ có thể chập chững kể lại
truyện. Ví dụ : Ai đáng khen nhiều hơn, Xe Lu và Xe Ca, Bác Gấu Đen và hai chú
thỏ…
Dạng phổ biến thơ được lựa chọn đưa vào chương trình LQTPVH cho trẻ 3 – 4 tuổi
là thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, rất gần với đồng dao, một thể loại văn học dân gian rất gần
với trẻ thơ, câu thơ ngắn, vui nhộn; các em vừa đọc vừa chơi, dễ thuộc, dễ nhớ.
Ví dụ:
Cây dây leo
Bé tẻo teo
Ở trong nhà
Lại bị ra
Ngồi cửa sổ
Và nghểnh cổ
Lên trời cao
Hỏi: “Vì sao?”
Cây trả lời:
Ra ngồi trời,
Cho dễ thở…
(Xn Tửu, Cây dây leo)
Hoặc:
Hay nói ầm ĩ
L
vịt bầu Hay hỏi đâu đâu
à
Là con chó vện.
Hay chăng dây điện Là con
c
nhện con.
o
Ăn no quay tròn Là cối
n
xay lúa…
(Trần Đăng Khoa, Kể cho bé nghe)
Sự rõ ràng của văn học dành cho trẻ em lứa tuổi này còn được thể hiện ở ý nghĩa của
từ vựng. Từ ngữ thường mang nghĩa đen, với lối miêu tả cụ thể, dễ hiểu.
Ví dụ:
Có cơ rong xanh
Đẹp như tơ nhuộm
Giữa hồ nước trong
Nhẹ nhàng uốn lượn.
Một đàn cá nhỏ
Đuôi đỏ lụa hồng
Quanh cô rong đẹp
Múa làm văn công.
(Phạm Hổ, Rong và cá)
Hay như đoạn văn sau đây:
Thế rồi, ngày qua ngày, chiếc mầm cây lớn dần thành cây. Cây trổ lá xanh non mơn
mởn và kết những nụ hoa màu hồng chúm chím. Chẳng bao lâu, nụ hoa xoè cánh thành
những bông hoa rực rỡ, toả hương thơm ngát. Các bạn ong rủ nhau bay đến để hút mật hoa.
Các bạn bướm cũng bay đến, lượn quanh khóm hoa và reo lên:
- Hoa đẹp quá, thơm quá! Cảm ơn bạn ấm sành nhé!
( Kim Tuyến, Chiếc ấm sành nở hoa)
Với cách miêu tả trực tiếp như vậy, trẻ có thể dễ dàng hình dung ra và hiểu rõ các sự
vật, hiện tượng được thể hiện trong tác phẩm.
- Giàu hình ảnh, vần điệu và nhạc điệu
Những hình ảnh đẹp, rực rỡ cùng với vần điệu và nhạc điệu vui tươi, những
tác phẩm
có trong chương trình LQTPVH của trẻ 3 – 4 tuổi mang sắc thái sinh động, hấp dẫn và lôi
cuốn sự chú ý của các em. Có thể nói, vần là yếu tố không thể thiếu trong thơ dành cho trẻ
em. Thơ khơng chỉ có vần mà cịn phải có cách gieo vần thật phù hợp với sự tiếp nhận của
các em.
Ví dụ:
Bắp cải xanh
Xanh mát mắt
Lá cải sắp
Sắp vịng tròn
Búp cải non
Nằm ngủ giữa.
(Phạm Hổ, Bắp cải xanh)
Chữ cuối của câu thứ nhất (xanh) được lặp lại trong chữ đầu của câu thứ hai; chữ cuối
của câu thứ ba (sắp) lại được lặp lại ở chữ đầu của câu thứ tư gợi lên hình dáng của cây bắp
cải với những lá xanh xen kẽ, cuộn vịng trịn…
- Ngơn ngữ chọn lọc, trong sáng và dễ hiểu
Những bài thơ, câu truyện dành cho trẻ phải là những bài sử dụng từ ngữ rất chọn lọc,
giản dị, trong sáng, dễ hiểu. Đặc biệt ở lứa tuổi Mẫu giáo bé thì phải sử dụng nhiều từ tượng
hình, từ tượng thanh, nhiều động từ, nhiều tính từ miêu tả, tính từ chỉ màu sắc… tạo nên sắc
thái vui tươi, vừa khêu gợi, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ, vừa tác động mạnh
đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của trẻ.
