Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

THỰC TRẠNG VÀ NHU CẦU PHÁT TRIỂN GIAO DỊCH MUA KÝ QŨY TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.27 KB, 23 trang )

Nhóm 08
CHỦ ĐỀ: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ
TẠI VIỆT NAM

Mục Lục:

Phần 1: TỔNG QUAN VỀ GIAO DỊCH KÝ QUỸ CHỨNG KHOÁN
1.1/. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của mua ký quỹ chứng khoán.
1.1.1/. Khái niệm.
Giao dịch ký quỹ là việc công ty chứng khoán cấp tín dụng dưới dạng tiền mặt cho
khách hàng( khi khách hàng mua chịu), hoặc dưới dạng cổ phiếu (khi khách hàng bán
chịu).Phần còn lại do công ty chứng khoán cho vay. Đến kỳ hạn đã thỏa thuận khách hàng
phải hoàn trả đủ số tiền vay và lãi cho công ty chứng khoán, nếu không thì công ty chứng
khoán có quyền sở hữu số chứng khoán đã mua.
Giao dịch ký quỹ bao gồm:
-

Bán khống.

-

Mua ký quỹ.

+ Mua ký quỹ là việc mua chứng khoán mà nhà đầu tư chỉ cần có một số tiền nhất định
trong tổng số giá trị chứng khoán đã đặt mua, phần còn lại sẽ do công ty môi giới cho vay.
Số chứng khoán mua trở thành vật thế chấp cho khoản vay. Sau đó, khi nhà đầu tư bán
chứng khoán, công ty môi giới sẽ thực hiện lệnh bán và thu về phần vốn cho vay, bao gồm
cả vốn gốc và lãi.
1.1.2/. Đặc điểm mua ký quỹ chứng khoán
- Khách hàng phải mở tài khoản ký quỹ.
- Phải có tỷ lệ ký quỹ.


- Chứng khoán ký quỹ phải hợp lệ.
- Do nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp chuyên ngành thực hiện.
1

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

1


Nhóm 08
1.1.2/. Vai trò của mua ký quỹ chứng khoán.
1.1.2.1/. Đối với thị trường chứng khoán.
- Góp phần làm gia tăng tính thanh khoản, khuyến khích thêm nhiều NĐT và doanh nghiệp
tham gia thị trường, tiến gần hơn tới TTCK thế giới.
Giao dịch ký quỹ đang là nhu cầu chính đáng và bức thiết của đa số các nhà đầu tư, của
các công ty môi giới chứng khoán, ngân hàng thương mại và cũng là đòi hỏi chính đáng để
thị trường phát triển. Các công ty chứng khoán cũng có nguồn thu tốt hơn nhờ khối lượng
giao dịch tăng. Nhưng quan trọng hơn cả là tính thanh khoản của thi trường sẽ tăng đáng kể
và đó là cơ sở để thị trường sơ cấp phát triển.
-Đưa giá chứng khoán dần trở về với giá trị thực của nó.
Nhà đầu tư chỉ kinh doanh bằng tài khoản ký quỹ khi họ nhận thấy giá chứng khoán đó
đang thấp hơn giá trị thực của nó, và họ dự đoán rằng giá sẽ tăng trong tương lai. Theo qui
luật thị trường, cầu tăng đến mức đủ lớn hơn cung sẽ đẩy giá tăng và sẽ đến lúc bằng hoặc
cao hơn giá trị thực thì họ sẽ bán chứng khóan để hiện thực hóa lợi nhuận của mình. Như
vậy,nhờ việc mua ký quỹ, giá của chứng khoán sẽ dao động xung quanh giá trị thực của nó.
- Với sự phát triển của sản phẩm giao dịch ký quỹ sẽ làm tăng tính chuyên nghiệp hơn cho
nhà đầu tư, từ đó sẽ làm giảm đi những tác động xấu đối với thị trường chứng khoán do sự ít
hiểu biết, do “tâm lý đám đông” của nhà đầu tư gây nên.
1.1.2.2/. Đối với các nhà đầu tư.
Giúp NĐT có cơ hội để gia tăng lợi nhuận nhanh.

Việc sử dụng công cụ tài chính đòn bẩy đem lại lợi nhuận cao và nhanh cho nhà đầu tư. Việc
sử dụng số vốn ít, mà mang lại khả năng sinh lời cao đã kích thích nhà đầu tư sử dụng việc
mua ký quỹ do mong muốn kiếm lời nhanh.
1.1.2.3/. Đối với công ty chứng khoán
- Tăng thêm được sản phẩm mới cho công ty chứng khoán. Các công ty đưa ra tỷ lệ ký quỹ,
các loại chứng khoán ký quỹ, lãi suất hợp lý, có thể giúp công ty thu hút được khách hàng,
tăng tính cạnh tranh giữa các công ty.
- Tăng khối lượng giao dịch, kích thích NĐT giao dịch nhiều hơn. Làm tăng số hoa hồng, lãi
vay và phí giao dịch.
2

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

2


Nhóm 08
1.2 Các quy định có liên quan đến mua ký quỹ.
1.2.1/. Tỷ lệ ký quỹ
• Tỷ lệ ký quỹ: là tỷ lệ giữa tài sản thực có so với tổng tài sản trên tài khoản giao dịch ký quỹ
tính theo giá thị trường


Tỷ lệ ký quỹ ban đầu: là tỷ lệ giữa tài sản thực có (trước khi thực hiện giao dịch) so với giá
trị hợp đồng giao dịch (dự kiến thực hiện) tính theo giá thị trường
Nó là tỷ lệ % tối thiểu của giá trị giao dịch mà nhà đầu tư phải có trong tài khoản ký quỹ khi
thực hiện giao dịch mới. Tỷ lệ ký quỹ ban đầu thường được quy định bằng các cơ quan quản
lý và sự đặc thù của mỗi nhà môi giới (công ty môi giới).




