Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 18 trang )

Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận:
Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu tất yếu trong sự nghiệp đổi mới giáo
dục và đào tạo ở nước ta. Xu hướng dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học
tập của học sinh đang trở thành phương châm hành động của hầu hết giáo viên.
Phương pháp là khâu có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng đào tạo, vì vậy đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học được quan tâm
chú trọng hơn bao giờ hết. Trong quá trình nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học,
các nhà lý luận dạy học trên thế giới đã khẳng định vai trò to lớn và ý nghĩa quan trọng
của xu hướng dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của người học đối
với quá trình nhận thức và giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ. Việc dạy văn học ở nhà
trường nói chung và dạy thơ trữ tình trung đại theo hướng tích cực hoá hoạt động học
tập của học sinh là một vấn đề đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu về phương pháp
dạy học văn cũng như nhiều giáo viên giảng dạy văn học quan tâm. Đặc biệt việc dạy
thơ trữ tình trung đại lại càng được quan tâm hơn nữa. Trong chương trình Ngữ văn
lớp 7, thơ trữ tình trung đại được đưa vào giảng dạy và học tập chiếm một phần không
nhỏ. Chính vì vậy việc dạy học thơ trữ tình trung đại sao cho có hiệu quả đang là mục
tiêu phấn đấu của hầu hết các giáo viên. Đã có nhiều ý kiến đưa ra khác nhau về việc
dạy học thơ trung đại. Trong hướng xuất phát từ kết cấu, có ý kiến cho rằng: “Với thơ
Đường luật nên áp dụng theo phương pháp bổ ngang dựa theo kết cấu bài thơ mà phân
tích”. Ở hướng xuất phát từ ngôn ngữ thơ Đường luật có ý kiến lại cho rằng: “Thơ xưa
hàm súc nên việc nghiên cứu và giảng dạy cần coi trọng khai thác từng tiếng, từng từ” .
Riêng điểm xuất phát từ đặc trưng thẩm mỹ có tính tổng hợp trong thơ cổ thì: “Việc
đọc phải được coi trọng đúng mức”. GS. Nguyễn Thanh Hùng trong bài “Tác phẩm trữ
tình và phương pháp giảng dạy” đã khẳng định vị trí của thể loại trữ tình trong lịch sử,
bản chất, khả năng tác động và đặc trưng riêng của thể loại trữ tình. Từ đó, tác giả nêu
ra những kết luận về phương pháp: “ Cần phải lưu ý đặc biệt đến nhà thơ - tác giả khi
dạy tác phẩm trữ tình và cần phải quan tâm đến bình diện diễn đạt ngôn ngữ nghệ


thuật”. Theo tác giả, tất cả những phương pháp trên đều nhằm mục đích hướng học
sinh vào những vấn đề như: làm thế nào để thông qua chủ thể trữ tình, người đọc lĩnh
hội, nếm trải “ hiện thực xã hội”, làm thế nào để học sinh hiểu được “hiện thực nghệ
thuật” của tác phẩm. Như vậy, tác giả đã đặt ra vấn đề giảng dạy tác phẩm trữ tình gắn
với đặc trưng thể loại của tác phẩm, song chưa đặt ra vấn đề giảng dạy tác phẩm trữ
tình trung đại một cách cụ thể. Tác giả Phạm Luận và Hoàng Hữu Bội cho rằng:
“Muốn hiểu thơ cổ, trước tiên phải hiểu nghĩa của từ cổ”. Theo các tác giả, để lĩnh hội
nghĩa ngôn từ thơ cổ, người học cần phải chú ý tới các vấn đề: phải tích luỹ cho mình
vốn từ phong phú, đa dạng, có tri thức về những cách dùng từ trong thơ cổ. Ngoài việc
nắm vững nghĩa của từ, các tác giả lưu ý trong dạy học thơ cổ phải chú ý đến nhịp điệu
trong thơ. Người viết chỉ rõ: “ thơ trữ tình tiết tấu có chức năng quan trọng, thơ có thể
bỏ vần, bỏ đối, bỏ quan hệ đầu đàn về số chữ, nhưng tiết tấu thì không bỏ được” bởi
trong thơ trữ tình nhịp thể hiện những diễn biến của trạng thái tâm hồn. Trong công
trình này, các tác giả đã cung cấp những tri thức cần thiết giúp những người dạy học
văn có thêm kiến thức về thơ cổ. Việc dạy học văn thơ trung đại nói chung và thơ trữ
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

1


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

tình trung đại nói riêng đã được các nhà nghiên cứu và nhiều giáo viên quan tâm. Các
tác giả trong các công trình nghiên cứu đã đóng góp những kiến thức bổ ích giúp người
giáo viên vận dụng, cảm thụ, giảng dạy thơ cổ một cách có hiệu quả hơn. Tuy nhiên,
vấn đề làm thế nào để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong dạy
học thơ cổ chưa được bàn kỹ. Dựa trên cơ sở ý kiến của các nhà nghiên cứu tôi tự tìm
ra một phương pháp dạy học riêng cho mình.
2. Cơ sở thực tiễn:
- Chương trình Ngữ văn 7 kì I có một số lượng tương đối lớn các văn bản thuộc thể

loại thơ trữ tình trung đại. Đó là các văn bản nghệ thuật được các nhà thơ Trung Hoa
và Việt Nam sáng tác trong thời kì phong kiến. Các tác giả của các bài thơ trữ tình
trung đại phần nhiều là những thi nhân nổi tiếng, tâm hồn nặng những nỗi đời. Làm thơ
với họ là mượn cảnh, mượn việc để kí thác tâm sự, bày tỏ nỗi lòng nhân thế...
- Đối tượng để cảm và hiểu cái hay cái đẹp của các tác phẩm này lại là các HS lớp
7, có thể trong số đó, có một số em mê văn song để nắm được cái thần của bài thơ,
hiểu được ý nghĩa sâu xa của bài thơ quả là rất khó.
- Nhiều HS tỏ ra ngại học phần thơ trữ tình trung đại, không hứng thú... Nhiều học
sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, còn thờ ơ, lãnh đạm với
tác phẩm văn chương, nhất là thơ, thường ít hiểu, ít yêu thơ. Các em học các bài thơ
trong sách giáo khoa cũng bình thường như các bài học khác, ít em có một quyển sổ
đẹp để chăm chút viết vào đấy những bài thơ hay mà mình yêu thích. Đối với nhiều
em, thế giới thơ còn là một thế giới xa lạ. Nếu có ai hỏi các em về những bài thơ hay
mà các em thích, thường khi hiểu biết của các em quanh quẩn cũng không ngoài các
bài thơ đã học trong sách giáo khoa và sở dĩ các em thấy hay vì có in trong sách giáo
khoa và thầy giáo bảo vậy. Cá biệt không phải không có em “sợ” thơ, bởi vì có những
bài thơ có phiên âm chữ Hán, từ ngữ khó hiểu, điển cố nặng nề gây cho các em nhiều
mệt nhọc, mà cách giảng của người thầy nhiều lúc cũng chưa làm cho các em hiểu rõ
và thấy hay thêm được chút nào. Từ đó học sinh mất hứng thú khi học văn và kéo theo
chất lượng học văn ngày càng sa sút
- Với những văn bản thơ chữ Hán, một số giáo viên khi phân tích chủ yếu hướng
dẫn các em phần nhiều bám vào bản dịch thơ mà sao nhãng hoặc quên lãng bản phiên
âm (bản gốc), HS không thể nhớ nổi một từ hay một câu thơ hay trong bản gốc.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Xuất phát từ những vấn đề có tính lí luận và cơ sở thực tiễn trên cộng với những
trăn trở của bản thân, tôi tự đặt ra câu hỏi: làm thế nào để cho các em hiểu thơ yêu thơ
và say mê với thơ hơn, đặc biệt thơ trữ tình trung đại, để từ đó hình thành thói quen
ham học và cảm thụ văn thơ.
- Tôi đã quyết định chon đề tài “Mốt kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung
đại lớp 7 ở trường THCS Trần Phú” với mong muốn có thể ứng dụng hiệu quả hơn

trong giảng dạy để dạy tốt các bài thơ trữ tình trung đại trong chương
trình Ngữ văn 7, từ đó chất lượng học văn ngày càng được nâng lên.
III. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
- Thời gian: năm học 2011 - 2012
- Địa điểm: Trường THCS Trần Phú – Thị xã Gia Nghĩa – Tỉnh Đăk nông
- Phạm vi: lớp 7AB.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