Ví dụ:
H
o
a
s
e
n
đã nở Rực rỡ đầy
hồ
Thoang thoảng gió đưa
Mùi hương thơm ngát
Lá sen xanh mát
Đọng hạt sương đêm
Gió rung êm đềm
Sương long lanh chạy.
(Nhược Thuỷ, Hồ sen)
- Yếu tố truyện trong thơ và yếu tố thơ trong truyện
Cũng giống như lứa tuổi mẫu giáo nhỡ, lớn. Đây cũng là một đặc điểm khá nổi bật về
thơ, truyện trong chương trình LQTPVH dành cho trẻ 3 – 4 tuổi. Khác với thơ dành cho
người lớn, hầu hết là thơ tâm trạng, bao gồm hệ thống những cảm xúc nổi niềm suy tưởng…
thơ dành cho các em cịn có thể “kể” lại được. Nhưng ở lứa tuổi 3 – 4 tuổi vốn ngôn ngữ
sống còn hạn chế, khả năng nhận biết các từ trong câu chưa hồn chỉnh nên chương trình đã
chọn những bài thơ và câu truyện có kết cấu đơn giản hơn, có thể theo trục thời gian, hai
tuyến nhân vật đối lập và rõ rệt, với những đoạn lặp đi lặp lại giúp trẻ ghi nhớ các tình tiết,
dễ theo dõi sự phát triển của nội dung tác phẩm. Ngoài những truyện thơ như: Mèo Hoa đi
học, Bác Gấu Đen và hai chú thỏ…, những bài thơ ngắn cũng đều kể lại một sự việc, một
hiện tượng: Dán hoa tặng mẹ, Gấu qua cầu, Ong và Bướm, Gà trống…
Xin dẫn một bài cụ thể:
Con bướm trắng
Lượn vườn hồng
Gặp con ong
Đang bay vội
Bướm liền gọi
Rủ đi chơi
Ong trả lời
-Tơi cịn bận,
Mẹ tơi dặn:
“Việc chưa xong,
Đi chơi rong,
Mẹ khơng thích”.
(Nhược Thuỷ, Ong và Bướm)
Bài thơ là một câu chuyện nhỏ. Câu chuyện kể rằng: Vào một ngày đẹp trời, Bướm
trắng đi dạo và gặp một con Ong đang bay ngang qua, Bướm trắng rủ Ong đi chơi nhưng
chú Ong từ chối vì nghe lời mẹ dặn là phải làm cho xong việc mới được đi chơi.
Nếu yếu tố truyện trong thơ giúp các em có thể nhanh chóng nắm bắt được tác phẩm
để từ đó liên hệ, phát hiện và cảm nhận được những vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống thì
yếu tố thơ trong truyện lại như một chất xúc tác làm cho câu truyện có sức lôi cuốn, hấp dẫn
mạnh mẽ. Mỗi câu truyện dành cho các em là những bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc. Chất thơ
của truyện sẽ làm cho bài học ấy khơng bị khơ khan, cứng nhắc. Những truyện như Giọng
hót chim Sơn Ca, Hoa Mào Gà, Chú Đỗ con… chẳng khác gì những bài thơ bằng văn xi,
những bài thơ ca ngợi cuộc sống, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và ca ngợi những tình cảm
cao đẹp của con người. Cùng với chất thơ bay bổng, ý nghĩa của câu truyện có thể cịn theo
các em mãi trong suốt cuộc đời.
- Ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng mà sâu lắng
Một trong những chức năng cơ bản của văn học là chức năng giáo dục. Là loại hình
ngơn từ, văn học có khả năng tác động mạnh mẽ tới tâm hồn và nhân thức con người. Nhất
là lứa tuổi mầm non, và đặc biệt là trẻ 3 – 4 tuổi những tác phẩm thơ, truyện càng có sự tác
động nhanh nhạy. Tuy nhiên lứa tuổi này có thể “đọc” tác phẩm văn học một cách dán tiếp,
tư duy lại chưa phát triển, trẻ chỉ mới bắt đầu tiếp xúc với thế giới xung quanh, với những
mối quan hệ gần gũi (gia đình, bạn bè, thầy cơ) và vốn sống, vốn hiểu biết, kinh nghiệm còn
hạn chế nên hầu như chưa có khả năng suy luận, phán đốn. Chính vì thế, mỗi tác phẩm văn
học phải đem đến cho trẻ một ý nghĩa giáo dục cụ thể, rõ ràng.
1.1.1.2. Kết luận sư phạm
Gần đây, trong khi xây dựng chương trình đổi mới, hoạt động LQTPVH được xác định
theo hướng thích hợp chủ đề, chủ điểm. Các nhà giáo dục cũng đã lựa
chọn và đưa các tác
phẩm thơ, truyện phù hợp vào chương trình LQTPVH với hình thức và nội dung giáo dục trẻ
phù hợp từng độ tuổi. Và có hướng mở cho cơ giáo tự lựa chọn những tác phẩm văn học
nghệ thuật có giá trị đáp ứng nhiệm vụ giáo dục. Qua những đặc điểm thơ, truyện dành cho
trẻ 3 – 4 tuổi đã nêu trên thì sự lựa chọn đúng đắn những tác phẩm thơ, truyện có giá trị và
việc sử dụng chúng nhằm mục đích giáo dục là vấn đề đặt ra đối với các giáo viên ở trường
Mầm non. Thường những tác phẩm được lựa chọn cần có nội dung gần gũi với trẻ: gia đình,
bạn bè, nhà trường, quê hương.
Khi sử dụng những tài liệu văn học nghệ thuật để dùng trên lớp, giáo viên khơng thể
làm máy móc hoặc tuỳ tiện mà cần suy nghĩ cẩn thận và có kế hoạch tiến hành cụ thể. Khi
lựa chọn và sử dụng tác phẩm cần thống nhất chủ đề và hình tượng, tránh hiện tượng
chồng chéo các chủ đề và hình tượng gây ra những biểu tượng không rõ ràng ở các em về
những bài thơ, câu truyện được nghe. Ví dụ về chủ đề q hương, đất nước cơ giáo có thể
giành một tuần cho việc đọc và kể tác phẩm thể hiện vẻ đẹp của quê hương nông thôn đồng
bằng Bắc bộ, tuần sau có thể cho các em cảm nhận vẻ đẹp của tổ quốc với những núi cao,
biển rộng, sông dài… Những tác phẩm dài không nên đọc tất cả trong một buổi học mà nên
chia thành những đoạn đủ ý để đọc.
Trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ em, người ta đã lựa chọn và đưa vào
những tác phẩm phù hợp với từng độ tuổi. Song song với việc đọc, kể những
tác phẩm
mới, chúng ta phải cho các em ơn lại những tác phẩm cũ. Trẻ em thích được ôn lại bài cũ,
đặc biệt là trẻ 3 – 4 tuổi vì mỗi lần ơn lại, các em lại tìm thấy
một điều mới lạ trong bài
văn đã quen, hoặc cũng cố hiểu sâu một bài đã được nghe. Kinh nghiệm nhiều người cho
thấy, lần đầu tiên đọc một cuốn sách hay chúng ta có cảm tưởng như tìm được một người
bạn mới. Đọc lại một cuốn sách đã xem như là gặp lại một người bạn cũ. Sự luân chuyển
hợp lí giữa tài liệu mới và cũ làm cho giờ học thêm hứng thú. Ở độ tuổi Mẫu giáo bé việc
củng cố chiếm nhiều thời gian hơn
lớp nhỡ, lớn, có nghĩa là chúng ta cần trở lại với tác phẩm nhiều lần với mọi hình thức.