Tỷ lệ ký quỹ duy trì: là tỷ lệ tối thiểu giữa tài sản thực có so với tổng tài sản trên tài khoản
giao dịch ký quỹ tính theo giá thị trường



UBCK đã ban hành Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán. Theo quy định này:
+ Tỷ lệ ký quỹ ban đầu do công ty chứng khoán quy định nhưng không được thấp
hơn 60%.
+ Tỷ lệ ký quỹ duy trì do công ty chứng khoán quy định nhưng không được thấp hơn
40%.
+ Căn cứ vào tình hình hoạt động thị trường chứng khoán, Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước có thể điều chỉnh tỷ lệ ký quỹ.
1.2.2/. Chứng khoán được giao dịch ký quỹ
Chứng khoán đủ điều kiện giao dịch ký quỹ bao gồm: cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư
niêm yết giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán, không bao gồm các chứng khoán đăng ký
niêm yết giao dịch trên hệ thống giao dịch UpCom và không thuộc các trường hợp sau:

1. Có thời gian niêm yết dưới 06 tháng tính đến thời điểm công bố danh sách; trường hợp cổ
phiếu chuyển sàn niêm yết thì thời gian niêm yết được tính là tổng thời gian niêm yết ở cả
hai Sở Giao dịch chứng khoán.
2. Bị đặt trong tình trạng bị tạm ngừng giao dịch, bị đưa vào diện cảnh báo, bị hủy niêm yết, bị
đưa vào diện kiểm soát.
3

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

3



Nhóm 08
3. Kết quả kinh doanh của tổ chức niêm yết chứng khoán là có lỗ căn cứ trên báo cáo tài chính
gần nhất đã kiểm toán hoặc có ý kiến soát xét của tổ chức kiểm toán (tùy trường hợp nào gần
nhất thời điểm xem xét); Trường hợp tổ chức niêm yết là quỹ đầu tư đại chúng, có tối thiểu
một tháng có giá trị tài sản ròng tính trên một đơn vị chứng chỉ quỹ nhỏ hơn mệnh giá căn
cứ trên báo cáo thay đổi giá trị tài sản ròng hàng tháng xét trong 03 tháng liên tiếp tính đến
thời điểm được lựa chọn để giao dịch ký quỹ.
Công ty chứng khoán không được cho khách hàng vay tiền để thực hiện giao dịch ký
quỹ:
a) Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư do chính công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành
trong vòng sáu (06) tháng tính từ khi hoàn tất đợt phát hành.
b) Đối với cổ phiếu của công ty niêm yết sở hữu từ 50% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng
khoán và đối với cổ phiếu của công ty niêm yết do công ty chứng khoán sở hữu từ 50% trở
lên vốn điều lệ.
c) Đối với cổ phiếu của chính công ty chứng khoán phát hành.
d) Khi khách hàng không bảo đảm tỷ lệ ký quỹ theo quy định tại Hợp đồng mở tài khoản giao
dịch ký quỹ và các quy định tại Quy chế này.
Trường hợp chứng khoán không còn nằm trong danh sách chứng khoán được phép giao dịch
ký quỹ, công ty chứng khoán không được thực hiện cho vay mới đối với các chứng khoán
này và không được tính chứng khoán này làm tài sản đảm bảo trên tài khoản giao dịch ký
quỹ cho các khoản vay mới.
Theo các quy định trên, qua thống kê (tại ngày 1/6/2011) cho thấy có 329 mã chứng
khoán đủ điều kiện giao dịch ký quỹ. Tổng giá trị vốn hóa tối đa của số cổ phiếu được phép
giao dịch ký quỹ là gần 124.000 tỷ đồng, với tỷ lệ cho vay khoảng 30%, giá trị giao dịch
theo dự kiến của UBCKNN thì tổng số tiền mà các CTCK có thể cung cấp cho thị trường là
31.000 tỷ đồng ( con số này có thể thay đổi theo giá chứng khoán)
1.2.3/. Điều kiện công ty chứng khoán được thực hiện mua ký quỹ.
CTCK thực hiện mua ký quỹ phải thỏa mãn các điều kiện quy định về giao dịch ký
quỹ sau:


4

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

4


Nhóm 08
1. Được cấp phép thành lập và hoạt động theo pháp luật chứng khoán Việt Nam; được cấp phép

hoạt động nghiệp vụ môi giới chứng khoán; là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán và
Trung tâm Lưu ký chứng khoán;
2. Không có lỗ lũy kế lớn hơn hoặc bằng 50% vốn điều lệ (tính theo báo cáo tài chính có kiểm

toán gần nhất nhưng không quá 06 tháng đến thời điểm nộp báo cáo thực hiện giao dịch ký
quỹ);
3. Tỷ lệ Tổng nợ/ VCSH không vượt quá 6 lần.
4. Tỷ lệ vốn khả dụng theo quy định tại Thông tư số 226/2010/TT-BTC ngày 31/12/2010 của

Bộ Tài chính là lớn hơn 150% trong vòng ba (03) tháng gần nhất tính đến thời điểm nộp báo
cáo thực hiện giao dịch ký quỹ;
5. Có hệ thống giao dịch phục vụ giao dịch ký quỹ, giám sát tài khoản giao dịch ký quỹ; quy

trình nghiệp vụ và quy trình quản lý rủi ro cho nghiệp vụ giao dịch ký quỹ.
6. Có tối thiểu 2 nhân viên có Chứng chỉ hành nghề chứng khoán để thực hiện hoạt động giao

dịch ký quỹ.
1.2.4/. Những quy định pháp lý giao dịch mua ký quỹ ở Việt Nam.
Một số những thông tư, quyết định hướng dẫn về việc thực hiện quy chế tổ chức hoạt động
của CTCK nói chung và hoạt động giao dịch ký quỹ nói riêng như:

- Thông tư số 74/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về giao dịch chứng khoán.
-Quyết định Số 637/QĐ-UBCK ngày 30.8.2011 - Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ
chứng khoán
- Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 về việc ban hành Quy chế tổ chức và
hoạt động CTCK.

5

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

5


Nhóm 08
PHẦN 2: THỰC TRẠNG VÀ NHU CẦU PHÁT TRIỂN GD MUA KQ
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. Thực trạng hoạt động mua ký quỹ của các CTCK và NĐT ở Việt
Nam hiện nay
2.1.1/ Giai đoạn 2006 – 2007
Thời kỳ “hoàng kim” của cho vay đầu tư chứng khoán trong các năm 2006, 2007 có
những đặc điểm cơ bản :


Hầu như tất cả các CTCK, các NĐT đều đi vay tiền ngân hàng để thực hiện phục vụ cho
việc đầu tư , kinh doanh chứng khoán. Các CTCK, ngoài việc dành khoản tín dụng lớn cho
NĐT,còn dùng 1 khoản tiền vay đáng kể để hoạt động tự doanh.



Hoạt động tín dụng đầu tư chứng khoán phát triển ở nhiều thị trường ( thị trường OTC, thị

trường giao dịch tập trung và thị truờng đấu giá cổ phần các doanh nghiệp nhà nước cổ phần
hoá).



