Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

CHUYÊN ĐỀ 4: TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.94 KB, 13 trang )

CHUYÊN ĐỀ 4: TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I, Những đặc điểm cơ bản của TH ÂĐCĐ:
1, Tổng quát về sự hình thành tư tưởng TH của nhân loại:
*) Không gian, địa lý:
Ấn độ cổ đại là 1 vùng đất thuộc Nam Châu Á với đặc điểm khí hậu, đất đai đa
dạng và khắc nghiệt cùng sự án ngữ của vùng cung dãy Hy – Mã – Lạp – Sơn kéo
dài trên 2000 Km. Đây là yếu tố địa lý có ảnh hưởng nhất định tới quá trình đó là
nhân tố kinh tế - xã hội, trong đó đặc biệt là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết
cấu kinh tế xã hội theo mô hình đặc biệt mà Các Mác gọi là‘‘ Công xã nông thôn‘‘.
Trong kết cấu này, chế độ quốc hữu về ruộng đất được các nhà kinh tế điển hình là
chủ nghĩa Mác coi là ‚‘‘ Chiếc chìa khóa“ để hiểu toàn bộ lịch sử Ấn Độ cổ đại.
CHính trong mô hình này đã phát sinh chủ yếu không phải là sự phân chia đối
kháng giai cấp giữa chủ nô và nô lệ như Hy Lạp cổ đại, mà là sự phân biệt hết sức
khắc nghiệt và giai dẳng của bốn đẳng cấp lớn trong xã hội: Tăng nữ, quý tộc, bình
dân tự do và nô lệ. Thêm vào đó, người Ấn Độ CĐ đã tích lũy được những tri thức
rất phong phú về các lĩnh vực toán học thiên văn, lịch pháp nông nghiệp...
Tất cả những yếu tố tự nhiên, KT-XH, chính trị và tri thức nói trên đã hợp
thành cơ sở hiện thực cho sự phát triển những tư tưởng triết học – tôn giáo ÂĐ CĐ.
*) TH ÂĐCĐ chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: ( Từ giữa thiên niên kỷ III TCN đến khoảng giữa thiên niên kỷ
II TCN). Đây là giai đoạn thường được gọi là ‚‘‘Nền văn hóa Harrapa‘‘ (hay nền
văn minh sông Ấn) – KHởi đầu của nền văn hóa Ấn Độ mà cho tới nay người ta
còn biết quá ít về nó ngoài những tư liệu khảo cổ học vào những thập kỷ đầu thế kỷ
XX.
Giai đoạn thứ hai: ( Tiếp nối gđ thứ nhất tới thế kỷ thứ VII TCN). Đây là thời kỳ
có sự thâm nhập của người Arya (gốc ẤN – Âu) vào khu vực của người Dravida
(người bản địa). Đây là sự kiện quan trọng lịch sử, đánh dấu sự hòa trộn giữa 2 nền
văn hóa – tín ngưỡng của hai chủng tộc khác nhau. Chính quá trình này đã xuất
hiện 1 nền văn hóa mới của người ấn Độ: nền văn hóa Vêđa/
Giai đoạn thứ ba: Thời kỳ phật giáo( Trong khoảng 5-6 thế kỷ từ TK thứ VI TCN
tới TK I TCN). Đây là thời kỳ Ấn Độ cổ đại có những biến động lớn cả về kinh tế xã hội , chính trị , xã hội và tư tưởng , cũng là thời kỳ hình thành các trường phái


triết học – tôn giáo lớn. Đó là 9 hệ thống tư tưởng lớn, được chia làm 2 phái: chính
thống và không chính thống.
Thuộc phái chính thống: có Samkhya, Mimasa, Vendanta, Yoga, Nyaya và
Vasesika.
Thuộc phái không chính thống: có Jaina, Lokayata và phật giáo.
*) Triết học Ấn độ có nhiều nét đặc thù về tư tưởng:
Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không mang tính
cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học có
trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết học mới.
Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại.
1


Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín ngưỡng
tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới vấn đề
nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
Nếu gọi Phương đông là chiếc nôi của văn minh nhân loại thì Ấn Độ là một
trong những trung tâm văn hoá và triết học cổ xưa, rực rỡ, phong phú nhất của nền
văn minh ấy - nó có một vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng của Châu Á. Giống
như triết học Trung Quốc, triết học Ấn Độ ra đời sớm và chứa đựng nhiều tư tưởng
sâu sắc về thế giới, trong đó có vấn đề phạm trù triết học Có thể nói, trong đời sống
tinh thần của người Ấn Độ, bên cạnh tôn giáo, triết học có một vai trò khá quan
trọng. Chính vì sự gần gũi đó mà triết học Ấn Độ gắn liền với các tôn giáo. Đúng
như lời nhận xét của Radhakrishnan:"Triết học Ấn Độ mang đượm màu sắc chủ
nghĩa duy linh, chính chủ nghĩa duy linh đã cho Ấn Độ khả năng chống lại các cuộc
chiến tranh của thù trong giặc ngoài. Hết người Hy Lạp, người Mông Cổ, đến
người Pháp, người Anh đã muốn tàn phá và huỷ diệt nền văn minh của đất nước
này, nhưng người dân Ấn Độ vẫn ngẩng cao đầu. Trong suốt quá trình lịch sử của
mình, đất nước Ấn Độ tồn tại vì một mục đích: Đấu tranh cho chân lý và chống lại

mọi sai lầm . Lịch sử tư tưởng Ấn Độ đã và đang minh chứng về những cuộc kiếm
tìm vô tận của trí tuệ trong quá khứ, hiện tại và tương lai". Một trong những điểm
sáng của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại đó là sự xuất hiện Đạo Phật, sau này được
tôn giáo hoá nhưng đạo Phật là một tôn giáo Phật, đây là một phương pháp giáo
hoá con người, một phương pháp tu dưỡng dạy cho con người một triết lý sống,
một cuộc sống có đạo lý, có lý tưởng cao cả và đầy lòng vị tha. Chính vì vậy mà
ngày nay Phật giáo vẫn tồn tại và ngày càng phát triển trên thế giới.