2


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã vận dụng và phối hợp nhiều phương
pháp trong đó có các phương pháp cơ bản sau:
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu giáo trình có liên quan đến
vấn đề thơ và phương pháp giảng dạy thơ trữ tình.
2. Phương pháp điều tra, quan sát: Thông qua việc dự giờ thăm lớp, qua thưc tế
dạy học.
3. Phương pháp tổng kết và đúc rút kinh nghiệm. Tìm hiểu thực trạng việc dạy học
của giáo viên qua các bài thơ trữ tình trong sách giáo khoa Ngữ văn THCS.
4. Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với giáo viên trong tổ xã hội về vấn đề dạy
Ngữ văn nói chung và dạy thơ trữ tình trung đại 7 nói riêng.
5. Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi
và tác dụng của các ý kiến đóng góp về phương pháp giảng dạy thơ trữ tình trung
đại, từ đó điều chỉnh cho hợp lý hơn.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN

I. Nhìn chung về bộ phận thơ trữ tình trung đại lớp 7:
Dạy đọc hiểu thơ trữ tình, đặc biệt thơ trữ tình trung đại đòi hỏi một cách tiếp
cận riêng khác với dạy các văn bản tự sự, miêu tả hay nghị luận. Cho nên, trước khi
dạy, người thầy cần nắm được hệ thống các bài thơ trữ tình trung đại trong chương
trình Ngữ văn 7 để từ đó có định hướng, cách khai thác riêng cho từng cụm bài, từng
bài. Ta có thể theo dõi các tác phẩm thơ trữ tình trung đại lớp 7 qua bảng hệ thống sau:
STT
Tác phẩm
Tác giả
Thể loại
Quốc gia
Thất ngôn tứ
1 Sông núi nước Nam
Khuyết danh
Việt Nam
tuyệt
Trần Quang
Ngũ ngôn tứ
2 Phò giá về kinh
Việt Nam
Khải
tuyệt
3 Côn Sơn ca
Nguyễn Trãi
Lục bát
Việt Nam
Buổi chiều đứng ở phủ
Thất ngôn tứ
4
Trần Nhân Tông

Việt Nam
Thiên Trường trông ra
tuyệt
5 Bánh trôi nước
Hồ Xuân Hương Tứ tuyệt
Việt Nam
Đặng Trần Côn
Song thất lục
6 Sau phút chia li
(Đoàn Thị Điểm
Việt Nam
bát
dịch)
Bà huyện Thanh Thất ngôn bát
7 Qua đèo Ngang
Việt Nam
Quan
cú đường luật
Thất ngôn bát
8 Bạn đến chơi nhà
Nguyễn Khuyến
Việt Nam
cú Đường luật
Thất ngôn tứ
9 Xa ngắm thác núi Lư
Lí Bạch
Trung Quốc
tuyệt.
Thất ngôn tứ
10 Phong Kiều dạ bạc

Trương Kế
Trung Quốc
tuyệt.
11 Cảm nghĩ trong đêm thanh Lí Bạch
Ngũ ngôn tứ
Trung Quốc
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

3


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

12
13

tĩnh
Ngẫu nhiên viết nhân buổi
mới về quê
Bài ca nhà tranh bị gió thu
phá

Hạ Tri Chương
Đỗ Phủ

tuyệt
Thất ngôn tứ
tuyệt
Cổ phong


Trung Quốc
Trung Quốc

Như vậy, phần chương trình thơ trung đại lớp 7 bao gồm cả phần thơ Việt Nam
và thơ Trung Quốc. Tuy nhiên, giữa chúng có điểm chung bởi các bài thơ Việt Nam
thời kì này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Phong cách thơ Đường của Trung Quốc.
Chính vì vậy, trong qúa trình dạy, cần bám sát đặc trưng thể loại, các tín hiệu nghệ
thuật (chủ yếu là các thể thơ cổ điển, nghệ thuật đối, ước lệ, cách sử dụng từ ngữ) để
trên cơ sở đó, dẫn dắt HS đi tìm cái hay, cái đẹp trong tư tưởng, nghệ thuật của tác
phẩm.
II. Đặc trưng của thơ trữ tình trung đại lớp 7:
- Để dạy tốt thơ trữ tình trung đại, ta cần hiểu thế nào là thơ trữ tình Trung đại. Đây
là một khái niệm còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên, trong phạm vi khuôn khổ một sáng
kiến kinh nghiệm nhỏ, tôi xin được cắt nghĩa ngắn gọn, đơn giản: Thơ trữ tình trung
đại là các văn bản nghệ thuật mẫu mực, đạt đến độ hoàn thiện về hình thức (kết cấu,
nghệ thuật sử dụng ngôn từ) và có giá trị cao ở nội dung (mượn cảnh hoặc việc để kí
thác tâm sự, bày tỏ nỗi lòng nhân thế)
- Thơ trữ tình trung đại ở chương trình Ngữ văn 7 (xét theo phạm vi lãnh thổ) gồm
thơ trữ tình trung đại Việt Nam và thơ trữ tình trung đại Trung Quốc.
+Thơ trữ tình trung đại Việt Nam bao gồm các tác phẩm thơ viết trong thời kì
phong kiến, từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, bao gồm bộ phận văn học chữ Hán và văn học
chữ Nôm. Bộ phận văn học chữ Hán chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Trung Quốc
thời Đường. Bộ phận văn học chữ Nôm ra đời sau (từ thế kỉ XVIII đến nửa cuối thế kỉ
XIX) nhìn chung vẫn còn ảnh hưởng bởi phong cách thơ Đường song đã có nhiều sáng
tạo (sự phá cách) về kết cấu bố cục, niêm luật, ý thơ.
+Thơ trữ tình trung đại Trung Quốc: chủ yếu là các bài thơ thời Đường, đó là thành
tựu tiêu biểu nhất của văn học đời Đường (từ thế kỷ VII đến thế kỷX). Đối với lịch sử
văn học, thơ Đường ra đời trước nền văn học trung đại Việt Nam gần 3 thế kỷ. Đối với
bạn đọc Việt Nam, nhất là học sinh THCS, thơ Đường là sản phẩm tinh thần vừa xa về
khoảng cách thời gian vừa xa về mặt ngôn từ. Thông qua việc tiếp nhận , học sinh sẽ

hiểu được những nột độc đáo của thơ ca đời Đường và có tác dụng rất lớn trong quá
trình liên hệ học tập các tác phẩm thơ của dân tộc (đặc biệt là thơ ca thời kì Trung đại).
- Tuy nhiên, dù là thơ trữ tình trung đại Việt Nam hay Trung Quốc thì đều mang
những nét đặc trưng cơ bản sau:
+ Về nội dung, gồm hai tầng nghĩa: nghĩa bề mặt (nghĩa phản ánh) và nghĩa hàm ẩn
(nghĩa biểu hiện), tương ứng với nó là bức tranh cảnh hoặc việc và bức tranh tâm
trạng, trong đó, tâm trạng con người là mục đích chính của biểu cảm nghệ thuật
+ Về thể thơ: thơ trữ tình trung đại được tổ chức theo quy ước của các thể thơ tiêu
biểu: lục bát, song thất lục bát, các thể thơ Đường, gồm:
Thất ngôn tứ tuyệt (Bốn câu, mỗi câu bẩy chữ), Ngũ ngôn tứ tuyệt (Bốn câu, mỗi
câu năm chữ), Thất ngôn bát cú (Bốn câu, mỗi câu tám chữ) … Song chung quy lại ,
thơ Đường thường gồm 2 loại chính là Ngũ ngôn (mỗi câu 5 chữ) và Thất ngôn (mỗi
câu 7 chữ). Các câu 1 ,2 , 4 hoặc chỉ có câu 2 , 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Hai thể
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