Để những tác phẩm thơ, truyện tác động sâu sắc mà gây ấn tượng mạnh mẽ đến trẻ,
làm cho trẻ hứng thú, việc chuẩn bị kĩ lưỡng trước khi lên lớp là rất cần thiết. Phân tích kĩ
một tác phẩm là xác định nội dung tư tưởng của tác phẩm, xác định những nhiệm vụ của
giáo dục, tính cách nhân vật, xác định các hình thức đọc, kể diễn cảm của tác phẩm nghệ
thuật, là tìm tịi các phương pháp dạy học. Tất cả những điều đó đều phải là trung tâm chú ý
của mỗi cô giáo. Việc chuẩn bị kĩ sẽ giúp cô giáo tránh được những phút căng thẳng khơng
cần thiết trên lớp, góp phần thiết lập mối quan hệ giao cảm chặt chẽ với các em. Những việc
làm đó sẽ tạo cho cơ giáo trạng thái tâm lí tự tin, mà nó chắc chắn sẽ được thể hiện trong
cách đọc, kể diễn cảm của một tác phẩm, làm cho nó chân thực, có sức thuyết phục đối với
các em. Đọc, kể diễn cảm kết hợp với những bức tranh minh hoạ, những phương tiện dạy
học khác cùng với yếu tố trò chơi… sẽ là cơ hội để các em thâm nhập sâu vào thế giới tác
phẩm thơ, truyện.
Một điều không kém quan trọng để giúp trẻ cảm thụ các tác phẩm thơ, truyện là tạo
dựng không gian, thời gian thơ, truyện phù hợp. Đối với trẻ Mẫu giáo bé thì đây là một yếu
tố quan trọng. Cụ thể, trong lớp học ở những mảng tường cô giáo sưu tầm tranh ảnh minh
hoạ nội dung bài thơ, câu truyện theo chủ đề của tuần, tháng để trang trí. Mỗi lớp học nên
bố trí một góc có đủ ánh sáng, có giá để các loại truyện tranh, các tranh lớn minh hoạ nội
dung các câu truyện, bài thơ có trong chương trình LQTPVH… Ở những thời gian ngồi giờ
học cơ giáo gợi ý cho trẻ lấy truyện tranh ra kể lại cho nhau nghe. Góc văn chương thực sự
sẽ thu hút trẻ, giúp trẻ tiếp xúc văn học một cách tự giác, mọi lúc, mọi nơi nếu cô giáo
thường xuyên thay đổi các loại truyện mới, tranh mới.
1.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 3 – 4 tuổi với việc hướng dẫn trẻ cảm thụ
tốt tác phẩm thơ, truyện
1.1.2.1. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 3 – 4 tuổi liên quan đến cảm thụ tác
phẩm thơ, truyện
Ở lứa tuổi này đặc điểm tâm sinh lý ảnh hưởng rất lớn đến cảm thụ tác phẩm thơ,
truyện.
Khả năng chú ý: Ở trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi chú ý chủ định chưa phát triển. Theo số
liệu nghiên cứu trẻ ở lứa tuổi này chú ý được 27 phút so với trẻ 1 tuổi là 14,5 phút. Nhưng
trẻ thường chú ý những gì trẻ thích, trẻ được nhìn thấy hơn là nghe thấy. Trong cùng một
lúc trẻ khơng chú ý được nhiều đối tượng.
Vì vậy, để tổ chức cho trẻ LQTPVH phải căn cứ vào đặc điểm này. Trước hết cơ phải
có phương pháp, thủ thuật thế nào để lôi cuốn sự chú ý của trẻ. Đặc biệt ở lứa tuổi này phải
có đồ dùng trực quan sinh động. Vừa nghe cô giáo kể, đọc tác phẩm, vừa được tiếp xúc với
biểu tượng trực quan giúp trẻ chú ý hơn vào bài thơ, câu truyện, trẻ sẽ tiếp nhận thế giới
hiện thực trong tác phẩm bằng cả tai và mắt. Thế giới đó sẽ hiện lên trong mắt trẻ sinh
động hơn và cũng cụ thể, đầy đủ, chi tiết hơn. Bên cạnh đó một tác phẩm cần được cô giáo
dạy nhiều lần, thời gian dạy không kéo dài để giúp trẻ ghi nhớ tác phẩm tốt. Kết hợp với
ngôn ngữ đọc, kể chậm rãi, gợi cảm, phong cách sinh động thu hút sự chú ý của trẻ.
