Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

THỬ NGHIỆM MỘT SỐ CHẤT BỔ SUNG CẢI THIỆN NĂNG SUẤT GÀ ĐẺ TRONG MÙA NẮNG NÓNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.1 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
****************

ĐỒNG THỊ DIỆU HIỀN

THỬ NGHIỆM MỘT SỐ CHẤT BỔ SUNG CẢI THIỆN
NĂNG SUẤT GÀ ĐẺ TRONG MÙA NẮNG NÓNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 10/2009

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
****************

ĐỒNG THỊ DIỆU HIỀN

THỬ NGHIỆM MỘT SỐ CHẤT BỔ SUNG CẢI THIỆN
NĂNG SUẤT GÀ ĐẺ TRONG MÙA NẮNG NÓNG

Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số

: 60.62.40


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Hướng dẫn khoa học:
TS. DƯƠNG DUY ĐỒNG

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 10/2009

ii


THỬ NGHIỆM MỘT SỐ CHẤT BỔ SUNG CẢI THIỆN
NĂNG SUẤT GÀ ĐẺ TRONG MÙA NẮNG NÓNG

ĐỒNG THỊ DIỆU HIỀN

1. Chủ tịch: PGS. TS. Dương Thanh Liêm
Hội chăn nuôi Việt Nam
2. Thư ký: TS. Nguyễn Tiến Thành
Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
3. Phản biện 1: PGS.TS. Trần Thị Dân
Hội chăn nuôi Việt Nam
4. Phản biện 2: PGS.TS. Lâm Thị Minh Thuận
Trường Đại Học Dân Lập Bình Dương
5. Ủy viên: TS. Dương Duy Đồng
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh

ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
HIỆU TRƯỞNG


iii


LÝ LỊCH CÁ NHÂN
Tôi tên là: Đồng Thị Diệu Hiền, sinh ngày 15 tháng 1 năm 1973 tại xã Phước
Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Con ông Đồng Xuân Mai và bà Nguyễn
Thị An Thường.
Tốt nghiệp tú tài tại Trường phổ thông trung học An Nhơn I năm 1991.
Tốt nghiệp Đại học ngành Chăn nuôi- thú y hệ chính qui tại Đại Học Nông Lâm
Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 1997.
Sau đó làm việc tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền Trung
thuộc Viện Chăn Nuôi. Chức vụ phụ trách kỹ thuật kiêm quản lý Trại.
Tháng 9 năm 2005 theo học cao học chuyên ngành Chăn nuôi tại Đại Học
Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.
Tình trạng gia đình: kết hôn năm 1999
Chồng: Võ Tấn Hòa, sinh năm 1968
Con: Võ Tấn Phát, sinh năm 2000
Con: Võ Hòa Phát, sinh năm 2007
Địa chỉ liên lạc: Thôn Quảng Nghiệp, xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình
Định.
Điện thoại: 056.3836235 - 01682247387
Email:

iv


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.


Đồng Thị Diệu Hiền

v


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình
của các cấp lãnh đạo Viện Chăn Nuôi, Trường Đại Học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh.
Tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn đến:
-

TS. Dương Duy Đồng - Người Thầy đã hướng dẫn, vạch phương hướng và chỉ
bảo chi tiết cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

-

Ban giám đốc Viện chăn nuôi, các anh chị em Trại nghiên cứu thực nghiệm
chăn nuôi An Nhơn đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện đề tài.

-

Các Thầy Cô giáo Khoa Chăn Nuôi Thú Y trường Đại Học Nông Lâm Tp. Hồ
Chí Minh đã truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức quí báu trong suốt khóa học.

-

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Tuân, trưởng phòng Sau đại học, Thầy luôn động viên,
tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi vượt qua mọi khó khăn trong suốt khóa học.


vi


TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm thử nghiệm một số chất bổ sung để cải thiện năng suất gà đẻ
trong điều kiện nắng nóng. Nghiên cứu được tiến hành trên 576 gà mái và 72 gà trống
Lương Phượng sinh sản ở tuần tuổi 35 theo kiểu thiết kế thí nghiệm hoàn toàn ngẫu
nhiên một yếu tố với 12 lô thí nghiệm và 3 lần lặp lại. Ở lô đối chứng (lô 1) gà được
cho ăn khẩu phần cơ sở có 2768 Kcal ME/ kg TA, 16,6% CP, 0,95% lysin và 0,45%
methionin; lô 2 bổ sung 1% dầu vào KP; lô 3 bổ sung 0,1% methionin vào KP; lô 4
bổ sung 1% dầu và 0,1% methionin vào KP; lô 5 bổ sung vitamin C liều 0,5g/1 lít
nước uống; lô 6 bổ sung 1% dầu dừa, và vitamin C liều 0,5g/1 lít nước uống; lô 7 bổ
sung 0,1% methionin, kết hợp vitamin C liều 0,5g/1 lít nước uống; lô 8 bổ sung 1%
dầu kết hợp với 0,1% methionin, và vitamin C liều 0,5g/1 lít nước uống; lô 9 bổ sung
Electrolytes liều 0,5g/1 lít nước uống; lô 10 bổ sung 1% dầu, và Electrolytes liều
0,5g/1 lít nước uống; lô 11 bổ sung 0,1% methionin, và Electrolytes liều 0,5g/1 lít
nước uống; lô 12 bổ sung 1% dầu kết hợp với 0,1% methionin, và Electrolytes liều
0,5g/1 lít nước uống. Kết quả cho thấy bổ sung vitamin C riêng lẻ hay bổ sung dầu
kết hợp với methionin đã duy trì được tỉ lệ đẻ, khối lượng trứng, chất lượng vỏ trứng,
tỉ lệ trứng đủ tiêu chuẩn giống, giảm tiêu tốn và chi phí thức ăn cho sản xuất trứng,
giảm tỉ lệ gà chết. Bổ sung vitamin C kết hợp với dầu và methionin, Electrolytes kết
hợp với dầu và methionin cho kết quả tương đương với chỉ bổ sung vitamin C hay chỉ
bổ sung dầu kết hợp với methionin. Tuy nhiên khi bổ sung 3 chất kết hợp với nhau đã
không làm giảm chi phí thức ăn cho sản xuất trứng nên không mang lại hiệu quả kinh
tế.

