VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU HƯỜNG
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành
: Luậ
Mã s
: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS CAO THỊ OANH
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Viện khoa học xã hội, Viện hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................ 7
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .......... 7
1.2. Lịch sử phát triển, các quy định của luật hình sự của Việt Nam đối với tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .................................................................................................. 16
1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản và kinh nghiệm rút ra với pháp luật hình sự Việt Nam .......................... 26
1.4. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội khác có dấu hiệu
liên quan ............................................................................................................................... 29
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN
NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .................................................................................... 34
2.1. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo Bộ luật hình sự 1999...................................................................................................... 34
2.2. Trách nhiệm hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong các
trường hợp đặc biệt ................................................................................................................ 50
Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ........................................................................................................ 53
3.1. Kết quả thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành
phố Hà Nội những năm gần đây ........................................................................................ 53
3.2. Những ưu điểm và hạn chế trong thực tiễn áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản những năm gần đây ............................................................................. 61
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản .............................................................................................................. 65
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 80
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS:
Bộ luật Dân sự
BLHS:
Bộ luật Hình sự
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng Hình sự
CTTP:
Cấu thành tội phạm
TNHS:
Trách nhiệm Hình sự
TAND:
Tòa án nhân dân
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
S hiệu
Tên bảng
Trang
Thống kê số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội lạm dụng tín
Bảng 3.1.
nhiệm chiếm đoạt tài sản được giải quyết trên địa bàn thành
54
phố Hà Nội từ 2012- 2016
Thống kê việc truy cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm
Bảng 3.2.
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ 2012-
54
2016
Thống kê việc quyết định hình phạt về tội lạm dụng tín nhiệm
Bảng 3.3.
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ 20122016
55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đứng trước công cuộc đổi mới và hội nhập thế giới hiện nay, đất nước ta không
ngừng phát triển cả về trí và lực. Điều kiện kinh tế, xã hội của con người ngày càng
cao, trình độ của người dân cũng ngày một phát triển. Bên cạnh những thành tựu trên
các lĩnh vực về kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội nước ta đã đạt được, mặt trái của sự
phát triển không thể không nói đến tình hình tội phạm ngày càng phức tạp hơn, các loại
tội phạm hoạt động ngày càng tinh vi với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng
nghiêm trọng. Dưới sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đời sống của người dân
ngày một nâng cao lại làm các tội phạm xâm phạm sở hữu càng nảy sinh thêm lòng
tham, ý muốn chiếm đoạt tài sản có giá trị của người khác để phục vụ cho bản thân.
Một trong các loại tội xâm phạm sở hữu cần nói đến là tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.
Bằng các thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp, tội phạm lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản có thể gây ra rất nhiều thiệt hại cho người dân, những người vì sự tin
tưởng mà trao tài sản cho người phạm tội. Cũng chính vì sự tin tưởng này mà nhiều
người dân bị hại có thể mất đi những tài sản rất lớn, nhiều khi dẫn tới kiệt quệ về kinh
tế, lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Điều này không những xâm phạm quyền sở hữu
của người dân mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của những người bị
hại, gây ra tác hại xấu cho cộng đồng, xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng là loại tội phạm có nhiều dấu
hiệu liên quan đến các tranh chấp dân sự, do đó, việc phát hiện tội phạm nhiều khi bị bỏ
lọt hoặc bị chậm trễ dẫn đến thiệt hại cho người dân chậm được khắc phục, quyền của
công dân bị xâm phạm do tội phạm có liên quan đến vấn đề hình sự hoá các quan hệ
dân sự, kinh tế. Việc tồn tại tình trạng như vậy là do các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các vấn đề liên quan đến tội phạm này còn chưa thống nhất, các cơ quan áp dụng pháp
luật nhiều khi còn lúng túng trong quá trình áp dụng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả, chất lượng quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Việc nghiên cứu sâu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo quy định của luật hình sự Việt Nam đặt ra vấn đề cần quan tâm.
Nghiên cứu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong những năm gần
đây thực tiễn cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tìm hiểu kỹ càng. Đặc biệt, việc nghiên cứu
vấn đề tội phạm này trên địa bàn thủ đô Hà Nội- trung tâm văn hoá, chính trị của đất
nước lại càng cần thiết hơn, bởi lẽ Hà Nội là một trong những thành phố đi đầu về sự
1
phát triển, đây cũng sẽ là nơi thu hút nhiều tội phạm xâm phạm về sở hữu trong đó có
tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tình hình tội phạm nói chung, tội
phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng không được quan tâm, làm rõ để
kịp thời khắc phục sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến bộ mặt của thủ đô. Tuy nhiên, trong
các đề tài nghiên cứu những năm gần đây, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản lại
ít được nghiên cứu đầy đủ và toàn diện. Các vấn đề về thực tiễn liên quan đến tội phạm
này trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng chưa được đi sâu nghiên cứu, bám
sát. Thực tiễn đặt ra rằng, vẫn còn nhiều vướng mắc trong vấn đề định tội danh, quyết
định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Điều này sẽ gây ảnh
hưởng không nhỏ đến công tác đấu tranh phòng ngừa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản nói riêng, các loại tội phạm nói chung.
Xuất phát từ tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, nhằm đóng góp và đề xuất
những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình nghiên cứu đề tài, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội
phạm có tính tinh vi và phức tạp. Tội phạm này đã được đề cập trong một số giáo trình,
sách, báo, bài viết gồm có:
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập II của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội (2015); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của GS. TS. Võ Khánh Vinh (Chủ
biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2003); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
(Phần các tội phạm), tập 2- Các tội xâm phạm sở hữu của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Tp
Hồ Chí Minh (2002); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của
tập thể tác giả TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình,
TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sỹ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội (2001),... Các công trình trong sách, giáo trình nói trên, các tác giả đã đề
cập đến nội dung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, các công
trình chỉ dừng lại ở những khái niệm, dấu hiệu cơ bản, những bình luận một cách tổng
quan làm khuôn mẫu cho các đề tài nghiên cứu mà chưa có công trình nào nghiên cứu
toàn diện và có hệ thống về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ pháp
lý hình sự.