Sử dụng đòn bẩy tài chính đã làm cho nhiều NĐT và một số công ty chứng khoán liên tục
gặt hái được lợi nhuận không ngừng, nhất là trong các năm từ 2005-2007.
Khi thị truờng bắt đầu lao dốc, những đối tượng nhà đầu tư đã từng có kinh nghiệm nhanh
chóng cơ cấu lại danh mục đầu tư và cơ cấu nguồn vốn, tích cực thanh lý cổ phiếu để trả nợ
ngân hàng thì bị ảnh huởng không nhiều. Nhiều nhà đầu tư không tỉnh táo, không tích cực
tất toán các khoản nợ, thậm chí còn gia tăng các khoản nợ khi TTCK tụt dốc thì tài sản của
họ cũng nhanh chóng bị bốc hơi, một số nhà đầu tư mới chưa có kinh nghiệm đã lâm vào
hoàn cảnh tiền bán chứng khoán không đủ trả ngân hàng đã thất bại trong đầu tư vào CK.
2.1.2/ Giai đoạn 2008 – nửa đầu 2009.
- Hoạt động cho vay chứng khoán ở nước ta nhanh chóng bị ngừng trệ từ tháng 9/2008 do
bắt đầu chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Sau quý 1/2009, TTCK đã xuống ở mức thấp và bắt đầu có dấu hiệu phục hồi đi lên thì hoạt
động cho vay đầu tư chứng khoán cũng khởi động trở lại, tuy nhiên đã có nhiều đặc điểm
khác biệt căn bản so với thời kỳ 2006-2007:



Tất cả các tổ chức đầu tư chứng khoán trong nước không đi vay tiền để đầu tư
chứng khoán.
6

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

6



Nhóm 08


Hầu như các công ty chứng khoán đã cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư theo hướng dành
một tỷ trọng vốn đáng kể đầu tư vào trái phiếu hay dùng tiền mặt để chi tiêu hoạt động hay
phục vụ hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán dưới nhiều hình thức, chỉ dành một khoản
tiền tự có phục vụ cho công tác đầu tư tự doanh ngắn hạn và dài hạn.



Các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty chứng khoán đã có kinh nghiệm xương máu
nên nhìn chung đều tính toán tăng giá trị tài sản cầm cố, lựa chọn danh mục cổ phiếu hay
thời hạn cho vay.....
- Tuy nhiên do sự cạnh tranh về khách hàng, một số công ty chứng khoán có sự cạnh tranh
không lành mạnh về hạn mức cho vay.
2.1.3/ Giai đoạn nửa cuối 2009 – 2010.
-TTCK tăng nóng đi cùng với “ dòng tiền nóng” tăng lên, trước tình hình đó, UBCKNN đã
có văn bản nhắc nhở các công ty chứng khoán phải thực hiện đúng pháp luật hiện hành. Vì
vậy, TTCK đã có sự điều chỉnh và phân hoá: NĐT cơ cấu lại nguồn tiền đầu tư, giảm đáng
kể lượng tiền đi vay, không tiếp tục vay mượn nữa.
-UBCKNN vẫn chưa cho phép thực hiện GD mua ký quỹ mặc dù GDKQ không còn xa lạ
với NĐT.
Trong giai đoạn 2009 -2010, giao dịch mua ký quỹ không còn xa lạ với nhà đầu tư dù về mặt
nguyên tắc UBCKNN vẫn chưa cho phép thực hiện.
+ Qua tìm hiểu ,cho thấy sự tăng trưởng của tỷ lệ doanh thu khác/tổng doanh thu,
doanh thu khác phần lớn có nguồn gốc từ các thu nhập như lãi các hợp đồng ký quỹ, ứng
trước tiền bán chứng khoán, ủy thác.
+ Thực tế trên giấy tờ, dịch vụ mua ký quỹ được thể hiện như một dịch vụ tư vấn đầu
tư, hợp tác giữa hai bên CTCK và NĐT. Tuy nhiên về bản chất, CTCK đang cung cấp tín

dụng cho nhà đầu tư đòn bẩy tài chính và được hưởng lãi suất.
-Chưa có một khung pháp lý hoàn thiện:
Bên cạnh lợi nhuận ban đầu thu được từ hoạt động giao dịch ký quỹ, nhiều CTCK đã gặp
phải những thất bại do chưa có một khung pháp lý hoàn thiện dẫn đến những mâu thuẫn
pháp lý với nhà đầu tư. Vào thời điểm này, hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, UBCKNN
chưa cho phép thực hiện giao dịch ký quỹ, chưa có những quy định cụ thể, rõ ràng về vấn đề
7

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

7


Nhóm 08
này( chưa có thông tư 74, quyết định 637…), như vậy giữa CTCK và nhà đầu tư còn có
nhiều vấn đề nảy sinh mâu thuẫn, không đồng nhất, dẫn đến rủi ro. Đồng thời, việc cho
phép nhà đầu tư ký quỹ với một khối lượng tiền lớn mà không có hoạt động quản trị rủi ro
đã dẫn đến sự thua lỗ nặng nề cho các bên tham gia.
Ví dụ: vụ việc về giao dịch cổ phiếu của CTCP nhựa An Phát (AAA) niêm yết trên
HNX. “Cổ phiếu AAA đã tăng mạnh từ mức giá 47.000 VND/CP ngày 19/8/2010 lên mức
cao nhất là 91.600 VND/CP (bình quân) ngày 16/09/2010 với thanh khoản tốt, trong bối
cảnh TTCK chỉ dao động rất hẹp. Khoảng 4,4 triệu CP được giao dịch trong khoảng giá
trên 90.000 VND. Tuy nhiên, sau 5 ngày giao dịch, giá AAA đã giảm về mức 63.400 VND
(bình quân) tính đến hết ngày 21/09/2010, với khối lượng đặt mua khiêm tốn và dư bán lên
tới hàng triệu cổ phiếu”. Có nhiều giả thiết giải thích cho hiện tượng bất thường trong giao
dịch cổ phiếu AAA, nhưng có một nhận định hợp lý cho rằng đã có sự làm giá cổ phiếu này
của một nhóm nhà đầu tư. Lợi dụng việc được ưu đãi trong hoạt động ký quỹ tại một số
CTCK, nhóm nhà đầu tư này đã liên kết với nhau thực hiện việc “làm giá” cổ phiếu AAA,
sau đó sử dụng vốn ký quỹ từ các CTCK để mua ở giá cao. Sau cùng, sau khi các nhà đầu tư
đã “cao chạy xa bay”, các CTCK đã phải lĩnh hậu quả từ việc cho thực hiện ký quỹ với một

tỷ lệ lớn.
- Các khoản vay ký quỹ tại các CTCK tạo áp lực nặng nề đối với TTCK:
Khi thị trường đang đi xuống như trong khoảng thời gian nửa cuối năm 2009- 2010, để đảm
bảo thanh khoản, các CTCK phải bán chứng khoán bất chấp việc giá cổ phiếu và khối lượng
giao dịch xuống rất thấp. Đối với các nhà đầu tư, do thị trường giảm sâu, cùng với lãi suất
đối với lĩnh vực phi sản xuất tăng lên sẽ khiến nhiều NĐT bán CK ra để trả nợ gốc và lãi cho
các NHTM. Vì không có dòng tiền mới vào thị trường nên bất chấp giá đã giảm mạnh, khối
lượng giao dịch vẫn ở mức rất thấp. Vấn đề này đã khiến cho rất nhiều CTCK gặp khó khăn.
2.1.4/ Giai đoạn năm 2011.
- Giao Dịch mua ký quỹ có độ rủi ro cao.
-+Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô và thị trường Việt Nam thời gian này, hình thức giao dịch
mua ký quỹ có độ rủi ro cao, càng sử dụng giao dịch mua ký quỹ nhiều thì số tiền thua lỗ
càng nhanh.
8