2


2. Những đặc điểm cơ bản của TH ÂĐ cổ đại:
*) Thời gian và nguồn gốc hình thành:
Triết học ÂĐ được hình thành từ thời tối cổ xa xăm trước cả nền TH thành văn của
phương tây hàng nghìn năm.
Theo Osho, 1 thiền sư 1 triết gia của ÂĐ thì 10.000 năm trước người ÂĐ đã
đạt đến đỉnh cao trí tuệ, trc cả nền văn minh, văn hóa của Trung Quốc. Nguồn gốc
lý luận của THÂĐ là những tư tưởng chứa đựng trong 2 bộ kinh Veda và
Upaniphad. Những nguyên lý, đạo lý có tính chất triết học trong 2 bộ kinh này là
cơ sở lý luận cho việc hình thành các hệ thống các trường phái triết học.
Theo Bloomfield thì không có 1 hình thức, tư tưởng quan trọng nào của Ấn
Độ kể cả TH phật giáo mà không bắt nguồn từ Upanishad. Triết học vừa ẩn trong
tôn giáo vừa triển khai cùng tôn giáo. TH và tôn giáo như là 2 mặt của quá trình
nhận thức và như đạo sống của con người.
*)Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Triết học
Ấn Độ suy cho cùng là sự phản ánh xã hội Ấn Độ cổ đại – xã hội rất coi trọng và đề
cao tôn giáo, một xã hội rất mê triết lý.
*)Triết học Ấn Độ ra đời và phát cũng như các nền triết học khác đều dựa
trên những cơ sở nhất định:
Thứ nhất, điều kiện địa lý của môi trường của Ấn Độ rất đa dạng, phức tạp

như núi non hiểm trở, sa mạc khô cằn, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán liên
miên; thêm vào đó, chiến tranh liên tục xảy ra đã làm cho dân cư và các bộ tộc ở
Ấn Độ bị phân hóa hết sức phức tạp. Đây là những yếu tố tác động, ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống, tâm tư, tình cảm của người dân Ấn Độ; điều đó đã buộc họ phải
tìm đến, cầu xin các lực lượng siêu nhiên, bên ngoài là Thượng đế cứu giúp. Các
vấn đề tôn giáo, tâm linh nảy sinh, tồn tại và phát triển trên mảnh đất hiện thực này.
Thứ hai, sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn và chế độ quốc hữu hóa
ruộng đất là hai đặc điểm lớn nhất, chi phối và ảnh hưởng tới toàn bộ các mặt lịch
sử của Ấn Độ, nhất là ảnh hưởng đến sự phát của văn hóa và triết học. Trên cơ sở
“phương thức sản xuất châu Á”, xã hội Ấn Độ được kết cấuvới ba nhóm cơ bản:
nhóm (thực chất là quan hệ gia đình, dòng họ), cộng đồng tự trị làng – xã và bang
(tiểu quốc) với chế độ đẳng cấp ngặt nghèo. Xét trong điều kiện tồn tại xã hội như
vậy thì triết học của Ấn Độ gắn chặt với vấn đề tôn giáo và tâm linh cũng là yếu tố
khách quan.
Thứ ba, quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ đã đã làm cho kết cấu xã hội - giai cấp
thêm phức tạp. Theo kinh điển Bàlamôn và Bộ luật Manu của Ấn Độ, trong xã hội
có bốn đặc cấp lớn: Tăng lữ; các đạo sỹ (Brahman); quý tộc; vương công, tướng sĩ,
võ sư (Ksatriya); tự do: thương nhân, điền chủ, thường dân (Vaisya); nô lệ và tiện
dân (Ksudra). Ngoài ra còn có hạng “cùng đinh” được coi là ngoài lề xã hội (Paria).
Thứ tư, triết học Ấn Độ không chỉ nảy sinh từ những cơ sở nêu trên mà còn
gắn với các thành tựu của khoa học, kỹ thuật và văn hóa của Ấn Độ. Tuy nhiên, do
các điều kiện về tự nhiên, về con người, về xã hội, về kinh tế, chính trị, văn hóa và
tôn giáo, tâm linh, nền triết học Ấn Độ đã có những đặc điểm đặc trưng riêng có.
Triết học Ấn Độ có nguồn gốc từ rất xa xưa và đến thế kỷ thứ VIII – thế kỷ VI
3


tr.CN, nó được tập trung trong Upanishad, sau đó nó phát triển rất mạnh mẽ và
được phân ra làm nhiều trường phái, khuynh hướng vừa đấu tranh vừa bổ sung cho
nhau tạo nên bức tranh nhiều màu sắc rực rỡ. Đặc điểm chung của triết học Ấn Độ