vii



SUMMARY
This study was achieved to investigate effects of additives supplemented to the
diets on performance of breeder hen in hot season. A total of 576 Luong Phuong
breeder laying hens and 72 cocks were used in a completely randomized design with
1 control and 11 treatment groups. In control group (group 1) birds were fed with
basal diet containing 2768 kcal ME per kg, 16.6% crude protein, 0.95% lysine and
0.45% methionine. Group 2 was added 1% coconut oil, group 3 was added 0.1%
methionine, group 4 added 1% oil and 0.1% methionine, group 5 added vitamine C at
0.5g per litter of drinking water, group 6 added 1% oil and vitamin C at 0.5g per litter
of drinking water, group 7 added 0.1% methionine and 1% oil, group 8 added 1% oil
and 0.1% methionine and vitamin C at 0.5g per litter of drinking water, group 9
added Electrolytes at 0.5g per litter of drinking water, group 10 added 1% oil and
Electrolytes at 0.5g per litter of drinking water, group 11 added 0.1% methionine and
Electrolytes at 0.5g per litter of drinking water, group 12 added 1% oil and 0.1%
methionine and Electrolytes at 0.5g per litter of drinking water. The results indicate
that adding vitamin C at 0.5g per litter of drinking water or adding 1% oil and 0.1%
methionine in the basal diet improved laying hen performance, reduced mortality rate
and increased economic efficiency of breeder hen raised in hot season.

viii


MỤC LỤC
Trang
Trang tựa
Trang Chuẩn Y

i

Lý Lịch Cá Nhân


ii

Lời Cam đoan

iii

Lời cảm ơn

iv

Tóm tắt tiếng Việt

v

Summary

vi

Mục lục

vii

Danh sách các chữ viết tắt

x

Danh sách các bảng

xi


Danh sách các biểu đồ và hình

xii

1. MỞ ĐẦU

1

1.1. Đặt vấn đề

1

2.1. Mục tiêu đề tài

2

2. TỔNG QUAN

3

2.1. Đặc điểm, thời tiết khí hậu của địa điểm nghiên cứu

3

2.2. Ảnh hưởng của stress nhiệt đối với gà đẻ

4

2.3. Nhu cầu dinh dưỡng của gà đẻ ở nhiệt độ cao


6

2.3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ cao đến khả năng ăn vào của gà đẻ

6

2.3.2. Nhu cầu về năng lượng

6

2.3.3. Nhu cầu về protein

8

2.3.4. Nhu cầu về nước uống

9

ix


2.4. Một số chất bổ sung giúp hạn chế stress nhiệt cho gà

11

2.4.1. Chất béo

11


2.4.2. Methionin

12

2.4.3. Vitamin C

14

2.4.4. Chất điện giải

16

2.5. Một số đặc điểm của gà Lương Phượng

17

2.5.1. Nguồn gốc

17

2.5.2. Đặc điểm ngọai hình

17

2.5.3. Tính năng sản xuất

17

2.6. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước


19

2.6.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

19

2.6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

20

3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

21

3.1. Thời gian thực hiện

21

3.2. Địa điểm thực hiện

21

3.3. Nội dung nghiên cứu

21

3.2.1. Bố trí thí nghiệm

21


3.2.2. Vật liệu nghiên cứu

23

3.4. Các chỉ tiêu theo dõi

24

3.5. Phương pháp tính thống kê

25

4. KẾT QUẢ THẢO LUẬN

26

4.1. Nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi

26

4.2. Tỉ lệ đẻ

28

4.3. Khối lượng trứng

32

4.4. Chất lượng vỏ trứng


34

4.5. Tỉ lệ trứng đủ tiêu chuẩn giống

37

4.6. Tiêu tốn thức ăn cho sản xuất trứng

39

4.7. Kết quả ấp nở

41

4.8. Tỉ lệ chết

43

5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

45

x


5.1. Kết luận

45

5.2. Đề nghị


46

TÀI LIỆU THAM KHẢO

47

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ BỐ TRÍ GÀ THÍ NGHIỆM

53

PHỤ LỤC

xi


DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADE: vitamin A, D, E
CP (crude protein): protein thô
Cyst.: cystin
DCP: dicanxiphotphate
ĐC: đối chứng
Elect. : Electrolytes
KP: khẩu phần
KD: khô dầu
LH: luteinizing hocmon
LHRH: luteinizing hocmon releasing hocmon
Lys.: lysin
ME (metabolisable energy): năng lượng trao đổi
Met. : methionin