2
- Đề tài "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có
đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam"- Luận văn Thạc sỹ năm
2012 của tác giả Hồ Ngọc Hải; Đề tài "Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản"- nghiên cứu của ThS. Võ Văn Tài, Giảng viên khoa Kiểm sát hình
sự; Đề tài “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 BLHS 1999” của
Nguyễn Thu Vân, Luận văn thạc sỹ. Các đề tài nêu trên đã đề cập đến tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự và tội phạm học. Tuy nhiên, các đề
tài nghiên cứu đều chỉ nghiên cứu một phần hoặc một góc độ liên quan đến tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà chưa nghiên cứu một cách toàn diện về tội phạm
này. Hơn nữa, các đề tài cũng chưa nghiên cứu sâu về thực tiễn đối với tội phạm trên
địa bàn thành phố Hà Nội- là một điểm nóng về tội phạm nói chung, tội phạm lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
- Bài viết "Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” – Một số vướng mắc
trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện" của ThS. Trần Duy Bình, Toà án nhân dân tỉnh
An Giang cũng đã đề cập đến tội phạm này dưới góc độ luật hình sự. Nhưng bài viết chỉ
đưa ra những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện mà chưa
đi vào phân tích chuyên sâu các vấn đề về tội phạm, các dấu hiệu hay trách nhiệm hình
sự của tội phạm.
Từ những công trình, bài viết, tài liệu được trình bày ở trên, tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội còn là vấn đề bỏ ngỏ. Đến
thời điểm này, đề tài "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là đề tài có tính mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. M c đíc nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử tại
TAND hai cấp trên địa bàn thành phố Hà Nội của tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận chuyên sâu đối với quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tội phạm. Qua bài viết, hình thành các vấn đề về thực tiễn xét
xử trong các vụ án về tội phạm này làm cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự về xử lý tội phạm. Từ các cơ sở phân tích đó, luận văn kiến
nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
3
3.2. Nhiệm v nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu được đặt ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu, đưa ra khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; làm rõ lịch sử hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, làm rõ các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội phạm lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản; so sánh tội phạm với một số tội phạm khác gần gũi.
Thứ ba, phân tích, làm rõ về thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội; tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình giải quyết vụ án, áp dụng pháp luật. Từ đó, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đ i ượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và các bản án về tội phạm này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo quy định của luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử tại TAND
hai cấp địa bàn thành phố Hà Nội dưới góc độ pháp lý hình sự trong thời gian 05 năm
từ năm 2012 đến năm 2016. Góc độ nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các số liệu xét xử
thực tiễn tại TAND hai cấp thành phố Hà Nội trong phạm vi 05 năm qua 100 bản án về
tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của TAND hai cấp thành phố Hà Nội.
Đến thời điểm nghiên cứu đề tài, Bộ luật hình sự 2015 đang được sửa đổi, hoàn
thiện, chưa có hiệu lực. Các quy định hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được tiến hành theo Bộ luật hình sự 1999.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. P ươ
pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận từ phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả còn dựa trên các quan điểm, chính sách
của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực trong đó có đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói
chung, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
4
5.2. P ươ
pháp nghiên cứu
Qu tr nh nghie n cứu đề t i, tác giả sử dụng c c phu o ng ph p nghie n cứu
của khoa học luạ t h nh sự nhu : pha n tích, tổng hợp, thống ke ; phu o ng ph p
so s nh, đối chiếu; pha n tích quy phạm ph p luạ t, khảo s t thực tiễn; điều tra n
điển h nh... để pha n tích v luạ n chứng c c vấn đề khoa học cần nghie n cứu.
Ngo i ra, trong qu tr nh thực hi
n đề t i, t c giả đã tiếp thu có chọn lọc kết
quả của c c co ng tr nh nghie n cứu đã co ng ố, c c đ nh gi , tổng kết của c c co
quan chuye n mo n v c c chuye n gia về những vấn đề có lie n quan đến c c vấn
đề nghie n cứu trong luạ n va n.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ý nghĩa của luận văn có thể kể đến:
Về mặt lý luận, kết quả nghie n cứu của luạ n va n góp phần ho n thi
nl
luạ n về tọ i phạm nói chung, tọ i lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong khoa
học luạ t h nh sự Vi
t Nam nói rie ng. Luận văn có ý nghĩa cung cấp thêm cơ sở lý
luận, làm phong phú thêm về mặt tài liệu nghiên cứu khoa học để tham khảo cho những
bài viết, công trình, bài giảng có liên quan.
Về mặt thực tiễn, luạ n va n có
nghĩa đưa ra một số đề uất, kiến nghị, cung
cấp những luạ n cứ khoa học phục vụ cho co ng t c lạ p ph p v hoạt đọ ng thực
tiễn p dụng Bọ
luạ t h nh sự Vi
t Nam lie n quan đến tọ i lạm dụng tín nhi
chiếm đoạt t i sản, qua đó góp phần na ng cao hi
m
u quả co ng t c đấu tranh ph ng
ngừa tọ i n y trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, ở nước ta nói chung hi
n nay
v sắp tới.
Với ý nghĩa như trên, luận văn có những đóng góp mới gồm:
- Phân tích, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, phân tích sự phát triển các quy định
về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong lịch sử lập pháp Việt Nam, so sánh,
đối chiếu các quy định của Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật hình sự 2015 và so sánh các
quy định của tội phạm này với một số nước trên thế giới.
- Phân tích, đ nh giá những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành
về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, các hình thức trách nhiệm hình sự, so
sánh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm gần gũi.