được thể hiện:
1. Triết học Ấn Độ quan tâm đến nhiều vấn đề, nhưng vấn đề chủ yếu là vấn
đề con người, bởi vậy, nó là triết lý nhân sinh. Đặc điểm đặc biệt trong triết học Ấn
Độ là nó phân con người thành những yếu tố cấu thành, trong đó cái tâm có ý nghĩa
quyết định, từ đó hướng chủ yếu của nó là đi sâu nghiên cứu, phân tích cái tâm của
con người. Triết học Ấn Độ cho rằng muốn hiểu được thế giới thế giới trước hết
phải hiểu mình đã và khi đã hiểu mình thì hiểu tất cả vì bản thể vũ trụ có trong mỗi
con người.
2. Mục đích của triết học Ấn Độ là để đạt đến sự giải thoát, trừ bỏ chủ nghĩa
duy vật. Với mục đích giải thoát nên mỗi hệ thống triết học Ấn Độ là những con
đường khác nhau để đi đến giải thoát. Như vậy, triết học Ấn Độ giống như ngón tay
chỉ mặt trăng, như con đò để đưa lữ khách qua sông. Do đó, triết học Ấn Độ là triết
lý sống, nó gắn liền với tôn giáo, tâm linh, là triết học của tôn giáo.
3. Nếu như nhận thức trong triết học phương Tây nhìn chung bắt đầu từ học
hỏi, tích lũy kiến thức và đi theo con đường từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng
đến bản chất, từ cảm tính đến lý tính... thì nhận thức trong triết học Ấn Độ lại bắt
đầu từ luân lý đạo đức (thanh lọc thân tâm), sau đó để tập trung tư tưởng (định), rồi
mới đến tuệ. Như vậy, trong triết học Ấn Độ, nhận thức gắn liền với đạo đức. Trong
nhận thức, triết học Ấn Độ lại đề cao việc tự nhận thức, tự hiểu. Điều này quy định
tính chất trực nhận, trức giác trong triết học Ấn Độ. Từ đó, một lôgic kéo theo là
công cụ, phương tiện nhận thức trong triết học Ấn Độ lại nghiêng về ẩn dụ hình
ảnh; trong khi đó, công cụ nhận thức của triết học phương Tây lại chủ yếu là khái
niệm.
4. Triết học Ấn Độ vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng. Thống
nhất ở chỗ dù trực tiếp hay gián tiếp nó đều bị chi phối bởi quan niệm đồng nhất
thể của Upanishad; hầu hết các trường phái đều hướng đến giải thoát; một số
nguyên lý chung có ở nhiều trường phái. Đa dạng ở chỗ triết học Ấn Độ chia thành
nhiều khuynh hướng, nhiều nhánh nhỏ; trừ chủ nghĩa duy vật, mỗi trường phái là
những con đường khác nhau để đi đến giải thoát; nhiều vấn đề khác nhau được đặt
ra ở những trường phái khác nhau.

Trong thời kỳ này toàn bộ hệ thống triết học Ấn Độ được chia thành 9
trường phái:
• Sáu trường phái “chính thống” là:
- Vedanta
- Mimansa
- Samkhya
- Yoga
- Vaisesika
- Nyaya
• Ba trường phái “không chính thống” là:
- Lokayata
- Jaina
- Buddha (Phật giáo)
4


5. Sự phát triển của triết học Ấn Độ là sự đấu tranh giữa các trường phái và
suy cho cùng nó phản ánh nhu cầu của đời sống xã hội trong đó tôn giáo là trung
tâm điểm. Mặt khác, sự phát triển của triết học Ấn Độ chủ yếu đi theo hướng tuần
tự thay đổi về lượng, tức những nguyên lý nền tảng đã được đặt ra từ thời cổ xưa,
về sau chỉ phát triển, bổ sung, hoàn thiện.
6. Biện chứng trong triết học Ấn Độ mang tính chất ngây thơ, duy tâm; sự
phát triển đi theo vòng tròn, tuần hoàn. Điều này do công xã nông thôn biệt lập,
khép kín ở Ấn Độ quy định.
7. Khác với triết học Trung Quốc, tư duy trong triết học Ấn Độ không trọng
cái cụ thể, hữu hạn; họ muốn vượt cái này để đi đến cái tuyệt đối.
Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên của triết học Ấn Độ là do điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội của Ấn Độ cổ đại quy định. Do các điều kiện tự nhiên, về con
người, về xã hội, về kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo, tâm linh, nền triết học
Ấn Độ đã trải qua nhiều bước thăng trầm, tạo nên nét đặc sắc mang bản chất rất Ấn

Độ, rất phương Đông.
*) TH ÂĐ cổ đại đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề của tư duy triết học .
Đó là những vấn đề thuộc bản thể luận, TH ÂĐ đã hướng tư duy (suy tư) vào
nguồn gốc sinh thành của vạn vật, truy cứu nguồn gốc khởi đầu chúng. Trong quá
trình suy tư triết lý ấy đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu thực, vượt qua tầm suy nghĩ
nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán siêu hình về cội nguồn của tồn tại.
Chính tại điểm này làm xuất hiện những cảm nhận về tính biện chứng của tồn tại:
Sự thăng bằng của các yếu tố sự mất thăng bằng của những xung lực nội tại – sự
biến hóa sinh thành của vạn vật từ cái vô hình- siêu vạt lý – đến cái hữu hình, đa
đạng.
Một xu hướng khá đậm nét mà các nền triết học khác của thế giới ít quan tâm
đó là sự giải quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tâm linh tôn giáo, đi tìm cái
Đại ngã trong cái Tiểu ngã của mỗi thực thể cá nhân, ở đây xu hướng “ hướng nội”
( khác xu hướng “hướng ngoại” của phương Tây) trở thành 1 xu hướng trội và cũng
là thế mạnh của tư duy ÂĐ nhờ đó đã đi sâu vào những “bí ẩn” của đời sống nhân
sinh. Những sự thật cuộc đời mà phật giáo đề cập đến là những hiển nhiên với bất
cứ ai, dù người đó thuộc vè đẳng cấp , giai cấp hay dân tộc nào, vậy là suy tư triết
học nhân sinh ấy đã đạt tới nhân sinh nhân loại. Đó cũng là nguyên nhân nội tại
khiến cho nó có sức sống tỏa rộng ra nhiều dân tộc, ở nhiều thời đại. Có thể nói :
Sự phản tỉnh nhân sinh là 1 nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn
độ cổ đại, rất hiếm thấy ở các nền TH khác. Đó cũng là 1 giá trị TH mà con người
hiện đại không thể bỏ qua.