P: photpho
TA: thức ăn
TN: thí nghiệm
TTTA: tiêu tốn thức ăn
TC: tiêu chuẩn
Vit. C: vitamin C

i


DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Nhiệt độ và ẩm độ trung bình năm 2008

3

Bảng 2.2: Ảnh hưởng của nhiệt độ cao đến khả năng ăn vào của gà đẻ

7

Bảng 2.3: Ảnh hưởng của các mức năng lượng khẩu phần đến năng lượng
ăn vào
Bảng 2.4: Khả năng tiêu hóa của chất béo so với tinh bột

8
11

Bảng 2.5: Khả năng đẻ trứng và tiêu tốn thức ăn của gà Lương Phượng
Trung Quốc bố mẹ nhập nội nuôi tại An Nhơn-Bình Định


18

Bảng 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm

22

Bảng 3.2: Thành phần dinh dưỡng của khẩu phần cơ sở

23

Bảng 4.1: Nhiệt ẩm độ chuồng nuôi

28

Bảng 4.2: Tỉ lệ đẻ của các lô gà thí nghiệm

31

Bảng 4.3: Khối lượng trứng ở các lô gà thí nghiệm

33

Bảng 4.4: Tỉ lệ vỏ, độ dày vỏ và tỉ lệ trứng dập vỡ ở các lô gà thí nghiệm

36

Bảng 4.5: Tỉ lệ trứng đủ tiêu chuẩn giống ở thí nghiệm

38


Bảng 4.6: Tiêu tốn và chi phí thức ăn cho sản xuất trứng ở các lô gà TN

40

Bảng 4.7: Tỉ lệ trứng có phôi và tỉ lệ nở ở các lô gà thí nghiệm

42

Bảng 4.8: Tỉ lệ chết ở các lô gà thí nghiệm

44

ii


DANH SÁCH CÁC BIỂU ĐỒ VÀ HÌNH
Trang
Biểu đồ 4.1: Diễn biến nhiệt độ và ẩm độ tại các thời điểm trong ngày

27

Biểu đồ 4.2: Tỉ lệ đẻ của các lô gà thí nghiệm

30

Biểu đồ 4.3: Khối lượng trứng của các lô gà thí nghiệm

32

Biểu đồ 4.4: Độ dày vỏ trứng và tỉ lệ trứng dập vỡ ở các lô gà thí nghiệm


35

Biểu đồ 4.5: Tỉ lệ trứng đủ tiêu chuẩn giống ở các lô gà thí nghiệm

37

Biểu đồ 4.6: Tỉ lệ chết ở các lô gà thí nghiệm

43

Hình 1: Theo dõi nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi

53

Hình 2: Chuồng nuôi gà thí nghiệm

53

Hình 3: Gà trong 1 ô lặp lại

54

Hình 4: Ấp trứng gà thí nghiệm

54

iii



Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1.

Đặt vấn đề
Chăn nuôi gà thả vườn là một nghề truyền thống của người dân Việt Nam.

Trước đây, dân ta chủ yếu nuôi các giống gà địa phương, các giống này thích nghi
tốt với điều kiện môi trường, tuy nhiên chúng lại cho năng suất thấp. Hiện nay một
số người chăn nuôi đã chuyển sang nuôi các giống gà lông màu nhập ngoại. Trước
diễn biến phức tạp của dịch cúm gia cầm, cũng như theo xu hướng chung của ngành
chăn nuôi, việc chăn nuôi gà hiện nay đang được chuyển dần sang hình thức nuôi
tập trung để dễ dàng kiểm soát dịch bệnh.
Tại khu vực miền Trung, đàn gia cầm chiếm khoảng 21,97% tổng đàn cả
nước (theo số liệu năm 2007 của Cục chăn nuôi). Nhiều trang trại chăn nuôi gà đã
được hình thành và giống gà được hầu hết người dân ưa chuộng hiện nay là Lương
Phượng do năng suất trứng khá, phẩm chất thịt tốt, hiệu quả chăn nuôi cao. Tuy
nhiên thời tiết ở miền Trung rất khắc nghiệt, mùa khô, nắng nóng kéo dài từ 5 - 6
tháng, nhiệt độ cao nhất lên đến 36 - 37oC. Điều này đã ảnh hưởng đáng kể đến
năng suất chăn nuôi gà.
Có nhiều biện pháp để hạn chế stress nhiệt cho gà như thiết kế chuồng trại
hợp lý nhằm giảm sự hấp thụ nhiệt từ môi trường bên ngoài, xây dựng chuồng kín
và lắp đặt hệ thống điều hòa nhiệt và điều hòa ánh sáng nhân tạo,…. Tuy nhiên, các
biện pháp này đòi hỏi phải đầu tư kinh phí lớn cũng như hao tốn nhiều thời gian.
Biện pháp dễ dàng nhất có thể áp dụng để hạn chế thiệt hại do stress nhiệt gây ra là
tìm ra một chế độ dinh dưỡng thích hợp.
Được sự đồng ý của khoa Chăn nuôi - Thú y trường Đại học Nông Lâm Tp.