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

8


Nhóm 08
Do chưa có quy định cụ thể, nên nhiều khoản vay không được thể hiện trên sổ sách kế toán
như bản chất của nó, mà nằm ở khoản phải thu hay tài khoản tự doanh tùy thuộc cách ghi
nhận của CTCK. CTCK không thể thu hồi lại khoản hỗ trợ tài chính do đó phải tiến hành
khoanh nợ cho NĐT. Nhiều công ty không thể xử lý vì nếu xử lý sẽ phải hạch toán tổn thất
này thì kết quả kinh doanh sẽ xấu đi, chưa kể phải xử lý trách nhiệm người bảo lãnh, của
nhân viên môi giới, điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong các CTCK, gây khó khăn cho
việc quản lý của các cơ quan quản lý.
- Khoản phải thu của các công ty chứng khoán trong báo cáo tài chính quý 1/2011 vẫn
phình to và lớn nhất nằm trong mục phải thu đối với nghiệp vụ hỗ trợ đòn bẩy. Đặc

biệt rất khó xác định.
Trong báo cáo tài chính của các công ty chứng khoán, một mục đáng được lưu ý là
khoản phải thu. Dĩ nhiên mục này bao gồm rất nhiều tiểu mục, nhưng phần lớn báo cáo tài
chính quý 1/2011 cho thấy khoản phải thu lớn nhất nằm trong mục phải thu đối với các
nghiệp vụ hợp tác đầu tư – nói ngắn gọn là hỗ trợ đòn bẩy. Cũng có một lượng tiền khá lớn
được ghi vào mục “Phải thu khác”. Đa số thuyết minh báo cáo tài chính của nhiều CTCK
không giải thích rõ các khoản phải thu để có thể hiểu hết được bức tranh toàn cảnh về khả
năng sử dụng đòn bẩy của khách hàng như thế nào.
Theo thống kê, chỉ một số ít công ty ghi rõ khoản phải thu liên quan đến hoạt động
hợp tác kinh doanh với khách hàng. Đa số còn lại ghi vào khoản chung chung khiến việc xác
định chính xác khoản phải thu liên quan đến dịch vụ đòn bẩy rất khó khăn. Chẳng hạn Công
ty Chứng khoán HSC có khoản phải thu tổng cộng là 731,7 tỷ đồng, trong đó khoản phải thu
từ hoạt động giao dịch chứng khoán là 653,92 tỷ đồng. Khoản phải thu này tách bạch thành
6 khoản nhỏ, trong đó lớn nhất là phải thu khách hàng về nghiệp vụ hợp tác đầu tư với
603,65 tỷ đồng.

Bảng : Thống kê các khoản phải thu của một số công ty chứng khoán Quý I/2011
Đơn vị tính: tỷ đồng
9

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

9


Nhóm 08

CTCK

Tổng số Phân bổ

phải thu lớn nhất

Thuyết minh

Kim Long
Phải thu của khác hang
55,6
23,72
Vndirect
Bảo lãnh thanh toán tiền mua C.khoán của KH
919,5
734,6
TP.HCM
731,7
603,65 Phải thu KH về nghiệp vụ hợp tác đầu tư
NH nông nghiệp 7001,45 5895,17 Phải thu khác
Bảo Việt
150,37 148,8
Phải thu khác
Sài Gòn
625
443,46 Phải thu KH về nghiệp vụ hợp tác đầu tư
Sacombank
511,2
439,06 Phải thu khác
Hải Phòng
155,64 153,58 Phải thu khác
Phương Đông
295,13 288,69 Phải thu khác
Sài Gòn – Hà Nội 590,9

475,79 Phải thu các hợp đồng hợp tác KD, mua bán CK
SME
721,1
525,02 Phải thu khác
Tràng An
325,7
319,07, Phải thu khách hàng về giao dịch chứng khoán
Rồng Việt
850,85 833,17 Phải thu KH về nghiệp vụ hợp tác đầu tư
VIG
375,42 327,37 Phải thu hoạt động hợp tác KD với nhà đầu tư
Tổng
11.202,15
(Trích lập dự phòng phải thu khó đòi: TLDPPTKĐ) Nguồn: VnEconomy

TLDP
PTKĐ
0
14,81
0
326,35
11,12
0
0
0
0
0
0
0
1,99

0

Không phải lúc nào bảng cân đối kế toán và thuyết minh báo cáo tài chính của công
ty chứng khoán cũng ghi rõ các khoản mục một cách cụ thể. CTCK Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn - có khoản phải thu khổng lồ với 7.001,45 tỷ đồng. Tuy nhiên thuyết
minh báo cáo tài chính khá mù mờ, không giải thích rõ các khoản thu này. Khoản phải thu
của khách hàng đến cuối quý 1/2011 được ghi nhận là 1.397,87 tỷ đồng. Khoản phải thu
khác là 5.895, 17 tỷ đồng. Trong đó, khoản phải thu khác này đang được trích lập dựng
phòng 326,45 tỷ đồng
Thông qua báo cáo tài chính quý 1/2011 ở trên cho thấy rất hiếm CTCK thực hiện trích
lập dự phòng đối với các khoản thu khó đòi. Trong 14 công ty nói trên, chỉ có 4 công ty có
trích lập dự phòng: CTCK VN Direct trích lập 14,81 tỷ đồng, Ngân hàng Nông nghiệp trích
lập 326,35 tỷ đồng, CTCK Bảo Việt trích lập 11,12 tỷ đồng, CTCK Rồng Việt trích lập 1,99
tỷ đồng. Việc trích lập dự phòng hiện vẫn là khoản không rõ ràng đối với các dịch vụ đòn
bẩy. Có thể báo cáo tài chính quý 1 nhiều công ty không muốn thực hiện trích lập dự phòng,
hoặc các hợp đồng trong quý này chưa rơi vào ngưỡng “nguy hiểm”. Việc trích lập dự phòng
dĩ nhiên sẽ làm báo cáo tài chính quý 1 xấu đi nhiều. Mặt khác, việc xác định các khoản hỗ
10

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

10


Nhóm 08
trợ rơi vào tình trạng xấu có thể được nhà đầu tư bù đắp, hoặc đơn giản chỉ là “cầu” cho thị
trường sẽ tốt hơn thời gian tới.
- UBCKNN đã ban hành các thông tư, quyết định liên quan đến việc mua lý quỹ và cấp
phép cho một số CTCK được phép GD mua ký quỹ:



Trong năm 2011, đã ban hành các thông tư, quyết định liên quan đến việc mua lý quỹ
như : thông tư 74/2011/TT-BTC, quyết định 637/QĐ-UBCK hướng dẫn về giao dịch
ký quỹ CK.