5


II. Triết học phật giáo:
1. Lược khảo về phật giáo:
Người sáng lập Phật giáo là Thái tử Siddhartha (Tất Đạt Đa) của một vương
quốc nhỏ ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc Nêpan). Người ta không biết rõ đích xác năm

sinh của Đức Phật, nhưng theo truyền thuyết Đức Phật sinh ngày 15/4/623 tr.CN.
Thấy đời là bể khổ, Ngài quyết chí đi tu. Mới đầu Ngài tu theo lối khổ hạnh ở Tuyết
Sơn 6 năm. Thấy không có kết quả, Ngài đổi hướng và đi đến giác ngộ (Buddha,
Sakyamuni). Sau khi giác ngộ, Ngài đi khắp nơi giáo hóa, cứu khổ cứu nạn suốt 40
năm trời. Ngài thọ khoảng 80 tuổi.
Phật giáo xuất hiện vào thế kỷ VI tr.CN, khi mà công cụ bằng sắt đã trở nên phổ
biến, kinh tế, thương mại có bước phát triển vượt bậc, con người bon chen, khổ sở
vì tham lam đa dục. Xã hội thời kỳ này đang dần chuyển từ xã hội chiếm hữu nô lệ
sang phong kiến, tức đang nằm trong giai đoạn mà Mác gọi là phương thức sản
xuất châu Á.
Phật giáo xuất hiện trên cơ sở phê phán đạo Bàlamôn về chế độ đẳng cấp khắt
khe, về học thuyết linh hồn bất tử và thần tạo vật; trên cơ sở các học thuyết cũ đã
trở nên lỗi thời, các học thuyết mới lại quá nhiều do đó con người không biết đi
theo đường nào, khiến lòng người hoang mang, luân lý hỗn loạn. Từ đó đức Phật
giương cao ngọn cờ trung đạo (tránh thái cực của Lokayata – khoái lạc, hưởng thụ
và Jaina – khổ hạnh, ép xác).
Về mặt triết học Phật giáo được chia thành ba giai đoạn:
• Từ đức Phật đến 100 năm sau khi Phật nhập diệt, được gọi là Phật giáo nguyên
thủy (Therevada);
• Từ 100 năm khi Phật nhập diệt đến thế kỷ I, được gọi là Phật giáo Tiểu thừa
(Hinayana). Truyền bá ra bên ngoài theo hướng xuống phía nam (Srilanca,
Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia...)
• Từ thế kỷ I đến thế VI, được gọi là Phật giáo Đại thừa (Mahayana). Truyền bá ra
bên ngoài theo hướng lên phía Bắc (Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên,
Nhật Bản...
Phật giáo hiện nay vẫn tồn tại và phát triển, ở một số nước Phật giáo vẫn là quốc
giáo.
Phật tổ giảng dạy giáo lý của mình bằng truyền miệng (Kinh không chữ). Sau khi
ngài tịch khoảng thế kỷ III tr.CN, Tam tạng chân kinh (kinh, luật, luận) mới xuất
hiện bằng tiếng Pali, qua đó thể hiện tư tưởng cơ bản của Phật giáo trên hai phương

diện: Bản thể luận và nhân sinh quan.
1. Bản thể luận:
• Trong Phật giáo, thế giới quan không tách rời nhân sinh quan, bởi lẽ khảo sát thế
giới, nghiên cứu vũ trụ mà tách rời khỏi con người thì đức Phật không chấp nhận.
• Theo đức Phật, mọi sự vật, hiện tượng đều phải xem xét đến cái chân tướng, cái
thực tướng của nó (gần với khái niệm bản chất trong triết học), tránh tưởng tượng;
phải thị kiến và như thực kiến (gần với khái niệm khách quan trong triết học). Với
cách khảo sát thế giới này, Phật đã phát hiện ra mọi hiện tượng đều do nhân duyên
sinh, các pháp do nhân duyên sinh. Nhân duyên ở đây chỉ mối liên hệ, điều kiện.
Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối liên hệ chằng chịt, không có gì
6


là tồn tại độc lập tuyệt đối.
• Phật giáo cho rằng, bản thể (thực tướng) của vũ trụ là chân như (chân tâm) không
thể mô tả được, bởi vậy, thái độ đúng đắn nhất để trực nhận bản thể là im lặng (vô
ngôn).
• Nhìn chung, thế giới quan Phật giáo được thể hiện rõ nét qua các tư tưởng chủ
yếu là: “nhất thiết duy tâm tạo”, “vô thường”, “vô ngã” và “luật nhân quả”.
- “Nhất thiết duy tâm tạo”: là vạn pháp (mọi sự vật, hiện tượng) từ tâm mà sinh ra,
phụ thuộc vào “duyên khởi” (điều kiện, hoàn cảnh).
- “Vô thường”: là không thường, có sinh có diệt, biến đổi, trôi, chảy không ngừng,
không có sự vật nào tồn tại vĩnh viễn. Sự biến đổi nhanh hơn một niệm gọi là
“niệm niệm vô thường”. Sự chuyển rõ theo chu kỳ “thành – trụ - hoại – không” hay
“sinh – trụ - dị - diệt) gọi là “nhất kỳ vô thường”.
- “Vô ngã”: là sự vô thường của con người, không có trường sinh. Vì vậy, theo Phật
giáo, mọi mưu toan làm cho cái ta (ngã) trường tồn đều là sai lầm, trái với chân lý
của Phật. Phật giáo được gọi là “đạo sắc sắc – không không”.
- “Luật nhân quả”: Theo Phật giáo có nguyên nhân tất sinh ra kết quả (quả báo).
Nhưng kết quả phụ thuộc vào duyên khởi. Nguyên nhân phù hợp với duyên khởi sẽ