- Phân tích thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn thành phố Hà Nội, nêu được những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn áp dụng quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
5
quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng như cả nước nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1. Lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định
của luật hình sự Việt Nam
Chương 2. Quy định của pháp luật hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
Chương 3. Thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn thành phố Hà Nội và kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng
6
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Pháp luật hình sự nước ta ghi nhận và ảo vệ quan hệ sở hữu là một trong những
quan hệ quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân, tổ chức
và của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường đang iến các quan hệ kinh tế ngày càng có giá
trị, các giao dịch dân sự cũng ngày càng gia tăng và phát triển theo nhiều chiều hướng.
Chính các giao dịch về dân sự, kinh tế, xã hội này lại có quan hệ trực tiếp đến các tài
sản thuộc sở hữu của công dân, tổ chức hay của nhà nước XHCN. Ranh giới phân định
giữa giao dịch dân sự và một hành vi ị coi là tội phạm xâm phạm đến quan hệ sở hữu
của công dân qua các giao dịch là vấn đề cần được làm rõ. Điều này sẽ giúp tránh tình
trạng “h nh sự hóa” các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại hoặc “dân sự hóa” các
hành vi ị coi là tội phạm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Liên
quan đến các giao dịch dân sự và hành vi phạm tội trong hình sự chính là quy định về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, làm rõ khái niệm tội phạm ước đầu sẽ giúp
hiểu rõ hơn về tội phạm.
Theo Từ điển Luật học, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là “hành vi lạm
dụng việc được giao tài sản trên cơ sở hợp đồng để chiếm đoạt toàn bộ hay một phần
tài sản đó” [44, tr.454].
Khoản 1 Điều 140 BLHS 1999 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản:
“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người
khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm,
thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm: a)
Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng
các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản
đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn
đến không có khả năng trả lại tài sản”.
7
Như vậy, có thể hiểu hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm
hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác
ằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc ỏ trốn để chiếm đoạt tài
sản đó hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích ất hợp pháp dẫn đến không có khả
năng trả lại tài sản. Tội phạm này cần được xác định với hai đặc điểm chính:
Thứ nhất, người phạm tội thông qua một giao dịch hợp pháp, ngay thẳng, như
vay, mượn, thuê tài sản hoặc các hình thức giao dịch bằng hợp đồng khác nhận được tài
sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng tài sản hợp pháp .
Thứ hai, sau khi nhận được tài sản qua các giao dịch nêu trên, người phạm tội
mới nảy sinh ý thức phạm tội, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng cách dùng thủ
đoạn gian dối hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện trả, có khả năng trả
nhưng cố tình không trả để chiếm đoạt tài sản đó; hoặc tuy không có ý thức chiếm đoạt
nhưng đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả
lại cho chủ sở hữu.
Khái niệm tài sản được Từ điển Luật học định nghĩa là: các vật có giá trị bằng
tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm: vật
có thực, vật đang tồn tại và sẽ có như hoa, lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu đã
được thoả thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản
[44, tr.685].
Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản".
Đối với vật l đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản phải l
vật có thực, vật đang tồn tại, có gi trị v nằm trong sự chiếm hữu của con người. Tuy
nhiên, những vật l t i sản m Nh Nước cấm tư nhân mua
n, trao đổi như thuốc
phiện, ngoại tệ, rừng cây, hầm mỏ, vũ khí, thuốc nổ, chầt phóng ạ, chất ch y, chất
nổ…sẽ không phải l đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản. Những
vật l t i sản không c n gi trị kinh tế như thuốc đã ị tiêu hủy, h ng hóa không c n gi
trị sử dụng cũng không phải l đối tượng t c động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt t i sản [37]. Do có những đặc điểm, tính chất quan trọng nhất định nên những t i
sản đó đã trở th nh đối tượng của một số tội phạm riêng.
Tiền thường l đối tượng trực tiếp của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i
sản. Giấy tờ có gi cũng l một trong c c loại t i sản thuộc đối tượng chiếm đoạt của
tội phạm n y. Với loại t i sản n y cần lưu
ởi nó tồn tại dưới nhiều hình thức kh c
nhau. Giấy tờ có gi được chia l m hai loại gồm: Giấy tờ có gi ghi danh v Giấy tờ có
8
giá vô danh. Nếu những giấy tờ có gi trị m thông qua đó không trực tiếp lấy được t i
sản m chỉ l những phương tiện hực hiện h nh vi chiếm đoạt t i sản hoặc c c giấy tờ
chỉ dùng v o việc phân phối th mặc dù có h nh vi chiếm đoạt th cũng không phải l
đối tượng t c động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản.
"Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao
dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" (Điều 181 BLDS). Quyền tài sản là loại tài sản
quyền gắn liền với chủ sở hữu, do đó, khi chủ tài sản bằng giao dịch dân sự chuyển giao
quyền tài sản, sau đó, người phạm tội lợi dụng dùng thủ đoạn gian dối cũng có thể thực
hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, quyền tài sản cũng là đối tượng của tội phạm này.
Từ các khái niệm chung, quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được ghi nhận trong BLHS 1999, tác giả xin đưa ra khái niệm về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội của
người phạm tội lợi dụng lòng tin của người khác, sử dụng hành vi vay, mượn, thuê tài
sản hoặc nhận tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên bằng hình
thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn với mục đích chiếm đoạt tài sản
hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài
sản, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý, trái pháp luật hình sự, xâm phạm quyền sở hữu được pháp luật
hình sự bảo vệ.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Căn cứ quy định cụ thể về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, những yếu
tố đặc trưng của cấu thành tội phạm (CTTP) tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được thể hiện như sau:
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội
đó [39, tr. 86].
Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam 2013- đạo luật cơ bản của nước ta ghi
nhận và bảo hộ quyền sở hữu của công dân: "1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc
trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật
bảo hộ".