Khả năng tri giác: Trẻ từ 3 – 4 tuổi, tri giác trẻ đã phát triển. Tri giác của trẻ khơng
mang tính kế hoạch, khơng hệ thống, hạn chế về mặt thời gian, ngơn ngữ. Trẻ thường có
ấn tượng mạnh trước những sự vật mới lạ, có màu sắc, có sự chuyển động hấp dẫn. Trong
quan sát trẻ rất tò mò, ham hiểu biết, hay đặt câu hỏi…
Giáo viên khi dạy cần phải tổ chức, hướng dẫn sự chú ý của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ
tri giác bằng các giác quan. Ngơn ngữ nói của giáo viên cần chậm hơn mức bình thường, rõ
ràng, có hình ảnh ngắn gọn.
Trí tưởng tượng của trẻ: Tưởng tượng là quá trình nhận thức, phản ánh những cái chưa
có trong kinh nghiệm bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những hình ảnh đã
có. Trí tưởng tượng của trẻ em khơng phong phú như người lớn vì ít kinh nghiệm sống.
Khác với người lớn, trí tưởng tượng của trẻ gắn liền với niềm tin ngây thơ và cảm xúc
mãnh liệt.
Ở tuổi nhà trẻ, trí tưởng tượng của các em cịn nghèo nàn, chủ yếu tái tạo và không chủ
định. Nhưng bước sang mẫu giáo 3 – 4 tuổi, nội dung tưởng tượng phát triển về số lượng,
chất lượng. Hình ảnh tưởng tượng khơng dừng lại ở tái tạo mà cịn có tính chất sáng tạo.
Chúng dùng tưởng tượng để khám phá thế giới và tự thoả mãn nhu cầu nhận thức của mình.
Trí tưởng tượng là một phần quan trọng của các q trình tâm lí, nó góp phần tích cực vào
hoạt động tư duy và nhận thức của trẻ. Tưởng tượng của trẻ gắn chặt vào cảm xúc. Đó là
quan hệ hai chiều. Tưởng tượng
20
phụ thuộc vào sự phát triển của cảm xúc, cảm xúc càng sâu sắc thì tưởng tượng càng phát
triển để phù hợp với cảm xúc đó, và ngược lại, tưởng tượng cũng giữ vai trò quan trọng
trong việc làm giàu thêm những kinh nghiệm cảm xúc của trẻ. Việc hình thành và phát triển
tưởng tượng của trẻ gắn chặt với việc hình thành và phát triển ngơn ngữ. Nhờ có ngơn ngữ
mà trẻ có thể hình dung ra được những gì mà chúng khơng nhìn thấy (tưởng tượng). Tưởng
tượng giúp cho trẻ có thể xâu chuỗi các sự vật, hiện tượng riêng lẻ vào một thể thống nhất.
Tưởng tượng của trẻ được phát triển trong các hoạt động giáo dục.
Nên việc ni dưỡng trí tưởng tượng cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của giáo dục mầm non. Nét nổi bật trong tâm lý trẻ em lứa tuổi này là sự phong phú về trí
tưởng tượng. Tưởng tượng làm tròn trặn suy nghĩ, đẹp thêm tư tưởng của lứa tuổi mà sự
phát triển tư duy đang ở độ ban đầu.
Không phải vô cớ mà Các Mác trong những lần dạo chơi với con gái đã từng kể cho
con nghe những truyện cổ tích hoang đường kéo dài mãi mãi không hết. Tưởng tượng hoang
đường là giai đoạn đầu tiên và thấp nhất của tưởng tượng. Đặc điểm của nó là thiên về
những điều kì diệu khác thường. Đó là thế giới thần tiên của truyện cổ tích, trong đó có
những ơng Bụt, bà Tiên tốt bụng, với những phép biến hố thần thơng và những nàng cơng
chúa xinh đẹp. “Bản chất của tâm hồn trẻ em là ưa cái lộng lẫy phi thường” [11]
Vì vậy “Sáng tác hoang đường thích hợp với tư duy trẻ em – những người chưa quen
với những chuyện tầm phào của cộc sống, chưa được những kinh nghiệm cay đắng làm cho
khôn ngoan và rất dễ tin vào những chuyện có thật. Đối với trẻ em, những gì làm xúc động
mạnh mẽ là phương tiện duy nhất để làm cho trí tưởng tượng và tính nhạy cảm của hoạt
động”.[26]
Các nhà sáng tác văn học phải đặc biệt quan tâm đến đặc điểm tâm lí này ở trẻ để tìm
hiểu đặc điểm tiếp nhận văn học và cảm thụ văn học diễn ra ở trẻ khi tiếp cận các tác phẩm.