có kết quả phù hợp là “nhất định pháp”, “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”;
còn duyên khởi không phù hợp thì kết quả thế này hoặc thế khác gọi là “bất định
pháp”. Chuỗi các mối liên hệ nhân – duyên – quả báo như vậy gọi là “tính trùng
trùng duyên khởi” – “pháp giới tính”. Luật nhân quả là học thuyết sâu sắc của Phật
giáo, nó giải thích mọi sự vận động biến đổi trong vũ trụ.
2. Nhân sinh quan:
Phật giáo chủ yếu quan tâm đến cứu khổ, đặc biệt là cứu khổ cho con người, do đó,
nó chủ yếu tập trung vào vấn đề con người, vấn đề nhân sinh. Đối với vấn đề này,
Phật giáo đưa ra tư tưởng “luân hồi và nghiệp báo”, “tứ diệu đế”, “thập nhị nhân
duyên” và “Niết bàn” nhằm lý giải sự ra đời, tồn tại, bản chất của đời sống con
người:
• Quan niệm về cấu tạo con người và sự xuất hiện của con người được thể hiện
trong thuyết “Luân hồi nghiệp báo”: là giáo lý của Phật giáo dựa trên luật nhân quả.
Theo Phật giáo, sự sinh tử của con người (vô ngã) là sự tan hợp của ngũ uẩn:
- Sắc: vật chất, bao gồm “tứ đại”: Địa – xương thịt; Thủy – máu; Hỏa – nhiệt;
Phong – hô hấp;
- Thụ: Là những cái chỉ cảm tình, do cảm mà biết – nghiêng về tình cảm (gần như
cảm giác);
- Tưởng: Là tưởng tượng, biểu tượng, tri giác, ký ức (nghiêng về trí);
- Hành: Là ý chí, những yếu tố khiến cho tâm vận động;
- Thức: Là ý thức, cái biết phân biệt.
Theo quy luật “vô thường” năm yếu tố này luôn luôn vận động. Con người
sau khi chết có thể đầu thai trở lại sáu kiếp là: nhân, tiên, súc sinh, địa ngục, Atula
và quỷ. Quá trình cứ thế như chiếc bánh xe (luân) quay tròn (hồi). Đó là luân hồi.
Tái sinh vào kiếp nào (kết quả - nghiệp báo) là phụ thuộc vào nghiệp (ý nghiệp,
khẩu nghiệp). Lại có thiện nghiệp, ác nghiệp, bất động nghiệp, cực trong nghiệp,
cận tử nghiệp. Có nghiệp của chính bản thân, của cha mẹ, của gia đình... Hơn nữa,
lại có nghiệp báo ngay trước mắt, đến ngay với mình (quả báo nhãn tiền) hay đến
với thế hệ sau (cha làm con chịu). Tổng hợp lại gọi đó là thuyết luân hồi nghiệp
7



báo.
Thuyết luân hồi nghiệp báo không thừa nhận có linh hồn bất tử. Luân hồi ở đây
không phải là sự đầu thai của linh hồn mà là sự kết tập mới của ngũ uẩn qua nghiệp
lực. Nó di truyền vào ngũ uẩn, dẫn dắt con người vào bể khổ trầm luân, Phật giáo
chỉ ra con đường đường lối giải thoát ở Tứ diệu đế.
• Quan niệm về cuộc đời con người được thể hiện trong “Tứ diệu đế” và “Thập nhị
nhân duyên”:
- Khổ đế: là học thuyết về sự khổ, cho rằng đời người là bể khổ. Có tám cái khổ
chủ yếu (bát khổ):
+ Sinh, lão, bệnh, tử;
+ Ái biệt li khổ: Yêu nhau phải xa nhau;
+ Oán tăng hội khổ: Ghét nhau phải hội tụ với nhau;
+ Sở cầu bất đắc khổ: Muốn mà không được;
+ Ngũ thủ uẩn khổ: Khổ vì có sự tồn tại của thân xác.
Vậy là, ngay cả khi vui sướng nhất cũng vẫn có cái khổ, không thoát khỏi bể khổ.
- “Nhân đế” (Tập đế): nói về nguyên nhân của cái khổ. Có nhiều nguyên nhân,
nhưng có ba cái chính là: tham, sân, si. Những nguyên nhân ấy kết hợp với duyên
khởi hình thành thuyết Thập nhị nhân duyên. Đó là mười hai cái vừa là nhân vừa là
duyên của sự khổ: Vô minh, hành, thức, danh - sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu,
sinh và lão - tử.
- “Diệt đế”: nói về sự diệt khổ, phải diệt nguyên nhân sinh ra khổ, phải “tịnh
nghiệp”, tức là phải diệt nghiệp.
- “Đạo đế”: là đường lối, phương pháp diệt khổ, giải thoát khỏi vòng luân hồi. Diệt
khổ suy cho cùng là diệt “vô minh” để giác ngộ chân lý của Phật giáo. Đường lối
ấy có tam học – ba cái phải học (tu) là học Giới, học Đinh và học Tuệ. Ba sự học đó
thể hiện qua tám phương pháp chính:
+ Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn, nhất là Tứ diệu đế;
+ Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn;

+ Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính;
+ Chính nghiệp: hành động chân chính (không tà dâm, không sát sinh...) nghiệp có
tà nghiệp và chính nghiệp. Nếu là tà nghiệp (sát hại, trộm cướp...) thì phải tu sửa,
cải tạo, nếu là chính nghiệp thì phải giữ cho vững. Có thân nghiệp (do hành động
gây ra), khẩu nghiệp (do lời nói gây ra) và ý nghiệp (mới trong ý nghĩ)
+ Chính mệnh: phải tiết chế dục vọng, trì giới (giữ các điều răn).
+ Chính tinh tấn: hăng hái, tích cực trong việc tìm kiếm và truyền bá chân lý của
Phật.
+ Chính niệm: Phải thường hằng nhờ Phật, niệm Phật.
+ Chính định: Phải tĩnh lặng, tập trung tư tưởng mà suy nghĩ về Tứ diệu đế, về vô
thường, khổ.
• “Niết bàn”: Thực hành tu luyện tốt đạo để có thể giác ngộ chân lý nhà Phật, chứng
quả Niết bàn, giải thoát khỏi bể khổ trầm luân.
- Niết bàn là một trạng thái tinh nghiệp, hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sự
sinh tử luân hồi, là đắc đạo ở các mức độ khác nhau.
- Niết bàn không phải là một thế giới khác riêng biệt mà ở ngay thế giới hiện thực.
Người đắc đạo vẫn có thể đang sống.
Phật giáo là một tôn giáo. Vì vậy, nó có những hạn chế về mặt thế giới quan và
8