Khách thể chung là "tổng hợp các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật
9
Hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị tội phạm xâm hại
đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định" [3, tr. 351]. Khách thể
chung của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu, trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa. Xác định khách thể chung của tội phạm sẽ đưa ra cơ sở pháp lý chung
khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
là hành vi phạm tội bị pháp luật hình sự cấm.
Khách thể trực tiếp là "một quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật
hình sự cụ thể bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một tội phạm nhất định nhưng bị tội
phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định" [3,
tr.351]. Khách thể trực tiếp của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở
hữu tài sản. Đây là quan hệ được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo hộ, BLHS cụ thể
hóa các quy định của pháp luật, coi quan hệ sở hữu tài sản là một trong các khách thể
quan trọng cần bảo vệ và bảo đảm.
Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể tội phạm bị
người thực hiện hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại
cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [39, tr.94]. Đối tượng tác động của
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tài sản của công dân, tổ chức, nhà nước.
Khi nghiên cứu đối tượng tác động của tội phạm này cần lưu tâm đến các loại tài sản cụ
thể gồm những loại tài sản nào như đã phân tích ở phần khái niệm trên.
Các tài sản bị chiếm đoạt là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản được các nhà làm luật quy định về yếu tố định lượng tài sản. Theo
đó, tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên, cụ thể: Khoản 1: từ
bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết
án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm; Khoản 2: từ trên
năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Khoản 3: từ hai trăm triệu đồng đến
dưới năm trăm triệu đồng. Khoản 4: từ năm trăm triệu đồng trở lên. (BLHS 2015 chưa
có hiệu lực trong thời điểm hiện tại, tuy nhiên, về tài sản, giá trị tài sản có bị truy cứu
TNHS có những nét mới khi xác định tài sản có giá trị dưới bốn triệu đồng nhưng tài
sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về
mặt tinh thần đối với người bị hại cũng được xác định là đối tượng tác động của tội
phạm). Nhà làm luật đưa yếu tố định lượng tài sản là một căn cứ để xác định có cấu
thành tội phạm hay không góp phần hạn chế các quy định tùy nghi của pháp luật, tránh
xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm giúp xác định rõ ranh giới giữa vi phạm hành chính
10
và tội phạm.
1.1.2.2. Chủ thể của tội phạm
Luật hình sự Việt Nam coi chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm
hình sự, đạt một độ tuổi nhất định và đã thực hiện hành vi phạm tội [39, tr.122].
Điều 140 BLHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gồm 04 khung
hình phạt sau: đến ba năm tù (khoản 1), đến bảy năm tù (khoản 2), đến mười lăm năm
tù (khoản 3), đến hai mươi năm tù hoặc tù chung thân (khoản 4). Căn cứ quy định tại
Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 sửa đổi 2009, quy định về tuổi chịu TNHS tại Điều 12,
chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ ai có đủ điều kiện chủ thể tội phạm. Cần lưu ý
với các trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể bị truy cứu TNHS
khi thực hiện hành vi thuộc một trong các tình tiết định khung tại Khoản 3 và Khoản 4
Điều 140 BLHS là trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi
trở lên có thể bị truy cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy
định của các khung từ Khoản 1 đến Khoản 4 Điều 140 BLHS 1999.
1.1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp những
biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan. Mặt khách quan của tội phạm
bao gồm các dấu hiệu có ý nghĩa pháp lý là: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả
nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả phạm
tội; các dấu hiệu không bắt buộc (thủ đoạn, phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh
phạm tội) [3, tr.365-366].
Hành vi khách quan là cầu nối giữa khách thể và chủ thể tội phạm, không có chủ
thể của tội phạm khi không có hành vi khách quan của tội phạm [39, tr. 101]. Đối với
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi khách quan của tội phạm được thể
hiện là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản được giao trên cơ sở: “Vay,
mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các
hình thức hợp đồng”. Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản mang ba đặc điểm cơ bản của hành vi khách quan là: hành vi gây thiệt hại về vật
chất cho chủ sở hữu; nguy hiểm cho xã hội; và hành vi đã được tính toán cân nhắc là
hoạt động có ý thức và ý chí của chủ thể, được thực hiện dưới hình thức hành động
phạm tội đã vi phạm quy định tại Điều 140 BLHS 1999.
Hành vi chiếm đoạt của tội phạm này là những hành vi không thực hiện đúng
nghĩa vụ cam kết, đó là: không trả lại tài sản bằng thủ đoạn gian dối; hoặc bằng thủ
đoạn bỏ trốn; hoặc do không có khả năng trả lại tài sản vì đã sử dụng tài sản vào mục
11
đích bất hợp pháp. Đối tượng của hành vi chiếm đoạt của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản là những tài sản đã được giao ngay thẳng cho người phạm tội trên cơ sở hợp
đồng [40, tr.42]. Căn cứ pháp lý của việc nhận tài sản một cách ngay thẳng là hợp đồng
dân sự, kinh tế được các bên chủ thể tự nguyện xác lập như: hợp đồng vay, mượn, thuê
tài sản, hoặc các hình thức hợp đồng khác theo quy định của BLDS.
Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để hình thành
tội phạm bao gồm một chuỗi các hành vi. Sau khi nhận được tài sản một cách hợp pháp,
người phạm tội mới tiếp tục có hành vi chiếm đoạt tài sản được giao. Đây là hành vi
mang tính quan trọng nhất dẫn đến cấu thành tội phạm. Không có hành vi chiếm đoạt
này thì không có tội phạm xảy ra. Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản được biểu hiện qua các thủ đoạn như: gian dối, bỏ trốn, hoặc
sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản
cho chủ sở hữu.
Hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các hình thức đã được phân tích ở trên là hành
vi khách quan của tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ khi hành vi đó là
trái pháp luật, hay nói cách khác, chỉ hành vi được quy định trong BLHS mới có thể là
tội phạm. Điều này cũng có nghĩa là cấm áp dụng nguyên tắc tương tự. Do đó, tội phạm
phải thực hiện với đủ dấu hiệu của hành vi khách quan nêu trên, thỏa mãn cấu thành tội
phạm được quy định tại Điều 140 BLHS mới phát sinh TNHS.
Cần lưu ý, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140
BLHS 1999 sửa đổi 2009 có quy định về các thủ đoạn người phạm tội thực hiện để hình
thành hành vi chiếm đoạt tài sản:
Thủ đoạn đầu tiên là thủ đoạn gian dối, đây là thủ đoạn thường được được sử
dụng và thường gặp trong thực tế. Người phạm tội sau khi có được tài sản hợp pháp sẽ
giả như bị mất, hoặc đ nh tráo tài sản, rút bớt tài sản khiến sản phẩm được làm ra
không có đầy đủ đặc tính về số lượng, chất lượng như yêu cầu của hợp đồng, xoá dấu
tích việc nợ, huỷ bỏ các tài liệu chứng cứ chứng minh nghĩa vụ thanh toán như giấy vay
nợ, các cam kết. Phần lớn trong các trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối
để che giấu hành vi chiếm đoạt. Ví dụ: Do tạo lập được quan hệ mua bán hàng hóa thân
thiết với bà Y, trong quá trình mua hàng, bà Y đã để T tự ghi vào sổ số lượng các mặt
hàng T mua. Lợi dụng sự sơ hở trong quản lý kinh tế của bà Y cũng như lòng tin của bà
Y cho T tự ghi chép các mặt hàng, số lượng hàng mua bán nên T đã sửa chữa số liệu
ghi chép trong sổ. T đã sử dụng thủ đoạn gian dối trên 64 lần, chiếm đoạt tài sản có
tổng giá trị 149.977.000 đồng của bà Y. Mặc dù từng lần chiếm đoạt đều có giá trị dưới
12
4.000.000 đồng nhưng T đã liên tục thực hiện hành vi chiếm đoạt với tổng giá trị là
149.977.000 đồng. TAND huyện P, thành phố HN đã xét xử T về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điểm d Khoản 2 Điều 140 BLHS tại Bản án số
10/2016/HSST ngày 15/3/2016 [52].
Thủ đoạn thứ hai là thủ đoạn bỏ trốn, người phạm tội sau khi nhận được tài sản
của từ chủ sở hữu, để thực hiện hành vi chiếm đoạt đã bỏ trốn nhằm cố tình không
thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Khi đ nh
giá hành vi bỏ trốn của người phạm tội phải xem xét một cách khách quan, toàn diện,
nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc lánh mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vì
nguyên nhân khác thì không coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Khi người phạm tội sử
dụng thủ đoạn bỏ trốn để thực hiện hành vi khách quan chiếm đoạt tài sản, điều này cho
thấy rõ tính có lỗi và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, gây khó khăn cho
công tác điều tra, truy tố, xử lý tội phạm. Ví dụ: Bùi Việt H đã lợi dụng sự tín nhiệm
của Công ty cổ phần vận tải và thương mại Âu Lạc giao xe ô tô cho H bằng hợp đồng
đặt cọc. Sau đó, H đã không kinh doanh dịch vụ taxi theo thỏa thuận đã ký kết mà
chiếm đoạt bằng hình thức mang đi cầm đồ rồi bỏ trốn khỏi địa phương. Giá trị tài sản
mà H chiếm đoạt là 230.000.000 đồng. Hành vi của H đã bị truy tố và xét xử với tội
danh lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Khoản 3 Điều 140 BLHS tại Bản án
số 135/2016/HSST ngày 31/5/2016 của TAND quận N, thành phố HN [52].
Thủ đoạn thứ ba là người phạm tội sau khi có được tài sản đã sử dụng tài sản vào
mục đích bất hợp pháp dẫn đến việc không trả lại tài sản được. Việc sử dụng tài sản vào
mục đích bất hợp pháp là những trường hợp dùng tài sản vào việc thực hiện tội phạm,
vi phạm pháp luật có tính chất hình sự có ý nghĩa là dấu hiệu cấu thành tội phạm như:
dùng tài sản, mượn vay để đ nh số đề, đ nh bạc, buôn lậu, buôn ma tuý, mua bán, trao
đổi hàng hóa bất hợp ph p,…dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó. Cần phân biệt thủ đoạn này với trường hợp sử
dụng tài sản không đúng mục đích đã thoả thuận khi giao kết hợp đồng để xem xét,
đ nh giá đó là tội phạm hay là tranh chấp dân sự, tránh việc hình sự hóa các quan hệ
dân sự và ngược lại. Ví dụ: Ngày 24/11/2015, do có quan hệ quen biết với chị H nên
Nguyễn Mạnh Đ đã mượn của chị H 01 máy tính xách tay Lenovo trị giá 10.000.000đ.
Chị H tin tưởng đã cho Đ mượn. Do cần tiền nên ngày 25/11/2015, Đ mang máy tính
trên cầm cố cho anh T với giá 4.000.000đ. Ngày 23/12/2015, Đ lại tiếp tục mượn của
chị H 01 xe máy Honda Vision trị giá 17.000.000đ. Đến ngày 15/01/2015, do cần tiền
nên Đạt đã bán chui (bất hợp pháp) xe máy trên cho anh D với giá 18.000.000đ. Hành
13
vi của Đ đã chiếm đoạt tài sản của chị H với giá trị tài sản là 21.000.000đ bằng thủ đoạn
sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp, cụ thể trường hợp này là để có tiền tiêu sài
cá nhân nên đã đem cầm cố, bán trái phép máy tính và xe máy của chị H. Hành vi của Đ
đã cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điểm b
Khoản 1 Điều 140 BLHS. Hành vi của Đ đã bị TAND quận N, thành phố HN xét xử
theo bản án số 126/2016/HSST ngày 25/5/2016 [52].
Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiện chiếm đoạt tài sản:
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra cho các quan hệ xã hội là khách thể được bảo vệ bởi luật hình sự [39, tr.110]. Về
nguyên tắc, chỉ những hậu quả mang tính xác định được mới được quy định trong cấu
thành tội phạm. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội phạm có cấu thành vật
chất. Hậu quả là dấu hiệu được ghi nhận trong cấu thành tội phạm tại Điều 140 BLHS
1999. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là cơ sở để đ nh giá tính nguy
hiểm cho xã hội về mặt chính trị- xã hội. Tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
gây ra những hậu quả xấu đối với quan hệ sở hữu được pháp luật bảo vệ. Nhà làm luật quy
định yếu tố định lượng về tài sản chiếm đoạt trong chính cấu thành tội phạm.
Hậu quả của hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là việc
chiếm đoạt được tài sản của chủ sở hữu đã giao cho mình có giá trị từ bốn triệu đồng
trở lên hoặc giá trị tài sản dưới bốn triệu đồng nhưng gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt (như hành vi lừa đảo, trộm cắp, cướp,
cướp giật, v.v.. hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt (trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, v.v..)
chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội này.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm được biểu hiện ở việc
hậu quả của tội phạm là do hành vi chiếm đoạt gây ra. Hành vi chiếm đoạt xảy ra trước
hậu quả về mặt thời gian và hậu quả là kết quả trực tiếp của hành vi chiếm đoạt. Điều 140
BLHS 1999 đã đưa vấn đề định lượng để xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm khi
người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng số lượng tài sản bị chiếm đoạt
phải thỏa mãn về mặt định lượng tài sản đã nêu trong luật hoặc các trường hợp khác được
pháp luật hình sự ghi nhận mới đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Các yếu tố về địa điểm, thời gian, v.v.. không phải là dấu hiệu bắt buộc trong
mặt khách quan của cấu thành tội phạm này.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm: lỗi, động cơ,
mục đích [39, tr.134]. Trong mọi cấu thành tội phạm, dấu hiệu lỗi luôn được phản ánh
14
thể hiện mặt chủ quan của tội phạm; dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội tuỳ từng cấu
thành tội phạm cụ thể được thể hiện với ý nghĩa pháp lý hình sự nhất định.
"Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc
vô ý" [39, tr.136]. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hình thức lỗi
thuộc mặt chủ quan của người phạm tội là lỗi cố ý và cụ thể hơn nữa là lỗi cố ý trực tiếp
“Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận
thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó
và mong muốn hậu quả xảy ra” (Điều 9 BLHS 1999). Ở tội phạm này, người phạm tội
nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy
được hậu quả của hành vi mình thực hiện xâm phạm đến quan hệ sở hữu được pháp luật
hình sự bảo vệ. Trong ý thức chủ quan của người phạm tội, họ mong muốn hậu quả xảy
ra nhằm mục đích chiếm đoạt được tài sản của người khác. Khi xác định lỗi đối với tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cần lưu ý: ban đầu, khi giao kết hợp đồng hợp
pháp và nhận được tài sản, người phạm tội vẫn có ý chí, ý định thực hiện hợp đồng đó.
Chỉ đến giai đoạn sau khi đã giao kết hợp đồng và nhận được tài sản đó, người phạm tội
mới nảy sinh ý định phạm tội và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn
đã được cấu thành tội phạm ghi nhận. Do đó, dấu hiệu lỗi của tội phạm này được xem
xét tại thời điểm thực hiện hành vi chiếm đoạt chứ không phải tại thời điểm nhận tài
sản. Vấn đề cần lưu ý thứ hai là: Thời điểm nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản là căn cứ
rất quan trọng để phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản. Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản người phạm tội có ý thức chiếm đoạt từ
trước khi có tài sản trong tay nên người phạm tội đã bằng thủ đoạn gian dối tạo ra các
thông tin sai sự thật làm người bị hại lầm tưởng là thật và đã giao hoặc nhận nhầm tài
sản cho người phạm tội, từ đó thực hiện hành vi chiếm đoạt. Như vậy cả hai tội phạm
đều có hình thức lỗi cố ý trực tiếp nhưng thời điểm xuất hiện lỗi của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản muộn hơn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy quyết tâm người
phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [3, tr.381]. Động
cơ phạm tội đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không phải là dấu hiệu
bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khi phân tích các dấu hiệu của tội phạm
này có thể thấy động cơ phạm tội xuất phát từ việc tư lợi, vụ lợi, do ham muốn những
lợi ích nhất định. Việc xác định động cơ phạm tội có ý nghĩa trong việc đ nh giá mức
độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhằm phân hoá TNHS được rõ hơn.
15
Mục đích phạm tội là kết quả mà người phạm tội mong muốn đạt được trong
tương lai bằng việc thực hiện hành vi phạm tội [3, tr.382]. Mục đích của tội phạm hình
thành trong ý chí chủ quan của người phạm tội trước khi bắt đầu thực hiện tội phạm. Mục
đích phạm tội khác với hậu quả của tội phạm. Hậu quả của tội phạm nằm trong mặt
khách quan của tội phạm có liên hệ với mục đích của tội phạm trong một thể thống nhất
giữa mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm [39, tr.154]. Đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, mục đích của chủ thể phạm tội là mong muốn có được những
tài sản bằng các thủ đoạn do lợi dụng lòng tin của chủ sở hữu. Do đó, dù người phạm tội
biết rõ hành vi của mình gây ảnh hưởng xấu cho xã hội, xâm phạm đến quan hệ sở hữu
được pháp luật bảo vệ nhưng vì mục đích vụ lợi của bản thân, chủ thể vẫn cố ý thực hiện
tội phạm. Mục đích của tội phạm không phải dấu hiệu bắt buộc được quy định trong cấu
thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vì bản thân hành vi chiếm đoạt tài sản
nằm trong mặt khách quan của tội phạm đã bao hàm mục đích của tội phạm nhưng nó
cũng có ý nghĩa trong việc xem xét vấn đề TNHS, đảm bảo việc cá thể hoá và phân hoá
TNHS một cách chính xác.
Trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, mặt chủ quan của tội
phạm thể hiện rõ nhất ở quy định về lỗi cố ý trực tiếp được thể hiện trong cấu thành tội
phạm. Các dấu hiệu về động cơ, mục đích phạm tội không phải dấu hiệu bắt buộc của
tội phạm. Tuy nhiên, tất cả các dấu hiệu vẫn có mối liên hệ, tương tác lẫn nhau phản
ảnh tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Nghiên cứu các dấu hiệu này giúp cho
việc xác định tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được chính xác hơn,
tránh việc quy tội khách quan đối với tội phạm và đảm bảo tính phân hoá TNHS được
cụ thể hơn.
1.2. Lịch sử phát triển, các quy định của luật hình sự của Việt Nam đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Chính sách hình sự nói chung của pháp luật hình sự Việt Nam từ các thời kỳ
trước đã có những quy định ban đầu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Một
cách chung nhất, pháp luật hình sự Việt Nam coi hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản, xâm phạm đến quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ là hành vi nguy hiểm
cho xã hội từ rất sớm. Các quy định về tội phạm này từ các ước sơ khai đến nay ngày
càng được hoàn thiện. Các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản qua
các giai đoạn lịch sử của pháp luật hình sự có thể được khái quát như sau:
16
1.2.1. Tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình
s Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến rước khi Bộ luật hình s 1985 có hiệu l c
Trong giai đoạn Cách mạng tháng Tám mới thành công, chính quyền non trẻ của
nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức để gây dựng và củng cố một nhà nước
vững mạnh, Hiến pháp 1946 ghi nhận “quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam
được bảo đảm” (Điều thứ 12). Nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp luật bảo vệ
quyền sở hữu. Nổi bật trong giai đoạn này là hai Sắc lệnh: Sắc lệnh số 26/SL ngày
25/02/1945 trừng trị các tội phá hủy công sản; Sắc lệnh số 27/SL ngày 28/02/1946 trừng
trị tội tham ô, tội tống tiền, tội bắt cóc, ám sát, tội đ nh bạc,…; Sắc lệnh số 233/SL ngày
17/11/1946 trừng trị các tội phù lạm, biển thủ công quỹ;… Đây là những văn bản đầu tiên
đặt nền móng cho việc hoàn thiện chính sách pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu.
Trong các văn bản pháp luật lúc này lại chưa có quy định cụ thể ghi nhận về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tội phạm này chủ yếu được xét xử theo nguyên tắc của án
lệ, được quy định với tên gọi “Bội tín” theo Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của
Thủ tướng chính phủ về việc trừng trị một số tội phạm: “2. Lừa gạt, bội tín: phạt tù từ ba
tháng đến năm năm”. Đây chính là quy định sơ khai nhất về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Vấn đề trách nhiệm của tội lừa gạt và bội tín được quy định tại thời kỳ
này được xác định là như nhau.
Giai đoạn 1970, sau những khó khăn, thách thức ban đầu đất nước ngày một phát
triển. Nhằm tăng cường pháp chế XHCN, nhà nước ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh số 150/PL trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng
của công dân ngày 21/10/1970 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hai pháp lệnh là sự tiếp
nối, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình sự nhằm bảo vệ quyền sở hữu. Tại đây,
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản lần đầu tiên được ghi nhận thành một tội phạm
độc lập với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, các khung hình phạt cụ thể.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ghi nhận tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Điều 11 như sau:“1. Kẻ nào nhận tài sản xã hội chủ nghĩa
để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5
năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ
chức; c) Có móc ngoặc; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Chiếm đoạt tài sản
với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt; e) Dùng tài sản chiếm đoạt vào việc
kinh doanh, bóc lột, đầu cơ, đút lót hoặc vào những việc phạm tội khác; Thì bị phạt tù
từ 3 năm đến 12 năm. 3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn
17
hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ 10 năm đến 20 năm”.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân tại Điều 11 quy
định:“1. Kẻ nào nhận tài sản riêng của công dân để giữ, vận chuyển, gia công, sửa
chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt, bớt xén hoặc
đánh tráo tài sản đó thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. 2. Phạm tội trong những
trường hợp sau đây: a) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, đơn vị bộ
đội, đoàn thể nhân dân, hợp tác xã hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm khác; b)
Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng khác; Thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm”.
Trong cả hai Pháp lệnh, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được các
nhà làm luật quy định rõ tại điều luật cụ thể. Hành vi khách quan của tội phạm tuy được
quy định tại hai điều luật ở hai Pháp lệnh nhưng có chung mặt khách quan của tội
phạm. Hành vi khách quan của tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là hành vi “lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt”, “bớt xén” hoặc “đánh tráo” chiếm đoạt một phần hoặc
toàn bộ tài sản được giao ngay thẳng trên cơ sở hợp đồng gửi giữ, gia công, vận
chuyển…, đối tượng của hành vi chiếm đoạt là tài sản XHCN hoặc tài sản công dân.
Khung hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có sự khác nhau căn
cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đối với từng loại
tài sản bị chiếm đoạt. Phạm tội đối với tài sản XHCN được nhà làm luật quy định chính
sách xử lý tội phạm nghiêm khắc hơn so với chiếm đoạt tài sản của công dân.
Hai Pháp lệnh ra đời năm 1970 tuy vẫn còn nhiều nét trình bày, kết cấu đơn giản
nhưng ước đầu đã thể hiện trình độ lập pháp tiến bộ của các nhà lập pháp nước ta giai
đoạn này. Tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được quy định với điều
luật cụ thể, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng và xử lý tội phạm được công khai, minh
bạch, bảo vệ tài sản XHCN, tài sản của công dân.