4


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

thơ chính của Thơ Đường là Cổ thể (gồm Cổ phong và Nhạc phủ) và Cận thể (hay Kim
thể, gồm Luật thơ và Tuyệt cú). Thơ Cổ thể thường linh hoạt về số câu, không gò bó về
niêm luật, về cách gieo vần …; Thơ Cận thể (còn gọi là thơ Đường luật), tuy có gò bó
về niêm luật song lại có cấu trúc cân đối hài hoà, mỗi bài thơ giống như một bài toán
giải đáp tình cảm, cảm xúc hay một vấn đề xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Khai
thác thơ trung đại cần căn cứ vào thể thơ để từ đó tìm hiểu cách biểu đạt đặc sắc của
tác giả trong bố cục của bài.
+ Nhịp thơ, âm điệu: trong thơ trữ tình, nhịp điệu có vai trò quan trọng. Nó giúp
nhà thơ nâng cao khả năng biểu cảm, cảm xúc. Cách ngắt nhịp được xem là một từ đa
nghĩa, có thể biểu hiện được các trạng thái cảm xúc: khi căm thù tột đỉnh, lúc xao

xuyến bâng khuâng, khi cô đơn buồn tẻ, lúc xúc động dâng trào... Những cung bậc tình
cảm ấy nhiều khi không được mô tả bằng chữ nghĩa, sự ngắt nhịp là một trong những
phương tiện hữu hiệu để thể hiện “sự im lặng không lời”, tạo nên ý tại ngôn ngoại.
+ Vần thơ, thanh điệu: tiếng Việt rất giàu tính nhạc, hệ thống vần và thanh điệu là
những yếu tố cơ bản tạo nên tính nhạc của tiếng Việt nói chung và ngôn từ văn học nói
riêng, cho nên cần chú ý đến yếu tố này khi phân tích thơ trữ tình. Gieo âm a (trong bài
“Qua Đèo Ngang”)gợi âm hưởng buồn bã, bâng khuâng, nỗi buồn như lan tỏa, thấm
vào cảnh vật của người nữ sĩ; gieo vần “âu” (trong bài “Chinh phụ ngâm khúc”) “Thấy
xanh xanh những mấy ngàn dâu – ngàn dâu xanh ngắt một màu...” gợi sự u sầu, đau
khổ của người chinh phụ trước cảnh li biệt. Sự phối hợp các thanh bằng trắc cũng góp
phần thể hiện nội dung tư tưởng của bài thơ.
+ Ngôn từ, chi tiết, hình ảnh thơ: văn học là nghệ thuật của ngôn từ, ngôn từ có giá
trị biểu cảm cao trong các bài thơ trữ tình, đặc biệt hệ thống các từ láy; với các bài thơ
mang phong cách cổ điển thì càng cần chú ý đến hệ thống từ ngữ, những chữ được coi
là “nhãn tự” của bài thơ, làm nổi bật được cái thần của tác phẩm.
+ Phép tu từ: điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, đặc biệt phép đối.... là những biện pháp
nghệ thuật góp phần thể hiện nội dung văn bản một cách hiệu quả. Trong thể thơ thất
ngôn bát cú, phép đối phải có ở các câu 3 và 4, 5 và 6; trong thể thơ tứ tuyệt, phép đối
xuất hiện ở câu 3 và 4, cũng có khi xuất hiện ở câu 1 và 2, hay ngay trong câu thơ cũng
phép đối (gọi là tiểu đối). Phép đối trong thơ cổ điển thường đối cả ý, từ loại lẫn thanh
điệu, điều đó khiến cho ý thơ vượt ra ngoài tác phẩm, “ý tại ngôn ngoại”.
+ Không gian và thời gian trong thơ trữ tình: là nơi tác giả hay nhân vật trữ tình
xuất hiện để thổ lộ tấm lòng mình. Không gian thường gắn với các địa điểm như núi
cao, biển rộng, sông dài. Cho nên, cần chú ý xem nhà thơ mô tả không gian đó có gì
đặc biệt, không gian ấy có ý nghĩa gì trong việc phản ánh nội dung miêu tả và biểu cảm
của bài thơ.
Xác định được các đặc trưng cơ bản của thơ trữ tình trung đại để có phương pháp
phù hợp khi hướng dẫn học sinh khai thác, cảm thụ tác phẩm thơ là điều hết sức quan
trọng.


CHƯƠNG II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. Thực trạng:
a) Về phía nội dung chương trình thơ trữ tình trung đại 7:
- Phần nội dung chương trình Ngữ văn 7 kì I có nhiều bài thơ trung đại rất tiêu
biểu, đặc sắc. Trước đây, một số bài thơ này được học trong chương trình 9 nhưng theo
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

5


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

quan điểm đổi mới, các tác phẩm này đã được đưa xuống chương trình văn 7. Vì vậy
để học sinh nắm được cái thần của bài thơ, hiểu được ý nghĩa sâu xa của bài thơ quả là
rất khó.
b) Về phía học sinh:
- Nhiều HS tỏ ra ngại học phần thơ trữ tình trung đại, không hứng thú, nhất là các
bài thơ có bản phiên âm chữ Hán... Nhiều học sinh chưa có thói quen chủ động tìm
hiểu khám phá bài học, còn thờ ơ, lãnh đạm với tác phẩm văn chương, nhất là thơ,
thường ít hiểu, ít yêu thơ. Các em học các bài thơ trong sách giáo khoa cũng bình
thường như các bài học khác, ít em có một quyển sổ đẹp để chăm chút viết vào đấy
những bài thơ hay mà mình yêu thích. Đối với nhiều em, thế giới thơ còn là một thế
giới xa lạ. Nếu có ai hỏi các em về những bài thơ hay mà các em thích, thường khi hiểu
biết của các em quanh quẩn cũng không ngoài các bài thơ đã học trong sách giáo khoa
và sở dĩ các em thấy hay vì có in trong sách giáo khoa và thầy giáo bảo vậy. Cá biệt
không phải không có em “sợ” thơ, bởi vì có những bài thơ có phiên âm chữ Hán, từ
ngữ khó hiểu, điển cố nặng nề gây cho các em nhiều mệt nhọc, mà cách giảng của
người thầy nhiều lúc cũng chưa làm cho các em hiểu rõ và thấy hay thêm được chút
nào. Từ đó học sinh mất hứng thú khi học văn và kéo theo chất lượng học văn ngày
càng sa sút