nhân sinh quan. Song, với thái độ khách quan, chúng ta cần nhận thức rõ những yếu
tố tích cực trong tư tưởng triết học Phật giáo. Từ khi xuất hiện cho đến nay, Phật
giáo là tôn giáo duy nhất lên tiếng chống lại thần quyền. Trong những tư tưởng của
nó có những yếu tố duy vật và biện chứng. Đạo Phật còn tích cực chống chế độ
đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo bất công đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội; nói
lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời. Đạo Phật nêu
cao thiện tâm, bình đẳng, bác ái cho mọi người như là một tiêu chuẩn đạo đức cơ
bản của đời sống xã hội. Những giá trị tích cực của Phật giáo đã đưa nó lên thành
một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới.

2. Nội dung tư tưởng TH của phật giáo:
2.1. Thế giới quan của TH phật giáo:
*) Nguồn gốc của TGQ:
KHông có đấng sang tạo tối cao, toàn năng tồn tại như 1 loại lực siêu thế nằm ngoài
thế giới, sắp xếp điều hành và cai quản trật tự thế giới. Vũ trụ hiện hữu từ nó. Sự
hiện hữu của vũ trụ do sự tương lien tương thuộc của vạn vật vạn sự, là kết quả của
sự tương lien tương thuộc cảu vạn vật, phụ thuộc vào sự tương lien tương thuộc của
vạn vật.
Vạn vật vạn sự trên thế gian đều tương duyên vs nhau, đều nương tựa vào
nhau mà sinh thành, khởi phát, k có sự vật hiện tượng nào có thể tự mình sinh ra
mình, tự mình tồn tại độc lập tách biệt với các sự vật hiện tượng khác. Tất cả đều
tương duyên tương thuộc với nhau. Do tương duyên tương thuộc mà cái này có nên
cái kia có. Cái kia có nên cái này có, cái này hiện hữu vì cái kia hiện hữu cái này
hiện hữu nên cái kia không hiện hữu.
Duyên khởi hay duyên sinh là điều kiện quy định sự tồn tại hiện hữu hay
không hiện hữu của vạn vật vạn sự. có 4 loại duyên:
- Nhân duyên: là điều kiện trực tiếp gần gũi nhất làm khởi phát hình thành sự
vật hiện tượng.
- Tăng thượng duyên: là những điều kiện trợ lực, giúp sức cho nhân duyên làm
thành sự vật.
- Sở duyên duyên: Là những điều kiện làm đối tượng cho nhận thức con
người.
- Đẳng vô gián duyên: là sự lien tục không gián đoạn không ngừng nghỉ của
mọi sự hình thành, tồn tại.
Vạn vật tương duyên tương thuộc với nhau nên vạn vật vừa là nhân vừa là
quả. Nhân của cái này nhưng quả của cái kia. Vũ trụ là tổ hợp của những
nguyên nhân và kết quả, là 1 mạng lưới lien hệ mật thiết với nhau của những
nguyên nhân và kết quả . k có nguyên nhân đàu tiên , k có kết quả cuối cùng.
Nhân quả là 1 chuỗi vô cùng tận không đầu không cuối.
*) Kết cấu cảu TG”

TG tồn tại khong có tận cùng, k có giới hạn. Vũ trụ vô biên không có lúc bắt
đầu k có lúc kết thúc. Có 3 loại TG đó là tiêu thiên, trung thiên và đại thiên. 1
tiểu thiên thế giới = 1000 thế giới, 1 trung thiên TG=1000 tiểu thiên TG, 1
đại thiên TG=1000 trung thiên TG.
9


TG muôn hình vạn vật nhưng có thể phân loại thành các cõi như sau:
- Cõi trời: gồm:
+ Dục giới : nơi lòng dục thịnh. gồm có các cõi Tứ thiên vương, đạo la,
Dama, Đâu suốt, hóa lạp, tha hóa. Các cõi này có tuổi thọ từ 500-16000 tuổi.
+ Sắc giới: nơi chưa hoàn toàn thoát ly khỏi sự trói buộc của vật chất. gồm
các cõi: Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Cõi giới này có tuổi thọ trên
32000 tuổi. môi trường sống là các chất dinh dưỡng có sẵn trong không khí.
+ Cõi vô sắc giới: hoàn toàn thoát ly khỏi sự trói buộc của vật chất chỉ có
tinh thần. gồm các cõi: không vô biến xứ, vô sở hữu xứ, thức vô biên xứ, phi
phi tưởng xứ. Các tinh linh sống trong cõi giới này không có hình thể nhưng
với đạo đức tuyệt đối họ có thể hóa hiện thành bất cứ cái gì.
+ Cõi người gồm có: Đông thắng thân châu, Tây ngưu hóa châu, Nam thiện
bộ châu, Bắc câu lô châu.
+ Cõi Atu: lad cõi giới của các hung thần có hình thể xấu xí và hay gây gổ
chúng có năng lực thần thong nhưng tâm không thuần khiết.
+ Cõi súc sinh: Là cõi giới của các súc vật cho nghiệp quả xấu gây ra.
+ Ngã quỷ: là cõi giới của các loài quỷ đói khát bụng to, miệng bé mình đầy
long do nghiệp quả keo kiệt ganh tị ghen ghét.
+ Địa ngục: Là cõi giới của tinh linh của nhiều ngiệp xấu, ác độc bất lương
tham lam dâm dục và hại nhân.
*) Bản thể của TG:
TG hiện tượng là tg có quy luật sinh – trụ - dị - diệt hay thành – trụ - hoại – không.
Do tương duyên tương hợp, TG hiện tượng là TG vô ngã vô thường, không có sự