4



Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền Trung, cùng với
sự hướng dẫn của TS. Dương Duy Đồng, chúng tôi tiến hành đề tài: ”Thử nghiệm
một số chất bổ sung cải thiện năng suất gà đẻ trong mùa nắng nóng”.
1.2.

Mục tiêu đề tài
Sử dụng dầu dừa, methionin, vitamin C, Electrolytes bổ sung vào khẩu phần

gà Lương Phượng nuôi trong điều kiện nắng nóng nhằm duy trì năng suất trứng và
chất lượng con giống đồng thời làm giảm tỉ lệ chết và loại đàn do nắng nóng gây
nên.
Tìm ra sự kết hợp các chất có tác dụng tốt nhất để chuyển giao cho các trang
trại chăn nuôi gà đẻ vào mùa hè ở khu vực miền Trung.

5


Chương 2
TỔNG QUAN
2.1. Đặc điểm, thời tiết khí hậu của địa điểm nghiên cứu
Trại thực nghiệm chăn nuôi An Nhơn là một cơ sở nghiên cứu của Trung tâm
nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền Trung thuộc Viện Chăn nuôi đóng trên địa
bàn tỉnh Bình Định. Tổng diện tích trại là 10.200m2, trong đó diện tích chuồng trại
khoảng 4000m2. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của trại là nuôi giữ đàn gà
thả vườn giống gốc cung cấp con giống cho các hộ và trại chăn nuôi ở các tỉnh miền
Trung và Tây nguyên.
Bảng 2.1: Nhiệt độ và ẩm độ trung bình năm 2008

1


Nhiệt độ (oC)
Cao
Thấp
TB
nhất
nhất
18,0
29,1
22,5

2

21,5

28,4

17,8

81

94

63

77,1

40,1

3


23,7

31,5

16,5

84

94

58

191,0

16,5

4

26,9

35,1

22,0

84

95

46


263,1

22,8

5

28,3

37,3

22,3

81

96

51

249,5

95,5

6

29,2

36,1

22,8


78

97

48

278,0

102,2

7

29,1

36,8

23,9

76

95

50

284,9

5,1

8


27,9

35,5

22,7

81

97

55

216,6

91,6

9

27,5

34,8

22,7

83

96

53


177,5

332,2

10

26,5

34,1

23,2

89

99

58

154,9

603,0

11

25,0

31,0

20,4


87

100

60

57,8

920,2

12

23,3

28,8

18,0

84

98

58

78,2

190,9

Tháng


Ẩm độ (%)
Cao
Thấp
TB
nhất
nhất
55
97
85

Tổng
giờ
nắng
132,8

Tổng
lượng
mưa
183,2

Nguồn: Trạm khí tượng nông nghiệp An Nhơn, thị trấn Bình Định

6


đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12. Những tháng nắng nóng nhiệt độ
khá cao, theo số liệu của trạm khí tượng An Nhơn, nhiệt độ và ẩm độ trung bình
năm 2008 được trình bày ở bảng 2.1. Tháng nóng nhất trong năm là từ tháng 5 đến
tháng 8, nhiệt độ cao nhất trong ngày lên đến 37,30C.