Tính đến tháng 12/2011, UBCKNN đã cấp phép cho 37 CTCK được phép thực hiện
giao dịch ký quỹ.

2.1.5/ Giai đoạn 2012
- Hơn 50% CTCK (51 công ty chứng khoán) được phép cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ.
Hoạt động này đem lại lợi nhuận lớn.

Thống kê của Đầu tư Chứng khoán tại 27 CTCK đã công bố báo cáo tài chính quý
II/2012 cho thấy, doanh thu từ hoạt động giao dịch ký quỹ được ghi nhận tại khoản mục
doanh thu khác. Theo đó, tổng doanh thu khác này đạt 692 tỷ đồng, chiếm 42% tổng doanh
thu của 27 CTCK này. Cá biệt, khá nhiều trường hợp có doanh thu khác chiếm 60 - 80%
doanh thu.
11

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

11


Nhóm 08

- Việc cung cấp thông tin của các CTCK còn nhiều bất cập:
Nhiều ý kiến cho rằng, việc công bố danh sách ký quỹ và tỷ lệ ký quỹ là một chuyện, còn

việc có thực hiện đúng hay không là một chuyện khác. Một số NĐT cho biết, đối với những
khách hàng VIP, CTCK sẽ cung cấp một bản danh sách khác, với tỷ lệ cho vay hấp dẫn hơn
nhiều. Thậm chí, tùy từng thời điểm mà CTCK tập trung vào một số mã chứng khoán nhất
định, khách hàng có thể được CTCK cho vay mua vào với tỷ lệ lớn.

12

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

12


Nhóm 08
2.2. Nhu cầu cần thiết phải phát triển mua ký quỹ.
- Muốn tồn tại, các CTCK phải phục vụ NĐT. Do chưa có quy định nên thời gian qua để
phục vụ nhu cầu của các nhà đầu tư, không ít CTCK phải lách luật. Khi thị trường đặt ra yêu
cầu mới, dù biết là vượt rào, nhiều thành viên, nhất là các nhà cung cấp dịch vụ trung gian
như các CTCK không thể không làm, nếu muốn tồn tại được.
- Giao dịch ký quỹ là giải pháp tạo tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán.
Nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy tài chính trong giao dịch ký quỹ là đòn bẩy có nguyên tắc, được
kiểm soát và thừa nhận của pháp luật. Với xu thế của thị trường tăng trưởng, xác suất cao để
nhà đầu tư thành công trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính. Tính thanh khoản là vấn đề rất
quan trọng đối với TTCK thứ cấp. Để nâng cao tính thanh khoản trên thị trường, việc sử
dụng đòn bẩy tài chính là nhu cầu chính đáng của NĐT để có thể tạo ra dòng chảy liên tục
của đồng vốn đầu tư.
- Các công ty chứng khoán cũng có nguồn thu tốt hơn nhờ khối lượng giao dịch tăng
vọt.Như vậy để tăng nguồn thu khác cho CTCK, nên phát triển giao dịch mua ký quỹ.

2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển giao dịch ký quỹ.
2.3.1/. Những thuận lợi trong việc phát triển hoạt động giao dịch ký quỹ.

Với việc Thông tư 74/2011/TT-BTC về giao dịch chứng khoán có hiệu lực thi hành từ
1/8/2011, thì áp dụng các tỷ lệ ký quỹ theo Quy chế áp dụng từ ngày 1/8 sẽ không gây ra
nguy cơ giải chấp với phần lớn khoản đã ký quỹ, đồng thời làm giảm rủi ro cho các bên
tham gia, hạn chế tác động hỗ trợ thanh khoản với yêu cầu cao hơn về tài sản đảm bảo.
- Theo Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ của UBCK thì tỷ lệ ký quỹ ban đầu là 60%:
+Làm giảm rủi ro cho bên cho vay.
+ Sức mua giảm, làm tăng mức an toàn cho CTCK.
+ Giảm mức độ đầu cơ của NĐT.
Tỷ lệ ký quỹ ban đầu đối với các CTCK phổ biến ở mức 50%, tức là giá trị khoản vay bằng
giá trị vốn của NĐT bỏ ra. Tỷ lệ này càng thấp thì khả năng tăng sức mua tối đa của NĐT
càng cao và nhờ đó, tính thanh khoản cũng có cơ hội tăng lên nhiều. Tuy nhiên, điều đó cũng
cho thấy rủi ro cho CTCK càng lớn, vì giá trị khoản vay không được đảm bảo bằng giá trị
vốn bỏ ra tương ứng của người vay. Theo Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ của UBCK
13

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

13


Nhóm 08
thì tỷ lệ ký quỹ ban đầu là 60%, nghĩa là NĐT được phép vay tối đa 4 phần khi đã có 6 phần
để đầu tư chứng khoán. Rủi ro cho bên cho vay giảm xuống và đồng thời sức mua của người
vay cũng giảm làm tăng mức an toàn cho CTCK và giảm mức độ đầu cơ của NĐT so với các
dịch vụ hỗ trợ tài chính hiện nay.
-Theo Quy chế thì tỷ lệ ký quỹ duy trì không được thấp hơn 40%: làm giảm bớt áp lực bị
bán giải chấp CK đối với phần lớn các khoản ký quỹ của NĐT.
Tỷ lệ ký quỹ duy trì không được thấp hơn 40%, nghĩa là tài sản thực có không được thấp
hơn 40% giá trị tổng tài sản theo giá thị trường, nếu thấp hơn thì NĐT phải bổ sung tài sản,
hoặc CTCK được quyền bán giải chấp để đưa về tỷ lệ ký quỹ duy trì. Với các dịch vụ hỗ trợ