vật nào có tính độc lập không phụ thuộc. không có sự vật nào tồn tại vĩnh viễn. Tất
cả TG này đều hư ảo mong manh, tạm bợ phù du, tồn tại mà không thật tồn tại, chỉ
là giả tồn, không có SV nào là giữ đc tính đồng nhất bất biến.
*) TG bản thể : là TG không sinh, không diệt, không thường k đoạn, k 1, k 2, k
tương lai, không quá khứ, ko 1 ko nhiều, Tg này là nguyên bản cơ sở của TG hiện
tượng.
* TG hiện tượng là TG tương đối, TG bản thể là TG tuyệt đối, chúng không tách
dời nhau mà tương duyên tương thuộc nhau, mà TG này hiện hữu thì TG kia hiện
hữu và ngược lại, hết thành vũ trụ cùng 1 lúc cái này du nhập trong cái kia và
ngược lại. Muôn vật cùng lúc biểu lộ tức thì, hưởng ứng nhau trùng trùng điệp điệp,
TG ko có lúc bắt đầu, ko có lúc kết thúc. Chỉ có sự tương duyên tương thuộc là
tuyệt đối.
2) Nhân sinh quan của TH phật giáo:
*) nguồn gốc bản thể của con ng:
Con ng ko phải do đấng sang tạo tối cao nào tạo ra và cũng ko phải là sản
phảm nào của đấng sang tạo tối cao nào. Sự hình thành xuất hiện tồn tại và
tang hoại, tiêu biến của con người tuân theo định luật dyên thời của phổ quát
vạn vật vạn sự do tương duyên và hội đủ duyên con người hình thành, xuất
hiện tồn tại và cũng do ko tương duyên ko hội đủ duyên, con ng tàn hoại tiêu
biến. KHi hội đủ các uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì con người sinh thành
10


tồn tại và ko hội đủ các uẩn đó thì con người ko sinh thành ko xuất hiện, ko
hienj hữu.
Nếu hội đủ duyên, các uẩn hợp lại tạo thành con người. Sắc uẩn là các vật chất
cơ bản như chất rắn, chất lỏng, chất khí, nhiệt độ.hợp thể của các vật chất tạo
thành phần thân xác con người gồm: Mắt, tai, mũi, lưỡi, cơ thể. Thọ tưởng
hành thức là các uẩn tạo nên phần tinh thần của con người. Hợp uẩn của các
uẩn này tạo nên dòng cảm giác, tri giác, tâm lý và ý thức của con người. Nếu

ko hội đủ duyên, các uẩn ko hợp thể vs nhau thì con ng ko xuất hiện, ko tồn
tại, ko hiện hữu.
*) Thập nhị nhân duyên: là 12 nhân duyên lien hệ tương tác tạo thành bánh xe
luân hồi đưa con người vào tiến trình chết – tái sinh – chết – tái sinh vĩnh viễn.
*) vô minh: là ko nhận thức đc , ko nhận thức đc bản lai diện mục hay chân
tướng thật của Tg đưa đến chi kiến sai lầm hay hiểu biết sai lệch về vạn vật
vạn sự tạo thành kim chỉ nam sai lầm dẫn đến hành động sai lầm của con
người.
*) hành: là tất cả các suy nghĩ lời nói, việc làm xuất phát từ vô minh, tạo thành
nghiệp, nghiệp của tư duy suy nghĩ ( ý nghiệp) nghiệp của lời nói (khẩu
nghiệp), nghiệp của thân thế (thân nghiệp). và tổng hợp của các nghiệp tạo ra
tình trạng và diễn biến của đời sống con người trong hiện tại và tạo thành
nghiệp báo hay nghiepj quả trong tương lai.
- Thức: là ý thức là tổng hợp tất cả những hiểu biết tri thức trong dòng đời đã
qua của cá nhân tạo nên đặc tính, khuynh hướng sống, phẩm chất, trí tuệ của
con người đi tái sinh.
- Danh sắc: là phần vo hình và hữu hình của 1 chúng sinh phát sinh cùng 1 lúc.
- Lục căn: là 6 cơ quan cảm giác: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, khí.
- Xúc: là tiếp xúc và cảm nhận do sự tiếp xúc của lục căn và đối tượng
- Thọ: là lĩnh hội thu nhận, là cảm giác về đối tượng.
- Ái: là luyến ái, khao khát, bám víu cầu mong, là sự them khát của cải vật
chất và nhục dục.
- Thủ: là bám lấy chiếm lấy vật hay điều mình mong muốn nó là ái dục đến
cao độ.
- hữu: là hành động trong hiện tại do chất thủ bám vào cái tôi của tôi.
- Sinh: là sinh ra hiện hữu xuất hiện, làm ng hay làm xúc sinh do nghiệp của
mình.
- Lão tử: là già phải chết, là tàn hoại , là tiêu biến đã có sinh thì phải có diệt.
*) Tứ diệu đế: là 4 chân lý cao quý là sự khái quát khách quan khoa học. sự
thật về đời sống con gười. Phật tổ cầu mong con ng suy ngẫm để chuyển hóa

nhận thức và hành động của mình đưa đến giải thoát.
- Khổ đế: Chân lý về sự khổ: Vạn vật vạn sự trên thế gian kể cả con người đều
vô ngã vô thường, đều ko có bản tính độc lập trường tồn, mà đều là cấu hợp
giả tạo của thực thể tất cả đều giả tồn, giả tạo, đều ko vững bền, ko chắc chắn,
đều mong manh tạm bợ, đời sống con người biến đổi theo sự cgiả tạo nên sự
thực tồn của nó ngắn ngủi, chớp nhoáng. Vì vậy làm người là khổ, đời sống
con người là khổ, già cả là khổ, chết là khổ.
*) Tập đế: là tập hợp những nguyên nhân gây ra khổ. Nguyên nhân của khổ 1
mặt do sự giả tạo mong manh ngắn ngủi tạm bợ của kiếp người. mặt khác do
11