c) Về phía giáo viên:
- Với những văn bản thơ chữ Hán, một số giáo viên khi phân tích chủ yếu hướng
dẫn các em phần nhiều bám vào bản dịch thơ mà sao nhãng hoặc quên lãng bản phiên
âm (bản gốc), HS không thể nhớ nổi một từ hay một câu thơ hay trong bản gốc.
- Tiếp cận với những bài thơ mĩ lệ, mang tính mẫu mực, một số giáo viên
tham phần bình, bình quá nhiều khiến thiếu thời gian để học sinh phát huy năng
lực sáng tạo của mình trong quá trình cảm nhận.
- Một số giáo viên lại lại chỉ chú ý đến hệ thống câu hỏi mà chưa chú ý đến phần
bình, giờ dạy khô khan, điều đó khiến cho năng lực cảm thụ cái hay cái đẹp của tác
phẩm với học sinh chưa hoàn toàn đúng mức.
II. Một số biện pháp dạy thơ trữ tình trung đại lớp 7
Thơ trữ tình trung đại là một vườn hoa rộng lớn, mỗi bài thơ mang trong mình một
dáng vẻ độc đáo riêng về mặt nội dung, song nếu đi sâu phân tích, bình giá có tính lí
luận, chúng ta có thể thấy được trong mỗi bài thơ vẫn chất chứa những hơi thở chung,
gộp lại thành những nét của một phong cách thơ mẫu mực. Đó là chất cổ điển trong vẻ
đẹp, trong màu sắc không gian và thời gian; là bút pháp chấm phá như muốn ghi lại
linh hồn của tạo vật; là điểm nhấn nghệ thuật rộng mở, tĩnh trong cái động, động chìm
trong tĩnh ... Để giúp học sinh có thể tiếp thu tốt hơn những tác phẩm thơ Đường tôi
xin nêu một số cách dẫn dắt để học sinh tiếp cận và cảm thụ tác phẩm thơ theo hướng
tích cực:
1. Đối với khâu chuẩn bị
- Về phía giáo viên: tìm hiểu bài kĩ lưỡng nhuần nhuyễn đến mức thuộc thơ, sống
với bài thơ, tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để hiểu được thấu đáo nội
dung tư tưởng của tác phẩm. Hướng dẫn HS soạn kĩ ở nhà, kiểm tra kĩ bài soạn của
HS, có biện pháp nhắc nhở, phê bình hay báo với giáo viên chủ nhiệm nếu HS có biểu
hiện soạn chống đối như soạn sơ sài, soạn nhưng chỉ là chép lại mà không hiểu, không
nhớ.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

6



Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

- Về phía học sinh: cần chuẩn bị bài soạn chu đáo trên cơ sở hướng dẫn của hệ
thống câu hỏi trong sách giáo khoa và sự hướng dẫn của giáo viên. Với HS học tốt, cần
đọc thêm tư liệu để bước đầu hiểu được tác phẩm, sưu tầm các câu thơ, bài thơ có nét
tương đồng với tác phẩm sắp học hay các nhận định về tác phẩm.
2. Đối với hoạt động dạy học trên lớp lớp:
Bước 1 Kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh: giáo viên nên hết sức coi trọng
khâu kiểm tra sự chuẩn bị của HS, bởi đây chính là tiền đề quan trọng để HS cảm thụ
được tác phẩm ngay trên lớp.
Bước 2 Vào bài: giáo viên cần chú ý khâu vào bài để tạo không khí phù hợp với
bài học. Có thể là một bài hát, một bản nhạc, một bức tranh... mang nội dung tư tưởng
tương đồng với tác phẩm chuẩn bị học.
Ví dụ: khi học bài “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch, giáo viên có thể
cho HS nghe bài hát “Quê hương” của Đỗ Trung Quân. Âm điệu ngọt ngào cùng lời
bài hát đằm thắm, thiết tha khiến HS cảm nhận dễ dàng hơn, cụ thể hơn về tình yêu
quê hương trong mỗi con người, và như vây, cách tiếp cận với bài thơ sẽ học trở nên dễ
dàng hơn.
Bước 3: Đọc văn bản – tiếp xúc văn bản:
- Đọc thơ: Đọc thơ là để tạo tâm thế ban đầu cần thiết cho học sinh cũng chính là
bước đầu tiếp cận hình tượng thơ. Cần đọc cả bản phiên âm, dịch nghĩa (nếu có), dịch
thơ
- Đọc diễn cảm là tạo điều kiện cho cảm xúc của học sinh được khởi động theo âmvang của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ thơ, và ngôn ngữ nhân vật, cái mà đọc bằng mắt
nhiều khi không đạt được. Đọc chính là tạo lên rung động thơ, tạo lên sự đồng điệu về
tâm hồn để rồi tiến tới sự đồng tình và đồng ý với tác giả
Bước 4: Đọc – tìm hiểu nội dung văn bản:
Thơ trữ tình Trung đại thường mượn cảnh tả tình, nên nội dung của bài thường là
bức tranh cảnh và bức tranh tâm trạng (nội dung chính). Vì vậy các văn bản TTTĐ

thường đạt giá trị cao về nghệ thuật ngôn từ. Bởi vậy, khi phân tích, giáo viên cần cho
HS phát hiện và phân tích về giá trị nghệ thuật của bài để hiểu được nội dung tư tưởng
mà tác giả gửi gắm kín đáo, giáo viên cần chú ý khai thác:
+ Xác định Bố cục của bài (theo đặc trưng thể loại hoặc diễn biến tình cảm, tâm
trạng nhân vật). Giáo viên cần căn cứ vào đó để có cách tìm hiểu linh hoạt:
Ví dụ, khi dạy bài thơ “Qua Đèo Ngang” (Bà huyện Thanh Quan), đây là một bài
thơ tuân theo các quy định nghiêm ngặt của phong cách thơ Đường, vì vậy, giáo viên
nên hướng dẫn HS khai thác theo bố cục của bài thất ngôn bát cú, gồm 4 phần đề thực – luận – kết, ở mỗi phần luôn có sự song hành bức tranh cảnh và bức tranh tâm
trạng, giáo viên cần chú ý hướng dẫn HS khai thác tìm hiểu.
+ Nhịp thơ, vần thơ, thanh điệu, âm hưởng: giáo viên cần chú ý hướng dẫn HS
khai thác các yếu tố này, bởi chúng góp phần thể hiện cảm xúc của chủ thể hay nhân
vật trữ tình.
• Với bài thơ “Nam quốc sơn hà”, cần để HS thấy nhịp thơ chậm thể hiện nội dung
tư tưởng của bài, đó là lời tuyên bố dõng dạc, đanh thép về quyền tự chủ của dân tộc
• Với bài “Tụng giá hoàn kinh sư”, cần hướng dẫn HS thấy được tác dụng của việc
sử dụng nhịp thơ nhanh, dồn dập nhằm diễn tả khí thế chiến thắng của tướng sĩ nhà
Trần
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

7


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

• Với bài “Thiên trường vãn vọng”, HS cần phát hiện cách gieo vần ở bản phiên
âm (vần “iên”) để thấy được âm hưởng của bài: êm đềm, yên ả.
+ Ngôn từ, chi tiết, hình ảnh thơ: khi khai thác bài, giáo viên cần chú ý đến hệ
thống từ ngữ được sử dụng, đó là các tính từ, các từ láy gợi hình gợi cảm, các động từ,
các hình ảnh thơ... để thể hiện sâu sắc, rõ nét bức tranh cảnh và bức tranh tâm trạng
của nhân vật trữ tình.