Giai đoạn 1975, miền Nam nước ta được giải phóng, đất nước hoàn toàn thống
nhất, chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam mới thành lập cũng đã ban hành các văn
bản pháp luật để bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, của nhà nước. Sắc luật số
03/SL-1976 ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt
Nam quy định các tội phạm và hình phạt được áp dụng ở miền Nam Việt Nam, tại đây,
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được ghi nhận với tên gọi “Bội tín”: “…b.
Phạm các tội khác như: trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt,
chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ sáu tháng đến bẩy năm…” (Điểm b Điều 4). Sắc
18
luật ước đầu xác định về tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhưng chưa
đưa ra dấu hiệu pháp lý cụ thể mà gộp chung với một số tội xâm phạm sở hữu khác.
Tháng 04/1976 Bộ tư pháp đã ra Thông tư số 03/BTP/TT hướng dẫn thi hành Sắc luật
trên. Sắc luật chỉ quy định áp dụng tại miền Nam Việt Nam khi chính phủ lâm thời mới
thành lập giai đoạn đất nước hoàn toàn thống nhất. So với Hai Pháp lệnh năm 1970 ban
hành trước đó, Sắc luật mang tính đơn giản hơn, tuy nhiên, về nội dung có phần cơ bản
là thống nhất với hai Pháp lệnh năm 1970 được ban hành.
1.2.2. Tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình
s Việt Nam giai đoạn từ 1985 đến rước khi Bộ luật hình s 1999 có hiệu l c
Khi nhà nước XHCN dần đi vào ổn định, trước tình trạng các văn bản quy phạm
pháp luật hình sự đơn hành dẫn đến tồn tại nhiều hạn chế, thiếu tính đồng bộ. Nhằm
hướng đến việc thể hiện một cách toàn diện, trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp
luật hình sự được ban hành từ những năm đầu của chính quyền cách mạng đến giữa
những năm 80 của thế kỷ XX, cũng như thể chế hóa chính sách hình sự của nhà nước
trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên CNXH. BLHS của nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986.
Tại đây, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được ghi nhận và quy định
thành tội danh riêng tại hai điều: Điều 135 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
XHCN), Điều 158 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân). Cụ thể:
“Điều 135. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa:1Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2- Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a)
Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; c) Tái phạm
nguy hiểm. 3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười
năm đến hai mươi năm”.
“Điều 158. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân: 1- Người
nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2- Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến mười hai năm: a) Chiếm
đoạt tài sản có giá trị lớn; b) Tái phạm nguy hiểm”.
Như vậy, BLHS 1985 đã giành hai chương quy định với các tội xâm phạm sở
hữu gồm Chương IV về Các tội xâm phạm sở hữu XHCN và Chương VI về Các tội
xâm phạm sở hữu của công dân. Về cơ bản, so với hai Pháp lệnh ban hành năm 1970,
19
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được ghi nhận tại hai Điều luật cụ thể,
độc lập quy định rõ về đối tượng tài sản là tài sản XHCN và tài sản của công dân.
BLHS 1985 cũng ghi nhận tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản XHCN cao hơn so với chiếm đoạt tài sản của công dân. Điều này
được cụ thể tại quy định của các khung hình phạt ở mỗi điều luật, Điều 135 với ba
khung hình phạt gồm một khung cơ bản và hai khung tăng nặng; Điều 158 có hai khung
hình phạt gồm một khung cơ bản và một khung tăng nặng; phân loại tội phạm tại điều
luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN cụ thể hơn, cao hơn so với
chiếm đoạt tài sản của công dân. BLHS 1985 đã pháp điển hóa quy định tại hai Pháp
lệnh thành một BLHS thống nhất, có giá trị pháp lý trên cả nước. Điều này giúp hoạt
động áp dụng pháp luật được thực hiện một cách hữu hiệu.
Tuy nhiên, hai điều luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại BLHS
1985 lại không mô tả rõ dấu hiệu về hành vi phạm tội. Điều này đ i hỏi khi áp dụng
pháp luật để xử lý tội phạm cần có thêm các văn bản hướng dẫn cụ thể. Nó dẫn đến việc
phải xây dựng thêm một loạt văn ăn hướng dẫn cồng kềnh, có thể dẫn đến sự thiếu
động bộ khi áp dụng.
Trong tiến trình hoàn thiện hệ thống luật pháp, BLHS 1985 đã được sửa đổi, bổ
sung bốn lần vào các năm 1989; 1991; 1992; 1997. Trong đó, tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản XHCN (Điều 135) được sửa đổi, bổ sung hai lần vào các năm 1991
và 1992; tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân được sửa đổi, bổ sung
một lần vào năm 1991. Các lần sửa đổi, bổ sung đối với tội phạm này chỉ sửa đổi, bổ
sung khung tăng nặng của tội phạm vẫn chưa sửa đổi, bổ sung cấu thành cơ bản để làm
rõ dấu hiệu về hành vi khách quan của tội phạm.
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN (Điều 135), lần sửa
đổi, bổ sung thứ nhất theo luật số 55-LCT/HĐNN8 sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS 1985, được Quốc Hội thông qua ngày 12/08/1991, hình phạt tại Khoản 3 đã điều
chỉnh theo hướng tăng hình phạt tù “từ mười năm đến hai mươi năm” lên “từ mười
năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân”, tính chất của tội phạm đã được xác định
mang tính nguy hiểm hơn, phân loại tội phạm ở mức cao hơn. Đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân (Điều 158) lần sửa đổi này đã thêm một khung
hình phạt là khoản 3- “Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù
từ mười năm đến hai mươi năm”. Tính phân loại tội phạm trong điều luật này tại lần
sửa đổi, bổ sung đã thể hiện cao hơn, tăng mức truy cứu TNHS đối với tội phạm từ hai
khung hình phạt so với trước đây đã thành ba khung hình phạt.
20