2.2. Ảnh hưởng của stress nhiệt đối với gà đẻ
Mỗi loài động vật cần có một phạm vi nhiệt độ môi trường thích hợp để duy trì
trạng thái sinh lý bình thường. Nhiệt độ không khí lên quá giới hạn nhiệt độ tới hạn
trên làm xáo trộn trạng thái bình thường của cơ thể, gây nên stress nhiệt (Reddy,
2000). Theo Leeson và Summers (1997) khả năng sản sinh nhiệt của gà thấp nhất
trong khoảng nhiệt độ từ 19- 27 0C, trên 270C gà sẽ sử dụng nhiều năng lượng hơn
cho việc làm mát, chúng bắt đầu giãn các mạch máu để cho nhiều máu đến mào,
tích, chân để tăng diện tích làm mát.
Thở gấp là một đáp ứng dễ thấy nhất ở gà khi nhiệt độ môi trường cao, khi thở
gấp gà sẽ thải nhiệt thông qua sự bốc hơi nước qua miệng và qua đường hô hấp. Vì
vậy, nhiệt độ môi trường cao cùng với ẩm độ cao sẽ làm cho quá trình stress trở nên
trầm trọng hơn. North (1978) cho rằng gà mái bắt đầu thở gấp khi nhiệt độ môi
trường ở 290C (trích dẫn bởi Daghir, 2008) hay khi thân nhiệt của chúng đạt đến
420C (Hillman, 1985 trích dẫn bởi Daghir, 2008). Boone (1968) quan sát thấy nhiệt
độ cơ thể của gà bắt đầu tăng khi nhiệt độ môi trường tăng trên 30oC nếu tốc độ
tăng của nhiệt độ là rất nhanh, ngược lại nếu tốc độ tăng chậm thì gà sẽ duy trì thân
nhiệt cho đến khi nhiệt độ môi trường đạt đến 330C. Khi nhiệt độ môi trường cao gà
tiêu thụ ít thức ăn và nhiều nước hơn để bù vào lượng nước mất thông qua sự bốc
hơi nước để làm mát (May và Lott, 1992). Leeson và Summers (1997) cũng cho
rằng khi nhiệt độ môi trường tăng trên 27- 28 oC năng lượng hay lượng thức ăn ăn
vào giảm do gà thay đổi quá trình trao đổi chất để đáp ứng với lượng nhiệt tích trử,
các hoạt động như thở gấp sẽ ảnh hưởng ngược đến cơ chế kiểm soát thức ăn ở não
và làm giảm thời gian ăn ở gà. Ở 280C năng lượng cho sản xuất giảm đáng kể và
khoảng 330C thì mức năng lượng này là số âm. Tác động bất lợi của stress nhiệt đối


lượng trứng, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ ấp nở đồng thời làm tăng xác suất đẻ trứng mỏng vỏ
(Brains và Brake, 1995). Những ảnh hưởng này là kết quả của các quá trình trao đổi
chất của sinh lý stress, có quan hệ tới sự sống còn của gà. Theo qui luật gà không
thể làm tăng quá trình thải nhiệt một cách tối đa mà chỉ có khả năng làm giảm quá

trình sinh nhiệt một cách tối thiểu khi nhiệt độ môi trường quá cao. Để giảm sinh
nhiệt gà sẽ chọn cách giảm lượng ăn vào hơn là tăng khả năng thải nhiệt. Ngoài ra
để bảo toàn năng lượng và giảm sinh nhiệt thì hoạt động giao phối cũng giảm một
cách đáng kể, dẫn đến tỉ lệ trứng có phôi giảm xuống.
Stress nhiệt còn kích thích hocmon chống stress như catecholamin, hocmon này
gây bất lợi cho tăng trưởng đồng thời cũng làm suy yếu hệ thống miễn dịch của gia
cầm, làm cho chúng dễ mẫn cảm với bệnh tật hơn (Reddy, 2000). Khi gà thở gấp
chúng há miệng ra thở thì bụi và vi khuẩn trong không khí xâm nhập vào đường hô
hấp cũng dễ gây nên các bệnh về đường hô hấp. Mashaly (2004) cũng cho rằng
stress nhiệt không những ảnh hưởng không tốt đến năng suất sinh sản mà còn ức
chế chức năng miễn dịch của gà đẻ.
Stress nhiệt ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gà thông qua việc làm
giảm sản lượng trứng. Sản lượng trứng của gà giảm trước hết là do stress nhiệt ảnh
hưởng đến hàm lượng các hocmon hướng sinh dục (gonadotropin hocmon). Theo
Donoghue, 1989 (trích dẫn bởi Daghir, 2008) stress nhiệt làm giảm hàm lượng LH
trong huyết thanh, LHRH vùng dưới đồi, sóng LH và progesteron tiền rụng trứng.
Monoamin của não cũng được cho là có liên quan đến việc ức chế chức năng vùng
dưới đồi, stress nhiệt làm thay đổi hàm lượng monoamin của não, điều này có liên
quan đến việc làm giảm hàm lượng LHRH vùng dưới đồi (El Halawani và ctv,
1982).
Chất lượng vỏ trứng cũng giảm khi nhiệt độ môi trường xung quanh tăng.
Theo North và Bell (1990) vào mùa hè thì trọng lượng vỏ trứng giảm hơn, cụ thể sự
chênh lệch về độ dày vỏ trứng ở mùa đông và mùa hè là 10μm ở gà mái 50 tuần tuổi
và 17 μm ở gà mái 60 tuần tuổi.
2.3. Nhu cầu dinh dưỡng của gà đẻ ở nhiệt độ cao
2.3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ cao đến khả năng ăn vào của gà đẻ
Có rất nhiều yếu tố của môi trường ảnh hưởng đến phản ứng của gia cầm khi