• Trong bài “Qua Đèo Ngang, đó là hệ thống các từ láy mang giá trị gợi hình gợi
cảm: “lom khom”, gợi lên hình ảnh những tiều phu bóng dáng nhỏ bé, nhạt nhòa như
muốn chìm lắng vào trong không gian núi rừng hui hắt, vắng lặng; “lác đác” gợi lên sự
thưa thớt, vắng vẻ của những ngôi nhà chợ ven sông...Tất cả đều nhằm làm nổi bật lên
bức tranh thiên nhiên đèo Ngang heo hút lúc chiều tà, ẩn trong đó là tâm trạng buồn bã
cô đơn của người “lữ khách”
• Trong bài “Chinh phụ ngâm khúc”, một số tính từ được sử dụng có giá
trị biểu cảm cao: “xanh xanh”, “xanh ngắt”, cần cho HS thấy sự có mặt của các
tính từ này khiến cho mức độ màu xanh ngày càng đậm lại, cả một không gian như
thấm đẫm sắc xanh vời vợi, mênh mông, thăm thẳm. Đó không chỉ là màu xanh cụ thể
mà là màu xanh trừu tượng (màu xanh tâm trạng): màu xanh nhung nhớ, màu xanh cô
đơn, màu xanh của sự chia lìa, buồn khổ và hoàn toàn tuyệt vọng. Chính màu xanh ấy
đã góp phần làm nổi bật tâm trạng cô đơn trĩu nặng của người chinh phụ.
• Trong bài “Tụng giá hoàn kinh sư”, HS cần thấy được dụng ý của việc dùng các
động từ mạnh đứng đầu, “đoạt”, “cầm”, đó là thế chủ động tiến công mạnh mẽ, là
chiến thắng oanh liệt, vẻ vang của quân dân nhà Trần, là đòn thua thảm hại của giặc.
• Trong bài “Thiên Trường vãn vọng” (Trần Nhân Tông), tìm hiểu 2 câu cuối, giáo
viên nên chú ý hướng HS vào khai thác 2 hình ảnh mà tác giả lựa chọn: “mục đồng” và
“cò trắng”: trên những con đường nhỏ quanh co trở về thôn xóm, từng đàn trâu nối
đuôi nhau trong âm thanh tiếng sáo chiều réo rắt, văng vẳng; trên những cánh đồng quê
yên ả, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp hạ xuống . Ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ đầy
âm thanh và màu sắc, thanh tao và dào dạt sức sống. Bút pháp điểm nhãn, lấy động tả
tĩnh, cảnh đồng quê thanh bình, êm đềm, tĩnh lặng và tràn đầy sức sống.
• Đặc biệt, giáo viên cần chú ý hướng dẫn HS khai thác triệt để những từ được coi
là “nhãn tự” của bài thơ.
+ Phép tu từ: điệp từ, điệp ngữ, nhân hóa, đặc biệt phép đối. Nên hướng dẫn HS
phát hiện ra các biện pháp nghệ thuật cơ bản và từ đó cảm nhận được tác dụng của các
biện pháp nghệ thuật đó đem lại.
• Ví dụ, câu thơ “Hương âm vô cải mấn mao tồi” (trong bài “Hồi hương ngẫu
thư”), ta thấy có phép tiểu đối: giọng quê không đổi >< mái tóc đã thay đổi. Phép đối

càng làm nổi bật tình cảm, tâm trạng của nhân vật trữ tình: cho dù thời gian có làm cho
mái tóc thay đổi nhưng tình cảm với quê hương không hề đổi thay, trước sau như một,
vẫn nguyên vẹn, thắm thiết, bền chặt.
• Nghệ thuật so sánh, điệp từ trong bài “Côn Sơn ca” (Nguyền Trãi) khiến khung
cảnh thiên nhiên trở nên thanh cao, khoáng đạt, thanh tĩnh, nên thơ. Thiên
nhiên đã trở thành người bạn tri kỉ, gắn bó, hòa vào tâm hồn Nguyễn Trãi.
+ Phân tích tác phẩm phải gắn liền với thân thế, phong cách tác giả và hoàn
cảnh xã hội nảy sinh tác phẩm, điều đó sẽ giúp học sinh hiểu tác phẩm một cách đúng
đắn, sâu sắc hơn.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

8


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

• Chẳng hạn, phong cách thơ Lý Bạch là phong cách của một thi tiên. Ông là người
thông minh, biết làm thơ từ thuở nhỏ, giao du rộng rãi, thạo kiếm thuật.Từ trẻ ông đã
xa gia đình đi du ngoạn tìm đường lập công danh sự nghiệp. Chính vì điều đó đã ảnh
hưởng không nhỏ đến phong cách thơ của ông: một tâm hồn phóng khoáng, tự do,
hình ảnh thơ tươi sáng kỳ vĩ ,một người thích viễn du, thích thưởng ngoạn cái
đẹp...Đặc trưng này trong con người ông đã ảnh hưởng đến các tác phẩm của ông. Vì
vậy , dạy thơ ông, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh cảm nhận theo hướng
trên ,chẳng hạn trong 2 câu thơ :
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửư thiên
( Vọng Lư Sơn bộc bố )
Dịch thơ : Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây
Lý Bạch đã xây dựng một hình tượng thiên nhiên kì vĩ và diệu xảo nhờ trí

tưởng tượng mạnh mẽ, kì lạ, đạt đến mức điêu luyện. Chính sự lãng mạn, phóng túng
ấy đã tạo nên nét riêng trong thơ Lý Bạch.
Dạy Tĩnh dạ tứ ( Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) học sinh phải nắmđược: Thuở
nhỏ Lí Bạch thường lên núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng.Từ 25 tuổi, ông đã xa quê
và xa mãi. Bởi vậy cứ mỗi lần thấy trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê nhà da diết.
• Còn dạy thơ Đỗ Phủ, giáo viên cần hướng học sinh vào chất thánh trong con
người ông, phong cách thơ ông khác hẳn với Lý Bạch, ông viết về mọi đề tài và không
đề tài nào thoát ly thời cuộc vì cuộc đời ông nhiều gian nan vất vả. Ông đã có một thời
gian ngắn làm quan song từ quan vì xảy ra sự biến An Lộc Sơn, vả lại cũng không
được nhà vua tín nhiệm. Gần như suốt cuộc đời ông sống trong cảnh nghèo đói bệnh
tật. Ông là đại diện của khuynh hướng thơ hiện thực , ngòi bút của ông luôn hướng
vào phía dân nghèo:
… Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
( Bài ca nhà tranh bị gió thu phá )
Men theo chặng đường thơ Đỗ Phủ sẽ giúp học sinh thấy được bức tranh hiện
thực đời Đường đậm nét. Qua đó hiểu thêm về phong cách thơ của tác giả.
+ Luôn có sự kết hợp hài hoà giữa phiên âm, dịch nghĩa với dịch thơ (với những
văn bản chữ Hán) để HS hiểu đầy đủ dụng ý nghệ thuật của tác giả:
• Dạy thơ nói chung đã khó, dạy thơ tiếng nước ngoài qua bản dịch ( đặc biệt là thơ
chữ Hán ) lại càng khó hơn. Bởi lẽ một thực tế , giữa nguyên tác và bản dịch vẫn có độ
chênh: Hao hụt hoặc sai lệch ít nhiều … Vì lẽ đó, khi dạy những tác phẩm loại này,
giáo viên thường gặp rất nhiều lúng túng. Cho học sinh cảm nhận theo hướng nào ?
Phân tích bài thơ ra sao ? Bắt đầu khai thác từ đâu ? ... Kết quả là không ít giáo viên
khi dạy mảng văn thơ dịch mới chỉ đưa học sinh vào những hướng cảm thụ một cách
sơ sài, đôi khi còn chưa sát ý.
Việc đối chiếu phần dịch nghĩa và dịch thơ với nguyên âm trong quá trình giảng
văn là một thao tác hết sức cần thiết để giải mã tác phẩm một cách có hiệu quả. Để tiến
hành, trong quá trình dạy giáo viên cần định hướng cho học sinh vào với không khí của
sự so sánh, đối chiếu.