tài chính kiểu ký quỹ thông thường, tỷ lệ ký quỹ duy trì của các CTCK dao động trong
khoảng 25 - 40%. Với tỷ lệ ký quỹ ban đầu phổ biến ở mức 50%, tỷ lệ duy trì trung bình của
các CTCK hiện nay thấp hơn và ở quanh mức 35%. Như vậy, nếu áp dụng theo Quy chế thì
với các khoản vay ký quỹ đã và đang thực hiện, chỉ các khoản vay ký quỹ có tỷ lệ ký quỹ
ban đầu thấp hơn 50% (được vay nhiều hơn giá trị vốn) có nguy cơ bị giải chấp nếu tỷ lệ ký
quỹ tính theo giá thị trường thấp hơn 40%.
Đối với các khoản vay ký quỹ mới, áp lực bị bán giải chấp đối với NĐT giảm bớt
nhiều. Nếu tuân theo Quy chế thì do giá trị vốn của NĐT bỏ ra ban đầu lớn (60%) khi áp
dụng tỷ lệ ký quỹ duy trì là 40% thì giá trị tài sản giảm đến 34% mới bị giải chấp (có 60, vay
40, giá trị tổng tài sản giảm còn 66 thì giải chấp). So với mức hiện nay đang áp dụng phổ
biến với tỷ lệ ký quỹ ban đầu 50% và tỷ lệ ký quỹ duy trì 35% thì giá trị tài sản giảm 23% đã
thực hiện giải chấp (có 50, vay 50, giá trị tổng tài sản giảm còn 77 thì giải chấp) và tỷ lệ này
là 20% đối với tỷ lệ ký quỹ ban đầu là 40% và tỷ lệ ký quỹ duy trì 25% (có 40, vay 60, giá
trị tài sản giảm còn 80 thì giải chấp).
=>Như vậy, với điều kiện các dạng thức khác nhau của giao dịch ký quỹ hiện tại trên TTCK,
việc áp dụng các tỷ lệ ký quỹ theo Quy chế áp dụng từ ngày 1/8 sẽ không gây ra nguy cơ
giải chấp với phần lớn khoản đã ký quỹ, nhưng có nguy cơ với các khoản ký quỹ có tỷ lệ ký
quỹ thấp hơn và giá trị tài sản đã giảm hơn 8%. Đối với các khoản ký quỹ mới sau ngày 1/8,
tác động mà NĐT cảm nhận rõ là sức mua khi dùng dịch vụ ký quỹ sẽ giảm xuống, đồng

14

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

14


Nhóm 08
thời áp lực giải chấp chỉ xảy ra khi mức độ giảm giá trị tài sản lớn hơn so với thời gian trước
đây.


2.3.2/ Những khó khăn trong việc phát triển hoạt động giao dịch mua ký quỹ.
* Về khía cạnh pháp lý.
- Khung pháp lý chưa hoàn thiện,chưa quy định rõ ràng, Luật Chứng khoán và các văn bản
hướng dẫn thi hành hiện chỉ đề cập một cách rất chung chung vì vậy, các CTCK thường lách
luật, gây ra nhiều rủi ro, hoặc dẫn đến những mâu thuẫn pháp lý giữa CTCK và NĐT.
UBCKNN khó kiểm soát được các hoạt động giao dịch mua ký quỹ:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm của TTCK Việt Nam, trong đó nguyên
nhân hay được nhắc đến là sự thiếu kiểm soát của hoạt động giao dịch ký quỹ trên thị
trường. Tuy nhiên, pháp luật chứng khoán của Việt Nam hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể
về việc cho phép CTCK triển khai các dịch vụ về giao dịch ký quỹ.
Do chưa có quy định nên, thời gian qua, để phục vụ nhu cầu của các NĐT, không ít
CTCK phải lách luật. Việc làm này có thể gây ra nhiều rủi ro,như rủi ro thanh toán. Hoặc
dẫn đến những mâu thuẫn pháp lý giữa CTCK và NĐT (hiện tượng làm giá cổ phiếu).Vì
thế, tốt hơn cả là cần chính thức hóa các giao dịch này, để giao dịch ký quỹ có một khung
pháp lý. Như vậy, vừa an toàn cho CTCK, vừa đỡ rủi ro cho thị trường và tính thanh
khoản qua đó cũng sẽ tăng. Đồng thời, UBCKNN dễ dàng kiểm soát được các hoạt động
giao dịch mua ký quỹ.
* Về phía các nhà đầu tư.
+ Gặp nhiều rủi ro, điển hình là rủi ro tín dụng, do không trả được các khoản vay.
Xét về lĩnh vực tín dụng, ký quỹ có rủi ro thất thoát nếu người đi vay không trả được
nợ. Chính vì vậy, nhà đầu tư phải biết được những rủi ro tiềm ẩn trong vay mượn. Khi sử
dụng GDKQ nhà đầu tư đã tăng yếu tố rủi ro cho tài khoản của mình. Rủi ro của dịch vụ này
ở TTCK Việt Nam càng cao do thiếu những công cụ bảo vệ tài khoản nhà đầu tư như lệnh tự
động dừng lỗ (stop loss), thị trường có thể mất thanh khoản, và cổ phiếu giao dịch T+3…
15

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

15



Nhóm 08
Rõ ràng là tài khoản ký quỹ là rủi ro và không dành cho tất cả các nhà đầu tư. Lực
đòn bẩy là con dao hai lưỡi, khuếch đại lỗ và lãi ở mức bằng nhau. Thực tế, một trong những
định nghĩa về rủi ro chính là mức dao động của giá. Do lực đòn bẩy khuyếch đại sự biến
động, theo định nghĩa, nó cũng tăng rủi ro của khoản mục đầu tư của bạn.

+Khi thực hiện giao dịch mua ký quỹ, nhà đầu tư phải mở thêm một tài khoản cho
giao dịch ký quỹ và phải đóng một khoản tiền tối thiểu là 10 triệu đồng (Theo Quy chế
hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán). Như vậy, sẽ có nhiều nhà đầu tư không mặn mà
với việc mở tài khoản riêng biệt cho giao dịch ký quỹ.
* Về phía các công ty chứng khoán Việt Nam.
+Gặp nhiều khó khăn, chịu rủi ro lớn, do lách luật, hay do mập mờ về các khoản phải
thu liên quan đến dịch vụ đòn bẩy. Rủi ro khi NĐT không nộp thêm tài khoản ký quỹ...
Trong nhiều năm, giao dịch ký quỹ không còn xa lạ đối với NĐT, và CTCK,
các CTCK lách luật gọi đây là những hợp đồng hợp tác, thực chất là cách gọi khác của
GDKQ khi GDKQ chưa được UBCKNN cho phép. Những khoản này đóng góp không nhỏ
vào tỷ trọng doanh thu của các CTCK, nằm trong mục nợ phải thu, tiểu mục phải thu đối với
các nghiệp vụ hợp tác đầu tư, hay một số khác được ghi trong khoản phải thu khác. Đa số
được ghi chung chung khiến việc xác định chính xác các khoản phải thu liên quan đến dịch
vụ đòn bẩy hết sức khó khăn. Như vậy, nhũng khản vay liên quan đến dịch vụ đòn bẩy, khi
xảy ra thất thoát, là rất khó hạch toán, không thể thu hồi được.
Các CTCK còn không có khả năng thu hồi lại các khoản tín dụng đã cho vay trong một số
trường hợp như: việc người đi vay không có khả năng trả được nợ. Thậm chí, khi thị trường
đi xuống, nhà đầu tư sẽ dễ dàng bỏ luôn cổ phiếu để không phải nộp thêm khoản ký quỹ,
CTCK sẽ chịu một khoản thất thoát lớn.
+ Cơ sở vật chất, nguồn lực, công nghệ chưa đầy đủ:
16


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

16


Nhóm 08
Vấn đề về công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu được phép GDKQ cũng là một trở ngại
đối với hầu hết CTCK hiện nay. Lẽ tất nhiên, không phải CTCK nào cũng có đủ cơ sở vật
chất và nguồn lực để đầu tư hiện đại hóa công nghệ hiện đại.
+ Mặc khác,còn nhiều hạn chế phát sinh khi tiến hành hoạt động GDKQ.