có khả năng thích ứng trong khoảng nhiệt độ rộng, biến thiên từ 10 đến 27 C, và

khoảng nhiệt tối ưu này tương tự cho gà thịt, gà đẻ và gà tây. Tuy nhiên, theo
Kampen (1984) (trích dẫn bởi Daghir, 2008) gà thịt có tốc độ phát triển tốt nhất khi
trong khoảng nhiệt độ từ 10 đến 220C, nhưng hiệu quả sử dụng thức ăn tốt nhất là ở
nhiệt độ 270C. Đối với gà đẻ, khoảng nhiệt độ thích hợp là 10 đến 300C, trong
khoảng nhiệt này nhu cầu năng lượng cho sản xuất trứng là không đổi (Daghir,
2008).
Khi gà đẻ được cho ăn tự do thì chúng có xu hướng điều chỉnh lượng ăn vào
theo năng lượng của khẩu phần. Cơ chế này sẽ thay đổi khi nhiệt độ môi trường
thay đổi do khả năng ăn vào giảm khi nhiệt độ môi trường tăng (Daghir, 2008).
Theo Smith (2001) lượng ăn vào giảm 1,5% cho mỗi độ tăng hay giảm ngoài
khoảng 21 - 300C và 4,6% cho mỗi nhiệt độ tăng trong khoảng từ 32 - 380C. Theo
NRC (1981) khả năng ăn vào giảm khoảng 1,5% cho mỗi 10C tăng hay giảm ngoài
khoảng nhiệt độ 20 - 210C. Reddy (2000) cũng cho rằng khả năng ăn vào của gà đẻ
giảm 1,5% cho mỗi 10C tăng hay giảm ngoài khoảng nhiệt độ 18 - 220C. Dương
Thanh Liêm và ctv (2002) khi theo dõi các trại gà ở thành phố Hồ Chí Minh cũng
thấy rằng ở các tháng mùa khô nóng thì khả năng ăn vào của gà mái đẻ trứng
thương phẩm giảm so với những tháng trời lạnh hay mùa mưa.
2.3.2. Nhu cầu về năng lượng
Năng lượng cần thiết cho tất cả mọi hoạt động sống của cơ thể. Trong quá
trình trao đổi chất, các chất dinh dưỡng hấp thu từ thức ăn được đồng hoá để tổng
hợp nên vật chất của cơ thể, đồng thời chúng được ô xy hoá để cung cấp năng lượng
cho cơ thể, một phần được sử dụng để tạo sản phẩm.
Theo NRC (1994) nhu cầu năng lượng của gà đẻ được tính theo công thức:
ME (kcal/ngày) = W0,75 (173 – 1,95T) + 5,5 ∆W + 2,07EE
Trong đó: W là trọng lượng cơ thể (kg),
T là nhiệt độ môi trường (0C),
∆W là tăng trọng / ngày (g),


Theo Rao và ctv (2002) năng lượng cho duy trì giảm 30Kcal/ngày khi nhiệt

độ môi trường cao hơn 210C. Khi nhiệt độ môi trường cao thì phần lớn năng lượng
bị mất do quá trình thải nhiệt nên nhu cầu năng lượng nói chung không bị ảnh
hưởng bởi nhiệt độ.
Daghir (2008) tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu và đưa ra tóm tắt khả năng ăn
vào của gà đẻ bị ảnh hưởng của nhiệt độ cao như bảng 2.2.
Bảng 2.2: Ảnh hưởng của nhiệt độ cao đến khả năng ăn vào của gà đẻ

20

% ăn vào giảm khi nhiệt độ
tăng 10C
-

25

1,4

30

1,6

35

2,3

40

4,8

Nhiệt độ (0C)


Nguồn: Daghir, 2008

Vào mùa hè năng lượng ăn vào giảm đáng kể so với mùa đông và mùa xuân,
năng lượng ăn vào mùa hè giảm 10-15% so với mùa đông (Daghir, 1973). Rao và
ctv (2002) cho rằng năng lượng trong khẩu phần cần phải được điều chỉnh theo
lượng ăn vào giảm (5% cho 10C tăng khi nhiệt độ môi trường trong khoảng 32380C).
Gia cầm có khả năng điều chỉnh lượng ăn vào theo mức năng lượng khẩu
phần, tuy nhiên cơ chế này không còn đúng khi nhiệt độ môi trường tăng (Leeson
và Summers, 1997). Theo Payne (1967) (trích dẫn bởi Leeson và Summers, 1997)
năng lượng khẩu phần tăng từ 2860 kcal ME/kg đến 3450 kcal thì khả năng ăn vào
của gà đẻ giảm (bảng 2.3).
Gà không có khả năng thải nhiệt tối đa nhưng lại có khả năng giảm sinh nhiệt
một cách tối thiểu, nên trong điều kiện nhiệt độ môi trường tăng gà sẽ chọn cách
giảm ăn vào để giảm sinh nhiệt (Brains và Brake, 1995). Vì vậy, khi nhiệt độ môi


cho gà duy trì và sản xuất.
Bảng 2.3: Ảnh hưởng của các mức năng lượng khẩu phần đến năng lượng ăn vào
Năng lượng thức ăn
(Kcal ME/kg)

Ở 180C
Lượng ăn
Năng lượng ăn
/ngày
vào/ngày (g)
(g)

Ở 300C

Lượng ăn
Năng lượng ăn
vào /ngày (g)
vào/ngày (g)