• Chẳng hạn ,dạy bài "Vọng Lư Sơn bộc bố" ( Xa ngắm thác núi Lư ) của Lí Bạch,
giáo viên cần đưa ra cho học sinh các câu hỏi dạng như:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

9


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

- Ở mỗi câu trong phần dịch thơ có gì khác với bản phiên âm?
- Từ nào, ý nào đã bị mất trong bản phiên âm đã bị mất khi chuyển sang bản dịch
thơ ?
Câu 1 - Phiên âm: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
- Dịch nghĩa: Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khóii tía
- Dịch thơ: Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Chủ thể của hai động từ "chiếu" và "sinh" là mặt trời . Do đó, quan hệ giữa 2
vế câu là quan hệ nhân - quả. Nghĩa là mặt trời chiếu ánh nắng vào hơi nước trên đỉnh
Hương Lô làm cho hơi nước biến thành màu tía. Tác giả đem đến cho nó một vẻ đẹp
mới: vẻ đẹp dưới ánh nắng mặt trời. Câu thơ vẽ lên một cảnh tượng thiên nhiên kì vĩ,
vừa rực rỡ ,vừa huyền ảo. Trong bản dịch thơ bỏ mất từ "sinh" làm cho quan hệ nhânquả này bị phá vỡ, chủ thể là khói tía. Cho nên cảnh tượng kì vĩ trên cũng bị giảm đi
phần nhiều.
Câu 2 - Phiên âm: Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
- Dịch nghĩa: Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước.
- Dịch thơ: Xa trông dòng thác trước sông này
Bản dịch thơ đó bỏ đi từ "quải" (treo ) làm mất ảo giác về dòng thác như một
tấm vải treo từ đỉnh núi rủ xuống. Ảo giác này rất phù hợp với vị trí đứng ngắm dòng
thác từ xa của tác giả. Nhìn từ xa dòng thác tuôn trào liên tục giống như dải lụa trắng
rủ xuống, bất động treo trên vách núi rủ xuống phía trước dòng sông. Bản dịch đã làm
cho ấn tượng về dòng thác trở nên mờ nhạt và liên tưởng ở câu sau ( Nghi thị ngân hà
lạc cửu thiên - Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây) trở nên thiếu cơ sở. Nếu dịch được từ

“quải” thì sẽ làm cho dòng thác trở nên sinh động hơn rất nhiều.
Từ những dẫn chứng cụ thể trên , chúng ta rất dễ dàng nhận thấy là giữa bản
phiên âm và bản dịch thơ đôi khi còn có sự chênh lệch khá xa. Nếu chỉ chú trọng đến
việc phân tích bản dịch thơ mà quên đi nguyên tác e rằng học sinh chỉ hiểu được cái
hay trong văn bản thơ của dịch giả mà không hiểu hết những nét riêng, những thông
điệp mà nhà thơ muốn gửi tới độc giả qua sáng tạo nghệ thuật của mình.
• Trong bài “Côn Sơn ca” (Nguyễn Trãi), đây là một bài thơ được viết bẵng chữ
Hán, theo thể điệu ca khúc cổ điển gồm 36 câu thơ chữ Hán, câu ngắn nhất 4 chữ, câu
dài nhất 10 chữ, phần lớn là câu ngũ ngôn và thất ngôn. Tuy nhiên, khi dịch, dịch giả
đã chuyển điệu, chuyển thể thành 26 câu thơ lục bát, một thể thơ do người Việt Nam
sáng tác với số câu trong bài không hạn định, đây là bản dịch vừa sát ý, vừa thể hiện
cái hay của tác phẩm qua phần dịch đầy sáng tạo. Chính vì vậy, bài thơ “Côn Sơn ca”
được độc giả biết nhiều qua bản dịch hơn.
+ Chú ý đến cảnh và tình được thể hiện trong tác phẩm: các thi nhân xưa thường
tức cảnh sinh tình, nhìn cảnh mà nghĩ đến mình, cảnh là cái cớ để bộc lộ tình cảm
trong lòng, tâm cảnh chi phối cái nhìn ngoại cảnh. Cảnh và tình có liên hệ mật thiết với
nhau, vì vậy, khi khai thác, giáo viên cần bám chắc vào đặc trưng này.
• Dạy bài “Qua Đèo Ngang” (Bà huyện Thanh Quan), cần chú ý hai bức tranh
ngoại cảnh và tâm cảnh song song: ẩn bên trong bức tranh một Đèo Ngang hoang sơ,
hiu hắt, vắng lặng khi chiều tà là nỗi lòng nhớ nước thương nhà của một con người cô
đơn, nặng lòng hoài cổ.
+ Một trong những biểu hiện tích cực của đổi mới phương pháp dạy học trong
giờ Đọc – hiểu thơ trữ tình là giảng bình.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

10


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7


Những lời bình giảng, phân tích của giáo viên trong giờ đọc – hiểu văn bản là rất
cần thiết, quan trọng góp phần làm nên dư vị ngọt ngào, khơi gợi cảm xúc của học sinh
khi tiếp nhận các giá trị văn chương. Và có một thực tế là những giáo viên có những
lời bình hay, độc đáo sẽ được học sinh nhớ mãi, ấn tượng mãi.
Khi bình các thủ pháp nghệ thuật cũng phải chú ý lựa chọn. Trong mỗi khổ thơ
hoặc ngay trong một dòng thơ, tác giả cũng đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác
nhau. Nếu bình tất cả thì không có thời gian, dẫn tới tình trạng san bằng một cách bình
quân mọi yếu tố nghệ thuật. Như vậy không thể làm nổi bật cái hay, cái đẹp của các
yếu tố nghệ thuật chủ yếu. Khi nhận ra những tín hiệu nghệ thuật quan trọng phải tiến
hành giảng dạy cho mạch lạc ý tứ mà câu thơ thể hiện sau đó mới đi bình.
Cũng có khi bình về tư tưởng, nội dung của bài thơ để thấy được cái hay của tác
phẩm đặt trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Có nhiều cách bình, có thể trực tiếp bình
về cách sử dụng ngôn từ trong tác phẩm, có thể so sánh điểm tương đồng với các tác
phẩm khác để thấy được nét đọc đáo riêng của tác phẩm...Tuy nhiên dù cách nào cũng
vậy lời bình phải phù hợp với lời giảng trước hoặc sau đó, giảng có sâu sắc thì lời bình
mới tâm đắc. Nếu giảng hời hợt, chưa tới, dù có bình tâm huyết đến mấy cũng sẽ thiếu
sức thuyết phục, người đọc sẽ không tin vào những lời bình rộng như thế. Thêm nữa,
lời bình thể hiện rõ nhất ở giọng điệu, cảm xúc, thái độ, độ tinh nhạy của mĩ cảm. Cho
nên nó mang dấu ấn cá nhân người viết rất đậm. Người được xem là có chất văn, hồn
văn hay không chủ yếu thể hiện ở những lời bình văn này. Và qua lời bình ấy, HS mới
cảm nhận được cái hay của tác phẩm, ngâng cao hiệu quả của giờ học văn.
• Ví dụ khi dạy khúc ngâm cuối đoạn trích “Chinh phụ ngâm khúc” (Đặng Trần
Côn), giáo viên có thể xây dựng hệ thống câu hỏi sau để dẫn tới lời bình:
Không gian li biệt nào được mở ra trong khúc ngâm thứ 3 ?
Từ ngữ sử dụng trong đoạn thơ này có gì đặc biệt ?
Phép láy và lặp từ có giá trị gợi tả một không gian như thế nào ?
Thông thường, màu xanh tượng trưng cho điều gì ? Tuy nhiên, màu xanh trong
mắt người chia li lại gợi cảm giác nào khác ?
=> Giáo viên có thể bình về hiệu quả của việc dùng từ láy “xanh xanh”, “xanh ngắt”:
cả một không gian như thấm đẫm sắc xanh vời vợi, mênh mông, thăm thẳm. Đó không