PHẦN 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT
TRIỂN NGHIỆP VỤ GIAO DỊCH MUA KÝ QUỸ CHỨNG KHOÁN
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.
3.1/.Đề
xuất
đối
với
ủy
ban
chứng
khoán
nhà
nước
3.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý.
-Pháp luật bảo vệ nhà đầu tư trong quan hệ mở tài khoản giữa KH và công ty chứng khoán:
+ Quy định về tỉ lệ ký quỹ.
+Mở 2 loại tài khoản chứng khoán độc lập: TK giao dịch CK thông thường và TK giao dịch
ký quỹ.
+ Nội dung cơ bản của hợp đồng mở tài khoản cần được quy định thành một điều khoản

trong quy chế.
Vời những quy định như hiện nay, những nội dung cơ bản của hợp đồng mở tài khoản chỉ
mang tính khuyến nghị mà không mang tính bắt buộc. Như vậy, các công ty CK có thể thiết
kế hợp đồng không theo như những khuyến nghị trên, như vậy sẽ khó đảm bảo đc quyền lợi
của NĐT.
Vì vậy khuyến nghị đưa những điều khoản trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch CK này
thành một điều hay một điều khoản cụ thể trong quy chế điều chỉnh về hoạt động của
GDCK. Như vậy nội dung về quy định trong việc mở tài khoản giao dịch CK sẽ trở thành
một điều khoản cụ thể trong quy chế, mà k còn mang tính chất khuyến nghị hay phải trình
bày trong phụ lục nhằm nâng cao tính pháp lý của quy định. Đồng thời, đây là quy định bắt
buộc nên sẽ góp phàn bảo vệ được KH nếu nhà đầu tư không lập hợp đồng đúng quy định.
- Pháp luật bảo vệ nhà đầu tư trong quan hệ giữa KH với công ty Chứng Khoán trong quá
trình đặt lệnh.
+ Quy định rõ trách nhiệm của CTCK trong quá trình thực hiện lệnh mua và lệnh bán đối
với giao dịch của KH.
17

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

17


Nhóm 08
+ Vấn đề ủy quyền của chủ tài khoản.
-Bảo vệ

NĐT trong quan hệ giữa KH với CTCK trong việc quản lý tài khoản.

3.1.2. UBCK nhà nước có thể để cho NHNN quản lý nghiệp vụ giao dịch ký quỹ.
Ở VN, nghiệp vụ cho vay tiền để mua chứng khoán chưa được pháp luật thừa nhận nhưng

nghiệp vụ này đã được các CTCK triển khai, trên cơ sở đáp ứng các nhu cầu của NĐT. Việc
này được thực hiện bằng cách như sau: NĐT là người đi vay, các CTCK và các ngân hàng
phải ký một hợp đồng liên kết, liên doanh. Theo đó, ngân hàng là người trực tiếp cho vay
còn các CTCK là người quản lý hộ cho NĐT. Như vậy nếu xảy ra tranh chấp thì CTCK là
người chịu bất lợi.Như vậy, UBCK có thể đưa ra văn bản đề nghị NHNN cho phép các
CTCK được phép mở các tài khoản ký quỹ, để có thể chủ động hơn. Đồng thời, nên để chính
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý nghiệp vụ cho vay tiền để mua chứng khoán của
các CTCK. Vì, một mặt, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý toàn diện các dịch vụ tiền
tệ và tín dụng của mọi tổ chức, cá nhân; mặt khác, một khi đã cho phép các CTCK cho vay
mua chứng khoán, Ngân hàng Trung ương cũng có thể cho phép các CTCK được dùng các
chứng khoán có trên tài khoản để làm tài sản thế chấp vay tiền của các ngân hàng.

3.1.3. UBCK nhà nước nên để cho các CTCK tự quyết định danh mục chứng khoán
cho vay trên cơ sở thường xuyên gửi báo cáo cho UBCK nhà nước.
Công ty chứng khoán, nhà đầu tư và chứng khoán ký quỹ là ba thành phần trực tiếp
của giao dịch ký quỹ. Các cơ quan quản lý nhà nước chỉ nên đưa ra quy định những tiêu chí
cơ bản nhất, như chất lượng nghiệp vụ kinh doanh, công nghệ giao dịch, tỷ lệ ký quỹ ban
đầu, tỷ lệ ký quỹ xử lý, quyền hạn và nghĩa vụ của nhà đầu tư. Còn phần đánh giá khách
hàng, xếp hạng tín dụng khách hàng, xây dựng danh mục cổ phiếu được phép giao dịch ký
quỹ, tỉ lệ của từng loại cho vay sẽ do chính các công ty chứng khoán tự quyết định trên cơ sở
hợp đồng giao dịch ký quỹ và các quy định về tỷ lệ ký quỹ của UBCKNN.

3.1.4. UBCKNN cần tiếp tục phát triển lành mạnh thị trường.
-UBCKNN nên tăng cường giám sát CTCK triển khai giao dịch ký quỹ như yêu cầu CTCK
gửi hồ sơ báo cáo tình hình thực hiện giao dịch ký quỹ theo đúng quy định. Hoạt động giám
18

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

18



Nhóm 08
sát sẽ làm rõ các CTCK có nghiêm túc chấp hành chỉ đạo của UBCK về ngừng ký mới và tất
toán toàn bộ các hợp đồng hợp tác đầu tư hay không.
-UBCKNN cần chú trọng đến việc hoàn thiện khung pháp lý, chính sách phát triển thị
trường, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật sửa đổi, bổ sung….
-UBCKNN cần tiếp tục nâng cấp công nghệ và hoàn thiện các hệ thống giao dịch, giám sát
công bố thông tin trên cả 2Sở giao dịch, nhằm đẩy nhanh giao dịch và giảm thiểu các sai sót
trong quá trình nhập lệnh của các CTCK.
-Tăng cường tính minh bạch của thị trường: tăng cường việc công bố thông tin, cả thông tin
về doanh nghiệp, thị trường và các thông tin về điều hành chính sách nhằm giảm bớt các tin
đồn không có lợi; tăng cường công tác thống kê và công bố các số liệu thống kê, đặc biệt các
số liệu thống kê về tình hình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
-Bên cạnh đó UBCKNN cần phải kiểm tra thật kỹ trước khi quyết định chấp thuận cho một
doanh nghiệp niêm yết hoặc niêm yết bổ sung cổ phiếu ra công chúng nhằm tránh trường
hợp các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu tràn lan, sử dụng vốn sai mục đích, không đúng
với ngành nghề kinh doanh.