2860

127

363

107

306

3060

118

360

104

320

3250

112

364


102

330

3450

106

365

101

350
Nguồn: Payne, 1967

2.3.3. Nhu cầu về protein
Protein trong thức ăn cung cấp axit amin, là những nguyên liệu để tổng hợp
nên protein cho duy trì, tăng trưởng (nếu có) và cho sản xuất trứng của gia cầm.
Terron (1962) cho rằng để duy trì 1 kg thể trọng gà mái trong 24 giờ cần 1,62
g protein tiêu hoá, còn nhu cầu để sản xuất 1 quả trứng nặng 60g chứa 7,2g protein
là 14,4g protein tiêu hóa (trích dẫn bởi NRC, 1994).
Theo Dương Thanh Liêm và ctv (2002) nhu cầu protein trong khẩu phần cho
gà đẻ trứng tùy thuộc vào sản lượng trứng, giá trị dinh dưỡng của thức ăn, trọng
lượng trứng và trọng lượng của gà, nhu cầu protein cho sản xuất trứng được tính
bằng nhu cầu protein cho duy trì, tạo trứng, tăng trọng và tạo lông. Theo Kakuk
(1988) (trích dẫn bởi Dương Thanh Liêm và ctv, 2002) hàm lượng protein trong
trứng gà là 11,2%, hàm lượng protein trong tăng trọng của gà mái là 20% và nhu
cầu protein thuần để duy trì cơ thể là 2,1g/kg0,3. Nhu cầu protein thuần cho 1 gà mái
đẻ nặng 1,75 kg (=1,52kg0,75) đang đẻ ở đỉnh cao có tỉ lệ đẻ là 90%, trứng có trọng

lượng là 60g/quả, tăng trọng 4g/ ngày là:
Nhu cầu cho sản xuất trứng (g) = 0,9 x 60 x 0,112 = 6g
Nhu cầu cho duy trì (g) = 1,52 x 2,1= 3,2g
Nhu cầu cho tăng trọng (g) = 4 x 0,2 = 0,8g


theo Scott và Balnave (1989) ở gà sau 3 tuần đẻ quả trứng đầu tiên được cho ăn
khẩu phần tự chọn, lượng protein ăn vào tương ứng với nhiệt độ nóng và lạnh là 19g
và 30g/ con/ ngày. Austic (1985) cho rằng mức protein và axit amin trong khẩu
phần tăng tương ứng với nhiệt độ môi trường tăng từ 20- 300C.
North và Bell (1990) cho rằng nhu cầu protein của gà đẻ được quyết định bởi
trọng lượng gà, năng suất trứng và trọng lượng trứng. Ông cho rằng nhu cầu protein
trong suốt thời kỳ khai thác trứng cũng thay đổi, ở giai đoạn đầu năng suất trứng
còn thấp nên nhu cầu protein thấp, khi năng suất trứng tăng lên và giữ ở đỉnh cao thì
nhu cầu protein cao, thời gian này kéo dài cho đến khi năng suất trứng giảm dần ở
cuối giai đoạn khai thác trứng thì nhu cầu protein giảm.
Theo Rao và ctv (2002) nhu cầu về protein và axit amin không bị ảnh hưởng
bởi nhiệt độ vì vậy stress nhiệt không ảnh hưởng đến năng suất của gia cầm nếu như
cầu về protein và axit amin được thỏa mãn. Tuy nhiên, do stress nhiệt làm giảm khả
năng ăn vào nên hàm lượng protein, axit amin trong khẩu phần cần tăng thêm. Cân
bằng axit amin trong khẩu phần sẽ làm cho lượng mỡ tích tụ trong gan là thấp nhất
dẫn đến làm tăng tỉ lệ nuôi sống của gia cầm trong điều kiện stress nhiệt. Khẩu phần
có hàm lượng protein thấp cùng với sự cân bằng các axit amin thiết yếu (lysin và
methionin) tạo hiệu quả hơn so với khẩu phần có hàm lượng protein tổng số cao do
sự oxy hóa protein hay axit amin dư thừa sẽ làm gia tăng sự tạo nhiệt.
2.3.4. Nhu cầu về nước uống
Trong điều kiện nhiệt độ môi trường cao và trong điều kiện stress nhiệt, cung
cấp nước sạch, mát sẽ giúp gà giảm stress nhiệt nhờ vào quá trình làm mát thông
qua lượng nước bốc hơi qua hệ thống hô hấp. Theo Xin và Gates (2002) tỉ số giữa
nước uống và lượng ăn vào của gà mái đẻ trong điều kiện nhiệt độ môi trường cao

(27-350C) là 3,0-3,4. Adams (1973) nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ nước uống
đến năng suất của gà đẻ và cho rằng cung cấp nước uống ở nhiệt độ 35-400C gây
ảnh hưởng xấu đến năng suất, làm lạnh nước có khả năng cải thiện được năng suất
của gà. Nước lạnh 150C giúp tăng khả năng ăn vào từ 5- 10% so với nước ấm 290C


