Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN lop 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.63 KB, 18 trang )

A- Phần mở đầu
I/ Cơ sở lý luận:
Đất nớc con ngời Việt Nam đang chuyển mình tiến lên ngày càng lớn
mạnh, đó là sự lớn mạnh về kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật... Kinh tế xã
hội ngày càng phát triển đòi hỏi con ngời Việt Nam cũng phải vơn lên bắt nhịp
với những đổi mới của xã hội. Để đào tạo ra những thế hệ con ngời Việt Nam
phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, đòi hỏi ngành Giáo dục và Đào tạo
cũng phải đổi mới. Đổi mới trong ngành Giáo dục không đơn thuần chỉ đổi
mới về nội dung chơng trình, đổi mới trang thiết bị dạy học mà còn đổi mới
phơng pháp dạy học và các hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với nhận
thức của học sinh giúp học sinh hứng thú, linh hoạt trong việc chiếm lĩnh tri
thức và t duy. Với mục tiêu là: "Đào tạo con ngời mới phát triển toàn diện",
chúng ta coi học sinh không chỉ là đối tợng mà còn là chủ thể giáo dục. Chính
vì thế chúng ta cần dạy đủ 6 môn học, trong đó môn Tiếng Việt ở tiểu học là
vô cùng quan trọng. Bởi nó làm nền tảng giúp học sinh học các môn học khác
trong trờng tiểu học.
Mục tiêu của môn Tiếng việt ở Tiểu học là hình thành và phát triển ở
học sinh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong và
ngoài nhà trờng. Thông qua việc dạy học tiếng Việt góp phần rèn luyện các
thao tác t duy cho học sinh, đồng thời cung cấp cho học sinh những kiến thức
ban đầu nh: đọc thành thạo một văn bản ngắn, bớc đầu biết đọc diễn cảm, viết
đúng chính tả, viết rõ ràng; nghe nói một cách tự nhiên. Cung cấp cho học sinh
những hiểu biết về xã hội, tự nhiên và con ngời. Từ đó bồi dỡng cho học sinh
tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt.
1
Cũng nh các môn học khác môn Tiếng Việt cũng đợc đổi mới toàn diện
về cấu trúc chơng trình, nội dung. Sự đổi mới của môn học Tiếng Việt 3 thể
hiện rõ rệt ở tất cả các phân môn, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. So với
chơng trình cải cách phân môn Tập làm văn đổi mới hoàn toàn về cấu trúc nội
dung, thể hiện rõ nhất ở các dạng bài Tập làm văn.


Nội dung dạy học Tập làm văn lớp 3 chủ yếu rèn luyện cho học sinh 3
kỹ năng cơ bản: nghe, nói, viết nhằm phục vụ cho việc học tập và giao tiếp
hằng ngày của các em. Trong 3 kỹ năng cơ bản đó thì 2 kỹ năng nghe và nói
của học sinh đợc rèn luyện nhiều nhất. ở loại bài tập Nghe và kể lại một câu
chuyện, loại bài tập này chiếm dung lợng khá lớn trong môn Tập làm văn.
Trong đó số câu chuyện vui chiếm hơn một nửa số câu chuyện đợc học sinh
kể.
Mảng truyện cời trong tập làm văn lớp 3 nhằm rèn luyện cho học sinh
kỹ năng nghe kể. Nếu ở bài tập đọc các em đợc trực tiếp đọc văn bản thì ở
phân môn Tập làm văn việc tiếp nhận câu chuyện đợc thể hiện qua hình thức
nghe thầy cô kể và nghi nhớ kể lại. Việc nghe - kể này có tác dụng rèn luyện
cho các em nghe, nói song điều quan trọng các em không chỉ dừng lại ở việc
kỹ năng nghe - nói mà còn rèn luyện kỹ năng nghe - phát hiện, nghe - phân
tích, phán đoán.... Đó là một trong những hình thức rèn luyện t duy lôgíc cho
trẻ rất hiệu quả.
Trong những câu truyện cời ở Tập làm văn lớp 3, tiếng cời không phải
là mục đích là cứu cánh câu của truyện nó mà là phơng tiện chủ yếu và quan
trọng của thể loại truyện cời. Đối tợng thẩm mỹ chủ yếu của loại truyện này là
những cái xâú, đáng cời, có thể cời hay nói cách khác đố là những thói h, tật
xấu, cái cần và có thể phê phán bằng tiếng cời. Song khi đọc hoặc nghe kể
truyện cời, nếu cả ngời đọc và ngời nghe cha phát hiện đợc ra hiện tợng buồn
cời, cha làm bật tiếng cời cũng có nghĩa là cha nhận ra đợc ý nghĩa phê phán
của truyện cời. Vì thế, việc rèn luyện kỹ năng nghe, kể cho học sinh bằng các
2
câu chuyện vui cời có tác dụng giáo dục sâu sắc vừa tăng cờng sự phản ứng
của lý trí trớc những hiện tợng khác với lẽ thờng mà các em bắt gặp đâu đó từ
trong sách đến cuộc sống sinh động hàng ngày.
II/ Cơ sở thực tiễn
Qua thực tế giảng dạy và trao đổi thảo luận những điểm khó khi thực
hiện chơng trình với đồng nghiệp tôi thấy:

Loại bài tập nghe và kể lại một câu chuyện vui trong bài tập phân môn
Tập làm văn lớp 3 có ý nghĩa vô cùng quan trọng, loại bài tập này rất hấp dẫn,
lôi cuốn học sinh tạo ra sự thoải mái cho giáo viên trong quá trình giảng dạy.
Nhng trong thực tế giảng dạy, hiệu quả của bài tập nghe, kể lại 1 câu
chuyện vui thờng có từ 2 bài tập trở lên.
VD: tiết Tập làm văn của tuần gồm 2 bài:
1. Bài 1: Nghe và kể lại câu chuyện: Tôi có đọc đâu
2. Bài 2: Viết về quê hơng em.
Nên việc dành thời gian cho việc nghe kể nhiều, giáo viên thờng xem
nhẹ phần phân bài tập này mà chỉ dạy lớt qua hoặc dành thời gian không thích
hợp mà chỉ chú trọng vào bài tập còn lại cuả tiết học.
Chính vì loại bài tập này thờng xem nhẹ, dành thời gian không tích hợp
nên giáo viên cha chú trọng tìm ra các phơng án kể và hớng dẫn kể một cách
sinh động nên việc thực hiện bài tập này thờng diễn ra một cách chiếu lệ, kém
hiệu quả, cha đáp ứng đợc yêu cầu về kiến thức và kỹ năng của bài tập và nhu
cầu tìm tòi, sáng tạo của học sinh.
Trớc tình hình thực tế đó, tôi đã trăn trở và suy nghĩ rất nhiều bản thân
là một giáo viên trực tiếp đứng lớp tôi có suy nghĩ cần phải có cái nhìn sâu
rộng hơn và sáng tạo hơn, vận dụng đổi mới triệt để trong cách dạy loại bài tập
nghe kể một câu chuyện vui trong giờ Tập làm văn lớp 3. Bởi nếu dạy loại bài
tập này đạt hiệu quả tốt sẽ rèn cho học sinh tốt kỹ năng nghe, nói ngày một tốt
3
hơn, đảm bảo đợc yêu cầu đổi mới cách dạy" nhẹ nhàng, thoải mái học sinh
tích cực chủ động phát hiện và tiếp thu kiến thức mới" hiệu quả hơn rất nhiều.
Chính vì lẽ đó tôi mạnh dạn trình bày "Một số biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả khi dạy kiểu bài Tập làm văn nghe - kể lại một câu chuyện vui
lớp 3". Theo chơng trình SGK năm 2000, nhằm giúp giáo viên nâng cao hiệu
quả tiết dạy loại bài tập này. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài SKKN này.
III/ Nhiệm vụ nghiên cứu:
1.Tìm hiểu nội dung chơng trình và phơng pháp dạy bài tập nghe kể một

câu chuyện vui ở Tập làm văn lớp 3.
2. Điều tra thực trạng dạy và học.
3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy các
bài tập dạng này.
IV/ Phơng pháp nghiên cứu:
- Điều tra thực trạng dạy và học.
- Nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu liên quan.
- Phơng pháp tổng hợp, so sánh, phân tích.
V/ Phạm vi nghiên cứu:
- Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3
- Vở bài tập Tiếng Việt lớp 3.
- Sách tham khảo lớp 3.
- Các tài liệu có liên quan.
- Điều tra thực trạng học sinh lớp 3.
B/ Nội dung
4
I/Nội dung ch ơng trình lớp 3:
Chơng trình Tập làm văn lớp 3 đợc cấu trúc theo chơng trình đồng tâm,
tiết Tập làm văn đợc bố trí sắp xếp ở các tiết cuối tuần sau khi học xong các
tiết Tiếng Việt trong tuần kiến thức tiết Tập làm văn là ứng dụng kiến thức
Tiếng Việt đã học trong tuần, trong chủ điểm.
Phân môn tập làm văn lớp 3 gồm 31 tiết và 4 tiết kiểm tra bao gồm các
kiểu bài tập:
a. Bài tập nghe: Nghe và kể lại một mẩu chuyện ngắn; nghe và nói lại
một mẩu tin.
b. Bài tập nói gồm:
* Tổ chức điều khiển cuộc họp, phát biểu trong cuộc họp.
* Kể hoặc tả miệng về ngời thân trong : gia đình, trờng, lớp, quê hơng,
lễ hội, hoạt động thể thao, văn nghệ....
c. Bài tập viết:

- Điền vào giấy tờ in sẵn.
- Viết một số giấy tờ theo mẫu.
- Viết th.
- Ghi chép sổ tay.
- Kể hoặc tả ngắn về ngời thân trong gia đình, trờng lớp, quê hơng, lễ
hội, hoạt động thể thao, văn nghệ....
Trong tiết có kiểu bài tập nghe - kể lại một câu chuyện ngắn 10 tiết. Số
truyện vui học sinh đợc nghe kể chủ yếu tập trung ở học kỳ I : 6 truyện và một
truyện vui ở học kỳ II trong tiết 5 ôn tập của tuần 35.
Nh vậy số lợng tiết có bài tập nghe kể lại một câu chuyện vui trong
phân môn Tập làm văn lớp 3 không nhiều nhng mục tiêu của loại bài tập này
đề ra học sinh nghe và kể lại đợc nội dung câu chuyện đúng trình tự đảm bảo
nội dung qua đó rèn kĩ năng nghe, nói cho học sinh. Không những thế mà loại
5
bài tập này còn giúp các em thấy đợc ý nghĩa và giá trị của tiếng cời qua mỗi
câu chuyện giúp các em có ý thức tránh những thói h, tật xấu, rèn luyện hình
thành thói quen c xử tốt trong cuộc sống hàng ngày. Do đó mỗi câu chuyện
vui trong Tập làm văn 3 đều chứa đựng ý nghĩa nhân văn cao cả.
II/ Điều tra thực trạng:
1. Về phía giáo viên:
Trong quá trình thực tế giảng dạy thực tế và qua học tập, trao đổi cùng
đồng nghiệp dạy lớp 3 năm học này tại trờng, tôi thấy việc giúp học sinh thực
hiện loại bài tập nghe - kể lại một câu chuyện vui trong giờ Tập làm văn lớp 3
thờng đợc xem nhẹ vì những nguyên nhân sau đây:
- Loại bài tập này đơn giản, nội dung tình tiết câu chuyện ngắn, học
sinh dễ dàng thực hiện đợc yêu cầu bài tập.
- Kiểu bài tập này thờng đợc ghép với 1 bài tập khác có yêu cầu cao hơn
trong cùng một tiết Tập làm văn. Chính vì thế giáo viên thờng chỉ dạy qua,
dành ít thời gian cho bài tập này mà dành thời gian cho bài tập khác nhiều
hơn.

- Do giáo viên không xác định rõ đợc mục tiêu, ý nghĩa của bài tập này
mà không chú ý tới trong khi dạy.
Chính vì lẽ đó nên khi hớng dẫn học sinh thực hiện dạy loại bài tập này
giáo viên chỉ dạy đơn giản, có thể coi là qua loa với thời gian ngắn cho xong,
còn dành thời gian cho bài tập còn lại. Thông thờng qui trình dạy bài tập này
giáo viên chỉ thực hiện nh sau:
- Giới thiệu câu chuyện .
- Giáo viên kể mẫu (hoặc đọc trong sách giáo viên)
- Cho học sinh kể mẫu (HS khá giỏi)
- Giáo viên nêu ý nghĩa câu chuyện.
6
Với cách thể hiện nh vậy giờ học Tập làm văn kiểu bài nghe kể một
câu chuyện vui trở lên nhàm chán, đơn điệu, câu chuyện vui trở thành buồn tẻ.
2. Về phía học sinh:
Cũng xuất phát từ cách thể hiện nh trên của giáo viên đã dẫn tới hiệu
quả tiếp thu, lĩnh hội kiến thức của học sinh không cao.Học sinh không nhận
thấy cái đáng cời, không thấy buồn cời dẫn đến việc kể lại đối với các em
không còn hào hứng đôi khi là bắt buộc, gò ép.
Cũng do giáo viên kể chuyện thiếu sáng tạo (đọc 1,2 lần...) học sinh kể
chuyện đợc cũng gần nh lặp lại máy móc những từ ngữ ở câu chuyện mà giáo
viên vừa kể (hoặc đọc), đối với học sinh khá, giỏi; còn đối với học sinh có
nhận thức chậm hơn có thể các em nắm đợc nội dung câu chuyện xong kể khó
thành công, ngôn ngữ lặp đi, lặp lại vấp váp ở nhiều chi tiết. Cho nên kỹ năng
nói của các em không đợc rèn, ngôn ngừ phát triển chậm, điều này ảnh hởng
rất lớn đối với các bài tập luyện nói khác.
III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy
kiểu bài tập làm văn nghe - kể lại một câu chuyện
vui lớp 3
Qua nghiên cứu tìm hiểu thực trạng ở trờng tôi, đối với một câu chuyện
vui khi đọc lên thấy có thể bật ngay tiếng cời nhng sau khi học xong học sinh

lại thấy bình thờng, đơn điệu chẳng có gì đáng cời thì việc dạy của giáo viên
coi nh chẳng gặt hái đợc điều gì sau bài dạy của mình. Chính vì vậy tôi mạnh
dạn đa ra một số biện pháp sau đây:
1- Nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện.
- Điều này có thể không mới nhng rất quan trọng, thông qua việc
nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện ta nắm đợc cái gì ? dạy cho học sinh cái gì
?
7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×