nhận thức sự sai lầm của chính con gười về TG và về chính mình ko nhận thức
đúng về TG và về chính mình ko nhận thức đúng TG và bản thân mình nên
con người nảy sinh ái dục. từ đó trở nên tham, sân, si và hành động để thỏa
mãn tham, sân, si nên con người khổ.
- diệt đế: là chân lý về nhận thức để diệt khổ, muốn diệt khổ con người phải
nhận thức đúng bản lai diệt mục của vạn vật và của chính mình. Con người
phải lần theo thập nhị nhân duyên để lần ra cội nguồn của nhân quả, phá bỏ
được sự vô minh và ái dục để đạt tới trí tuệ để ko sai lầm.
*) Đạo đế: là con đường phải để diệt khổ, có 8 con đường (bát chính đạo).
- chính kiến là nhận thức cho đúng bản chất vô thường vô ngã của vạn vật và
con ng nhận thức rõ nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ.
- Chính tư duy là suy nghĩ chân chính có những tư tưởng chân chính, quyết
định chân chính.
- chính nữ là phát ngôn đứng đắn , ko nói những lời thô bỉ, thêu dệt 2 lưỡi dẫn
đến chia rẽ chỉ nói sự thật.
- Chính nghiệp: Sống và hành động chân chính ko làm những vc tàn ác bất
thiện, ko sát sinh ko trộm cắp, ko tà dâm, thực thành yêu thương cứu giúp
đồng loại = bố thí.

- chính mạng: sống và mưu sinh chân chính = những nghề nghiệp chân chính
ko tham lamm, gian tà vụ lợi, ko độc ác gian sảo mà luoon2 trung thực.
- Chính tinh tiến: nỗ lực cố gắng, hành động theo đường lối chân chính, cố
gắng đè nén diệt trừ tật xấu, kiểm soát thân khẩu ý.
- Chính niệm: là suy nghĩ tư duy chân chính ko để những suy nghĩ bất thiện
dẫn mình đi lang thang chỉ tập trung và những điều tốt đẹp.
- Chính đinh: là thực hành thiền định tập trung cao độ tư tưởng tâm trí vào
việc quán tâm, pháp và ko được lay chuyển thoái trí.
III. Đánh giá của bản thân về giá trị TH nhân sinh quan phật giáo??
Nhân sinh quan trong triết học Ấn Độ luôn xuất phát từ quan niệm cho rằng,
cuộc đời của con người là khổ đau. Sự khổ đau ấy được bắt nguồn từ nghiệp
chướng của kiếp trước. Con người càng trải qua nhiều kiếp thì nỗi khổ càng chồng
chất, còn gọi là luân hồi. Từ đó triết học Ấn Độ đề ra nhiệm vụ đi tìm con đường
giải thoát con người ra khỏi khổ đau. Sankhya là học thuyết nhị nguyên luận. Do đó
vấn đề nhân sinh quan của nó cũng liên quan đến bản chất của học thuyết này.
Sankhya cho rằng, con người chỉ được giải thoát khi nó có đủ tri thức điều chỉnh
hoạt động sống của con người để đạt tới sự thống nhất giữa tinh thần và vật chất.
Mặc dù tri thức dẫn đến giải thoát khỏi khổ đau, song sự giải thoát không thể có
được bằng nhận thức lý luận, mà cần phải có nhận thức thực tiễn. Tri thức thực tiễn
thu được do việc chấp hành các quy tắc của chủ nghĩa tu hành khổ hạnh và các lễ
nghi tôn giáo khác. sự giải thoát của con người có được chỉ nhờ vào nhận thức,
nghĩa là phải có sự chú ý, tập trung. Để đạt được sự giải thoát đó thì con người cần
phải có sự nhận thức về hiện thực, và để có nhận thức đó, cần phải có tư biện, tức là
lập luận trừu tượng. Nguyên nhân cuối cùng của sự khổ đau là ngu dốt. Con đường
giải thoát thông qua hiểu biết, tức là thông qua nhận thức đúng đắn về hiện thực.
Nếu hành động tuân thủ giáo huấn của Vệ đà thì hành động đó được ban thưởng.
Nếu ngược lại, sẽ bị trừng phạt. Sự thưởng phạt của những linh hồn cá thể tạo nên
quyền lực luân lý vô hình. Hoạt động của con người luôn bị nghiệp quy định. Sự
12



sung sướng và khổ đau đều liên quan đến sự chuyển động của các nguyên tử, mà sự
chuyển động đó bị quy định bởi Thượng đế. Càng hoạt động thì linh hồn càng bị
ràng buộc. Để thoát khỏi sự ràng buộc thì linh hồn phải ngừng hoạt động. Khi hoạt
động của linh hồn ngừng thì thưởng phạt cũng bị ngừng, vì vậy để được giải thoát,
linh hồn phải ngừng hoạt động, tức là chấm dứt tất cả mọi quan niệm về cuộc sống,
ý thức, hạnh phúc, khổ đau. quan niệm cuộc đời là khổ đau, do đó mục đích là
nhằm chấm dứt luân hồi thông qua việc giải thoát linh hồn ra khỏi luật của nghiệp.
Vêdanta cho rằng, cuộc đời con người khổ đau là do thiếu hiểu biết, do sự nhầm lẫn
(bởi ảo ảnh) của thế giới bên ngoài. Linh hồn hay ý thức là sản phẩm của thân thể,
nó bị chết theo cái chết của thân thể, vì vậy, cuộc đời sau cái chết cũng như sự luân
hồi là không thể chấp nhận được.

13



×