nhiệt độ nước uống là 35 C so với 3 C làm giảm sản lượng trứng 12% và giảm khả
năng ăn vào 12g/con/ngày (trích dẫn bởi Daghir, 2008). Leeson và Summers (1997)
cũng cho rằng ở nhiệt độ môi trường là 320C khả năng ăn vào và sản lượng trứng
được cải thiện khi nước được làm mát hơn so với bình thường là 50C. Trong suốt
thời gian nhiệt độ cao 350C cho gà uống nước có chứa carbonat đã ngăn chặn đựơc
tình trạng chất lượng vỏ trứng giảm (Odom, 1985).
Ở nhiệt độ 320C gà mái đẻ uống nước gấp 2 lần so với ở nhiệt độ 240C.
Lượng nước tiêu thụ nhiều nhất là ở tuần đẻ thứ 6-7 lúc sản lượng trứng đạt đỉnh
cao. Sản lượng trứng sẽ giảm khi gà uống không đủ nước (Daghir, 2008).
Ngoài số lượng, chất lượng nước cũng ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất
lượng sản phẩm. Ở các trại gà tập trung, nước uống sử dụng cho gà chủ yếu là
nguồn nước ngầm. Nguồn nước này thường có tổng số chất rắn hòa tan cao (Daghir,
2008). Balnave (1993) tổng hợp các thông tin về ảnh hưởng nguồn nước mặn lên
chất lượng vỏ trứng và cho rằng nước bị nhiễm mặn cũng như nước giếng ngầm có
ảnh hưởng xấu đến chất lượng vỏ trứng. Tốc độ nhạy cảm với nguồn nước bị nhiễm
mặn tăng theo tuổi của gà mái và sự tăng của trọng lượng trứng.
Chất lượng vỏ trứng cũng giảm theo sự gia tăng nồng độ natri clorua trong
nước. Một trong những nguyên nhân gây nên chất lượng vỏ trứng giảm là do gà đẻ
nhận natri clorua từ nguồn nước sẽ làm giảm ion bicarbonat của tuyến tạo vỏ.
Yosolewitz và Balnave (1989) (trích dẫn bởi Daghir, 2008) cho rằng hydrat carbon
ở dạng họat động ở gà uống nước nhiễm mặn thấp hơn đáng kể so với gà uống nước
bình thường, từ đó kết luận rằng sự rối lọan trao đổi chất liên quan đến giảm chất
lượng vỏ trứng do uống nước nhiễm mặn liên quan đến việc cung cấp carbonat hơn
là canxi đi đến tuyến tạo vỏ để hình thành vỏ trứng. Bổ sung axit ascorbic hay zincmethionin vào khẩu phần ăn có thể là giải pháp làm giảm tác hại do ảnh hưởng của

độ mặn nước (Balnave, 1993).


2.4.1. Chất béo
Chất béo là một nhóm các chất được tìm thấy trong mô của động vật và thực
vật, chúng không tan trong nước nhưng tan trong các dung môi hữu cơ như benzen,
ê-te và cloroform. Năng lượng tiêu hóa của chất béo bằng khoảng 2,5 lần so với tinh
bột (Cheeke, 1999). Theo Leeson và Summers (1997) 1 kg dầu thực vật cung cấp
khoảng 8700 Kcal, có thể sử dụng dầu thực vật, dầu cọ, dầu dừa làm thức ăn cho gia
cầm. Đối với gà đẻ có thể bổ sung dầu dừa từ 1-5% khẩu phần. Kakuk (1988) (trích
dẫn bởi Dương Thanh Liêm và ctv, 2002) ghi nhận khả năng tiêu hóa của một số
chất béo và tinh bột được trình bày trên bảng 2.4.
Bảng 2.4: Khả năng tiêu hóa của chất béo so với tinh bột
Thực liệu

Khả năng tiêu hóa (%)

ME (Kcal/kg)

Dầu đậu nành

95

9168

Mỡ heo

89

8785


Tinh bột

90

4200
Nguồn: Kakuk, 1988

Vì năng lượng cao nên chất béo là nguồn cung cấp năng lượng lý tưởng cho
khẩu phần cần có nguồn năng lượng cao. Khi nhiệt độ môi trường cao thì khả năng
ăn vào của gà giảm nên năng lượng ăn vào giảm vì vậy cần phải tăng năng lượng
của khẩu phần để bù đắp lại sự thiếu hụt năng lượng do lượng ăn vào giảm, vì vậy
việc bổ sung chất béo có thể bù đắp phần năng lượng bị thiếu hụt năng lượng do ăn
vào giảm. Nhiệt tỏa ra khi chuyển hóa chất béo thấp hơn so với tinh bột và protein
(Daghir, 2008) nên một trong những phương thức có hiệu quả cao nhằm tăng năng
lượng trong khẩu phần trong điều kiện nắng nóng là bổ sung chất béo vào khẩu
phần. Blaxter (1989) cũng cho rằng sự giải phóng nhiệt từ tiêu hóa và trao đổi của
chất béo thấp hơn xấp xỉ 30% so với tinh bột (trích dẫn bởi Lê Hồng Mận, 2005).
Bổ sung chất béo vào khẩu phần cũng giúp làm tăng hiệu quả sử dụng năng lượng
của các thành phần khác của thức ăn (Mateo và Sell, 1981). Chất béo làm giảm tốc
độ vận chuyển của thức ăn trong ống tiêu hóa, trong khi nhiệt độ môi trường cao sẽ


×