chỉ là màu xanh cụ thể mà là màu xanh trừu tượng (màu xanh tâm trạng): màu xanh
nhung nhớ, màu xanh cô đơn, màu xanh của sự chia lìa, buồn khổ và hoàn toàn tuyệt
vọng. Chính màu xanh ấy đã góp phần làm nổi bật tâm trạng cô đơn trĩu nặng của
người chinh phụ.
Phần cuối khúc ngâm có sử dụng một số phép tu từ đặc sắc, em hãy chỉ ra ?
Phép điệp nối tiếp, câu hỏi tu từ cùng với chữ “sầu” đặt cuối bài có tác dụng gì
trong việc diễn tẩ tâm trạng người chinh phụ ?
=> Sau đó, giáo viên có thể tiến hành bình: Câu hỏi tu từ cùng với điệp từ “ai” như một
tiếng thở dài nẫu ruột, một lời than của người vợ đang thấm thía gặm nhấm nỗi cô đơn
lẻ bóng. Đặc biệt chữ “sầu” đặt ở câu thơ cuối đoạn như có vai trò đúc kết. Nỗi sầu
không lan tỏa mà dường như đã đúc kết thành khối sầu, núi sầu đè nặng cả đoạn thơ.
Một nỗi sầu buồn lê thê, tê tái, tan nát trái tim người chinh phụ. Đây là một đoạn thơ tả
cảnh ngụ tình đặc sắc.
+ Khi hướng dẫn HS phân tích, cần chú ý xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí để
khai thác nghệ thuật và nội dung của bài:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

11


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

- Các câu hỏi đàm thoại ngoài tính chất xác định rõ ràng, phải có màu sắc văn học,
có khả năng khêu gợi tình cảm, cảm xúc, xúc động thẩm mỹ cho học sinh.
- Câu hỏi phải vừa sức học sinh, thích hợp với khuôn khổ một giờ học trên lớp, vừa
phải có khả năng “gợi vấn đề” suy nghĩ tìm tòi sáng tạo cho học sinh.
- Câu hỏi không tuỳ tiện, phải được xây dựng thành một hệ thống lôgíc, có tính
toán giúp học sinh từng bước đi sâu vào tác phẩm như một chính thể.
- Cần có sự kết hợp cân đối giữa các loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi tổng hợp
gợi vấn đề. Câu hỏi có khi theo lối diễn dịch, có khi theo lối qui nạp nhưng đều nhằm

cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vững chắc.
+ Khi đặt câu hỏi, chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp:
- Suy nghĩ thật kĩ vấn đề mình sắp dạy:
- Tham khảo các câu hỏi gợi ý trong SGK, SGV, sách bài soạn. Xây dựng hệ thống
câu hỏi riêng của mình cho bài soạn.
- Cố gắng sử dụng nhiều hình thức diễn đạt khác nhau để hỏi về cùng một nội
dung;
- Chú ý đón bắt, khơi gợi những ý tưởng mới mẻ của học sinh, từ thực tế trả lời của
các em, điều chỉnh lại cách hỏi cho phù hợp.
+ Vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy - học:
Việc chuyển đổi sách giáo khoa Ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp là
một yêu cầu mới trong việc giáo dục đào tạo của bộ môn. Đây là sự chuyển biến có ý
nghĩa thời đại chắc chắn sẽ đưa đến chất lượng dạy và học được nâng lên. Tuy nhiên,
việc vận dụng quan điểm tích hợp vào việc dạy - học Thơ trữ tình trung đại là một vấn
đề không dễ dàng và không phải lúc nào cũng làm được.
Trong khi tiến hành tổ chức học sinh tiếp cận văn bản, đặc biệt những bài thơ có
phiên âm chữ Hán, giáo viên có thể khéo léo phá bỏ hàng rào ngôn ngữ ấy bằng việc tổ
chức học sinh vận dụng những kiến thức về "nghĩa của từ" (lớp 6 ) "Từ đồng nghĩa"
"từ trái nghĩa" , từ "Hán Việt" (lớp 7) tạo ra một con đường mới mà học sinh có thể dễ
dàng cảm nhận được văn bản Thơ chữ Hán một cách chủ động sáng tạo.
Ngoài ra , trong các bài thơ đều là sự kết hợp của nhiều phương thức biểu đạt mà
học sinh lớp 7 đã từng học :
- Văn bản tự sự
- Văn bản miêu tả
- Văn bản biểu cảm
Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên giúp học sinh tích hợp các phương
pháp biểu đạt trên vào mỗi văn bản.Từ đó tạo ra tác dụng 2 chiều. Một mặt học sinh có
điều kiện củng cố thêm về các loại văn bản đã học , mặt khác học sinh nhờ sự lồng
ghép liên môn ấy hiểu hơn về nội dung và phương thức biểu cảm trong Thơ trữ tình
trung đại.

• Chẳng hạn: Khi dạy văn bản "Xa ngắm thác núi Lư" (Lý Bạch).
Hệ thống câu hỏi tích hợp có thể được xây dựng như sau :
1. Giải thích "Thác" là gì ? Chương trình lớp 6 đã học văn bản nào cũng nói về đề
tài này (Tích hợp: Nghĩa của từ; (lớp 6), với cuộc sống và văn bản "Vượt thác").
2. Bài thơ làm theo thể thơ nào ? Thể thơ đó giống với thể thơ của bài thơ nào
trong thơ Đường luật Việt Nam em đã học ?
(Tích hợp thơ Đường luật Việt Nam).
3. Văn bản này được tạo bởi phương thức miêu tả hay biểu cảm ?
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

12


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

- Đối tượng biểu cảm trong văn bản là gì ? (Tích hợp với văn bản miêu tả, biểu
cảm).
4. Theo em nội dung nào có thể vẽ thành tranh , nội dung nào khó vẽ thành tranh,
chỉ cảm thấy bằng tâm hồn ? (Tích hợp với loại hình nghệ thuật khác).
5. Hãy cho biết vị trí quan sát , miêu tả của tác giả ? Vị trí quan sát ấy có tác
dụng gì ? ( Tích hợp văn bản miêu tả ).
6. Trong bản dịch thơ tác giả viết: " Nắng rọi Hương Lô khói tía bay"
Hãy giải thích từ "rọi" tìm từ có nghĩa tương đương với từ "rọi".( Giải nghĩa
từ, Từ đồng nghĩa).
7. Câu thơ thứ 4 tác giả dựng một nét nghệ thuật rất độc đáo để miêu tả dòng
thác ? Chỉ ra biện pháp nghệ thuật đó ? (Tích hợp Tiếng Việt: So sánh).
8. Có thể thay từ "bay" bằng từ gần nghĩa nào ? (chảy , đổ ) Đối chiếu với từ đó ?
(Tích hợp từ đồng nghĩa).
+ Sử dụng bản đồ tư duy:
Sơ đồ tư duy – một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ

thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với
cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm năng vô tận
của bộ não. Nó được coi là sự lựa chọn cho toàn bộ trí óc hướng tới lối suy nghĩ mạch
lạc.
Không có gì là khó hiểu khi hầu hết học sinh than phiền bài học quá dài nên dẫn
đến việc không hiểu, không thuộc hoặc chán nản học. Vì thế,việc dạy học bằng sơ đồ
tư duy kích thích sự tìm tòi sáng tạo của giáo viên, buộc người giáo viên phải làm việc
nhiều hơn dẫn đến chất lượng dạy học được nâng lên. Khi sử dụng sơ đồ tư duy trong
dạy học Ngữ văn học sinh hứng thú học hơn, tiếp thu bài tốt hơn dẫn đến kết quả học
tập được nâng lên rõ rệt.
Ví dụ:

(Bản đồ tư duy tổng kết bài: Bài ca Côn Sơn)
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

13


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

(Bản đồ tư duy tổng kết bài: Bánh trôi nước)

(Bản đồ tư duy tổng kết bài: Qua đèo Ngang)

Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

14


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7


Bước 5: Hướng dẫn về nhà:
- Giáo viên có thể yêu cầu HS sưu tầm các câu thơ, bài thơ cùng chủ đề của chính
tác giả đó hoặc của những tác giả khác, cùng thời hoặc khác thời để mở rộng kiến thức
về tác phẩm đã học, phần sưu tầm cần ghi riêng vào một quyển sổ tay văn học
- Cho HS sưu tầm những ý kiến nhận xét về tác phẩm.
- Yêu cầu HS viết đoạn văn cảm thụ về một chi tiết, hình ảnh hay nội dung tư
tưởng trong tác phẩm.
- Hướng dẫn HS soạn kĩ bài sau.
Kết luận: để giờ dạy tác phẩm thơ trữ tình trung đại lớp 7 đạt hiệu quả cao,
đòi hỏi người giáo viên cần áp dụng các phương pháp giảng dạy linh hoạt với từng đối
tượng học sinh, với từng bài dạy; bản thân người giáo viên cần tích cực đọc, tìm tòi,
nghiên cứu tài liệu để có cái nhìn sâu rộng về tác phẩm, trên cơ sở đó từng bước hướng
dẫn học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc cảm thụ, đi tìm cái đẹp, cái hay
của tác phẩm văn học. Thành công của một giờ dạy là không chỉ rèn cho HS năng lực
cảm thụ văn học, mà quan trọng hơn, những tác phẩm văn học ấy đã có sự tác động sâu
sắc đến tâm hồn, tình cảm của học sinh.
* Kết quả thực nghiệm:
Khi áp dụng phương pháp này, qua kiểm tra chất lượng bài 15 phút và 45 phút ở
học kì I, tôi thu được kết quả như sau: (Lớp 7B áp dụng còn 7A không áp dụng phương
pháp dạy trên)
Xếp loại
Tổng
( số lượng và tỉ lệ %)
Lớp
số HS
Giỏi
Khá
T. bình
Yếu

Kém
7A
37
4 = 10.8% 9=24.3% 20=54.1% 4=10.8%
0=0%
7B
37
10= 27%
15=40.6% 11=29.7% 1=2.7%
0=0%

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Dạy học thơ trữ tình trung trung đại đòi hỏi một cách tiếp cận riêng khác với dạy
văn bản tự sự hay miêu tả. Cái khó nhất là với mỗi bài thơ, làm sao để học sinh nắm
được cái hồn thơ, nhận ra được vẻ đẹp lung linh rất khó nắm bắt. Vì vậy mà trong quá
trình khai thác, giáo viên cần biết nên hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo bố cục thể
loại, theo mạch cảm xúc, trật tự các từ trong câu, biện pháp tu từ...là điều có ý nghĩa rất
quan trọng. Mỗi nhà thơ có cách nói riêng. Vẻ đẹp trong mỗi bài như mỗi bông hoa
mang hương sắc riêng. Có bài đẹp ở tứ, có bài đẹp ở tình, có bài đẹp ở câu, có bài đẹp
ở lời, có bài đẹp ở giọng điệu, có bài lại đẹp ở tất cả. Việc giáo viên hướng dẫn HS tiếp
cận cần phải hết sức linh hoạt để mang lại giờ học đạt kết quả cao.
Qua một năm nghiên cứu và thực nghiệm, tôi đã tìm ra hướng đi mới cho mình
trong phương pháp dạy học thơ trữ tình trung đại. Trong quá trình hướng dẫn học sinh
cảm thụ bài thơ, bên cạnh việc giúp học sinh phát hiện và phân tích giá trị nghệ thuật
của bài thơ để hiểu được nội dung tư tưởng mà tác giả gửi gắm kín đáo, tôi đã chú ý
tập trung khái thác những yếu tố sau:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm
15



Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

- Xác định Bố cục của bài.
- Nhịp thơ, vần thơ, thanh điệu, âm hưởng.
- Ngôn từ, chi tiết, hình ảnh thơ.
- Giúp HS phát hiện ra các biện pháp nghệ thuật cơ bản và từ đó cảm nhận
được tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó đem lại.
- Phân tích tác phẩm phải gắn liền với thân thế, phong cách tác giả và hoàn
cảnh xã hội nảy sinh tác phẩm.
- Luôn có sự kết hợp hài hoà giữa phiên âm, dịch nghĩa với dịch thơ.
- Chú ý đến cảnh và tình được thể hiện trong tác phẩm.
- Những lời bình giảng làm nên dư vị ngọt ngào, khơi gợi cảm xúc của học sinh
khi tiếp nhận các giá trị văn chương.
- Khi hướng dẫn HS phân tích, cần chú ý xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí để
khai thác nghệ thuật và nội dung của bài.
- Vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy - học.
- Sử dụng bản đồ tư duy.
Tất nhiên, đây là những yếu tố cơ bản trong quá trình hướng dẫn học sinh cảm thụ
bài thơ, song không phải bài thơ nào cũng bắt buộc chúng ta phải thức hiện đầy đủ các
yếu tố trên. Tùy thuộc vào đặc điểm mỗi bài thơ mà ta có sự khai thác những khía cạnh
khác nhau, những yếu tố quan trọng của mỗi bài: có bài ta cần khai thác tứ thơ, có bài
ta lại khai thác ngôn từ thơ, có bài ta lại khai thác các biện pháp nghệ thuật….
Trên đây là những kinh nghiệm về dạy – học thơ trữ tình trung đại mà tôi đã thực
nghiệm trong năm học vừa qua. Do những hạn chế về kinh nghiệm của bản thân, cũng
như thời gian nghiên cứu đề tài chưa nhiều nên không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót,
tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp để đề tài được hoàn
thiện hơn.
II. Kiến nghị:
- Thư viện nhà trường nên bổ sung nguồn tài liệu mới giới thiệu về cuộc đời, sự

nghiệp của các tác giả thơ trữ tình trung đại Việt Nam .
- Các tài liệu văn học giới thiệu về các giai đoạn phát triển của văn học nước
nhà gắn với các giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Gia Nghĩa, ngày 11 tháng 3 năm 2013
Người viết

Nguyễn Thị Gấm

Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

16


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ PHỤ LỤC
I. Tài liệu tham khảo:
- Dạy học văn bản Ngữ văn THCS theo đặc trưng phương thức biểu đạt - Tác
giả: Trần Đình Chung
- Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn 7.
- Bồi dưỡng nâng cao Ngữ văn 7.
II. Phụ lục:
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................1
I. Lí do chọn đề tài.......................................................................................1
1. Cơ sở lí luận………………………………………………………….…1
2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………….…2
II. Mục đích nghiên cứu..............................................................................2
III. Thời gian và địa điểm............................................................................3
IV. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................3
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................3

Chương I: Tổng quan...................................................................................3
I. Nhìn chung về bộ phận thơ trữ tình trung đại lớp 7………………….…3
II. Đặc trưng của thơ trữ tình trung đại…………………………………....4
Chương II: Nội dung nghiên cứu.................................................................6
I. Thực trạng…………………………………………………………….…6
II. Một số biện pháp dạy – học thơ trữ tình trung đại 7…………………...7
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................... …15
I. Kết luận…………………………………………………………….…..15
II. Kiến nghị………………………………………………………………16
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ PHỤ LỤC: ...............................................17
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG VÀ PHÒNG
GIÁO DỤC………………………………………………………………..18

Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

17


Một số kinh nghiệm dạy – học thơ trữ tình trung đại lớp 7

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG VÀ PHÒNG GD & ĐT.
I. Nhận xét của hội đồng khoa học cấp trường.
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................

..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..................................................................
II. Nhận xét của hội đồng khoa học phòng GD & ĐT.
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
.........................
Người thực hiện: Nguyễn Thị Gấm

18



×