Nếu như người lớn hiểu tác phẩm văn học bằng kinh nghiệm và sự suy ngẫm từ cuộc đời
từng trải của mình thì trẻ em cảm nhận tác phẩm bằng chính trực giác và tưởng tượng thiên
bẩm của tuổi thơ. Có thể nói, tưởng tượng là một năng lực không thể thiếu để cảm thụ và
sống với các tác phẩm văn học. Trí tưởng tượng phong phú chính là tiền đề để chúng ta thực
hiện việc giúp trẻ cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện. Các cơ giáo mầm non cần có sự
hiểu biết và kĩ năng trong
LQTPVH để tìm ra con đường tốt nhất giúp trẻ cảm thụ tốt các tác phẩm thơ, truyện.
Tư duy: Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan mà ta chưa
biết.
Ở tuổi ấu nhi, thì tư duy bằng tay hay tư duy trực quan - hành động. Nhưng bước sang
mẫu giáo 3 – 4 tuổi, tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản. Đó là sự chuyển tư duy
từ bình diện bên ngồi vào bình diện bên trong mà thực chất đó là việc chuyển từ những
hành động định hướng bên ngoài thành những hành động định hướng bên trong theo cơ chế
nhập tâm. Quá trình tư duy của trẻ đã bắt đầu dựa vào những hình ảnh của sự vật và hiện
tượng đã có trong đầu, cũng có nghĩa là chuyển từ kiểu tư duy trực quan – hành động sang
tư duy trực quan – hình tượng.
Qua đó ta thấy, tư duy là một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng, có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự cảm thụ văn học của trẻ. Với sự tung hồnh của trí tưởng tượng cùng với
tính “duy kỉ” rất cao, trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi ln lấy mình làm trung tâm để nhìn nhận thế
giới xung quanh. Với cách nhìn “vật ngã đồng nhất” và trí tưởng tượng phong phú, vạn vật
trong thế giới qua con mắt trẻ thơ đều trở nên sinh động và có hồn. Các em tìm thấy trong
thiên nhiên đời sống của chính mình và chúng hồ mình vào thiên nhiên, đồng nhất thế giới
xung quanh với bản thân mình. Đặc điểm tâm lí này có nét giống với thơ ca và văn học thuở
sơ khai. Chỉ có nhà thơ và trẻ em mới có thể nhìn vạn vật ra con người, nhìn thiên nhiên có
linh hồn và tâm trạng. Chính khả năng đồng hố ấy khiến trẻ có thể giao cảm với thế giới
nghệ thuật trong tác phẩm, để có thể hiểu về thế giới bằng tâm hồn và ngơn ngữ rất thơ của
mình.
Do đặc điểm tư duy của trẻ mang tính trực quan hành động, khuynh hướng bắt chước
là một đặc trưng ở lứa tuổi mẫu giáo bé, bắt chước là một phương pháp đã hiểu kĩ, là một
cách học của trẻ, vì vậy trẻ có thể nghe một cách hứng thú nhiều lần cùng một câu chuyện,
cùng một bài thơ mà thậm chí trẻ đã thuộc lòng. Chúng vẫn thường xuyên yêu cầu nhắc lại,
nhắc lại mãi bài thơ, câu truyện đó hay là những đoạn được lặp đi lặp lại trong tác phẩm.
Hoạt động bắt chước “theo mẫu” giúp các em giữ lại trong tư duy của mình những hình
ảnh, những hình tượng và ngơn ngữ