3.2/. Giải pháp đối với công ty chứng khoán
3.2.1/. Giải pháp quản trị rủi ro

Kế hoạch ngân sách cho hoạt động giao dịch ký quỹ
Bản chất giao dịch ký quỹ là hình thức cho vay mua chứng khoán, do đó sẽ là lợi thế
nếu các CTCK có quy mô vốn lớn. Nguồn vốn phân bổ cho hoạt động giao dịch ký quỹ trên
tổng vốn kinh doanh của CTCK cần phải được xây dựng phù hợp với kế hoạch kinh doanh
của công ty. Nguồn vốn này cần phải được đảm bảo trong suốt quá trình cung cấp dịch vụ
nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của công ty. Hoạt động kiểm soát của công ty sẽ xoay
xung quanh vấn đề mục tiêu lợi nhuận, thị phần cũng như kiểm soát rủi ro không thu hồi
được từ các khoản cho vay.



Giới hạn danh mục cho mua ký quỹ
19

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

19


Nhóm 08
Để đảm bảo rủi ro khi cung cấp giao dịch ký quỹ, CTCK cần phân loại danh mục cổ
phiếu và tỷ lệ ký quỹ theo từng danh mục, công bố danh sách cổ phiếu giao dịch ký quỹ tại
công ty. Danh sách cổ phiếu này do CTCK tự đánh giá, phân tích và chọn lọc nhằm đảm bảo
danh mục chứng khoán giao dịch ký quỹ có chất lượng và thanh khoản tốt. Tùy vào mức độ
đánh giá xếp loại, CTCK sẽ cung cấp tỷ lệ ký quỹ ban đầu và ký quỹ tối thiểu cho phù hợp.
CTCK nên yêu cầu ký quỹ cao hơn tỷ lệ do Sở giao dịch quy định
Công ty cần quy định hạn mức tín dụng tối đa mà một khách hàng có thể vay khi giao
dịch ký quỹ, hạn mức này có thể là giá trị cố định hoặc một tỷ lệ nhất định trên tổng nguồn
vốn cho hoạt động giao dịch ký quỹ của CTCK. Quy định này nhằm hạn chế rủi ro cho vay
quá nhiều vào một hoặc nhóm khách hàng, vì khi thị trường chuyển biến bất lợi, khách hàng
có thể không trả được khoản vay (giá chứng khoán giảm mạnh hoặc mất thanh khoản).
 Chuẩn hóa hồ sơ khách hàng liên quan đến hoạt động cấp tín dụng

- Khi cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ, CTCK cần chú trọng vào hồ sơ liên quan đến thông
tin khách hàng góp phần củng cố cơ sở thông tin.
-Cần có hồ sơ liên quan đến mở tài khoản giao ký quỹ.


Thực hiện đánh giá tín nhiệm và cấp hạn mức cho vay đối với khách hàng.

Đánh giá tín nhiệm và cấp hạn mức là bước quan trọng trong quá trình quản lý rủi ro
tín dụng. Trên cơ sở đánh giá tín nhiệm khách hàng, CTCK cấp cho khách hàng hạn mức
cho vay khi thực hiện giao dịch ký quỹ.
Mục đích của việc đánh giá khách hàng nhằm đánh giá khả năng đảm bảo thanh toán
của khách hàng và rủi ro trong việc cấp tín dụng cho khách hàng.



Thành lập Phòng kiểm soát tín dụng.
Vai trò của Phòng kiểm soát tín dụng nhằm đảm bảo: sử dụng vốn cho hoạt động
cung cấp giao dịch ký quỹ đạt hiệu quả cao nhất; thu hồi đầy đủ các khoản cho vay trong
quá trình cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ; khả năng thanh toán giao dịch mua bán giao
dịch ký quỹ; chất lượng dịch vụ trong quá trình cung cấp dịch vụ khách hàng; các chính sách
của công ty trong quá trình cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ được tuân thủ; kiểm soát các
rủi ro trong quá trình cung cấp dịch vụ nhằm giảm thiểu các mất mát xảy ra; tuân thủ quy
định của cơ quan quản lý nhà nước về giao dịch ký quỹ.
20

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

20


Nhóm 08
Phòng kiểm soát tín dụng được xem là không thể thiếu trong CTCK khi có hoạt động
cung cấp dịch vụ giao dịch ký quỹ.


Áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản trị rủi ro.
Hệ thống công nghệ thông tin là công cụ đắc lực trong công tác quản trị rủi ro. Để

quản trị rủi ro hiệu quả cần có các dữ liệu, thông tin phục vụ rủi ro, các công cụ phân tích,
lập báo cáo, kho dữ liệu về quản trị rủi ro. Các CTCK cần củng cố hệ thống giao dịch hiện
có, đưa hệ thống giao dịch tự động mới vào vận hành. Hiện đại hóa hệ thống giám sát thị
trường, xây dựng hệ thống giám sát tự động kết hợp với các hệ thống giao dịch, công bố
thông tin, lưu ký, thanh toán. Xây dựng các hệ thống công bố thông tin, tự động hóa, hệ
thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
3.2.2/. Tuân thủ các hạn mức cho vay giao dịch ký quỹ theo quy định của Quy chế
hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán
Để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh CTCK nên duy trì tổng dư nợ cho vay
giao dịch ký quỹ không được vượt quá 200% vốn chủ sở hữu của mình. Ngoải ra, tổng mức
cho vay giao dịch ký quỹ đối với một khách hàng không nên được vượt quá 3% vốn chủ sở
hữu của công ty. Tiếp theo là tổng dư nợ cho vay giao dịch ký quỹ đối với một loại chứng
khoán không được vượt quá 10% vốn chủ sở hữu của công ty chứng khoán; Cuối cùng là
tổng số chứng khoán cho vay giao dịch ký quỹ không được vượt quá 5% tổng số chứng
khoán niêm yết của một tổ chức niêm yết.
3.2.3/. Quản lý tài khoản ký quỹ
Để quản lý tài khoản ký quỹ một cách hiệu quả, công ty chứng khoán nên quản lý
tách biệt tiền, chứng khoán trên tài khoản giao dịch ký quỹ với tiền, chứng khoán trên tài
khoản giao dịch chứng khoán thông thường của khách hàng và tiền, chứng khoán của chính
công ty chứng khoán.
Công ty không nên sử dụng chứng khoán trên tài khoản ký quỹ của khách hàng để
làm tài sản thế chấp cho bất kỳ quan hệ nào ngoài quan hệ là tài sản thế chấp cho giao dịch
ký quỹ giữa công ty chứng khoán và khách hàng.

21

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

21



Nhóm 08
Bên cạnh đó, CTCK chỉ nên thực hiện các giao dịch liên quan đến chứng khoán thế
chấp theo chỉ định của khách hàng, ngoại trừ trường hợp phải bán chấp để theo chỉ định của
khách hàng, hay trường hợp phải bán chứng khoán thế chấp để thu hồi nợ vay.
Công ty chứng khoán nên lập sổ kế toán, hạch toán riêng từng tài khoản giao dịch ký
quỹ, danh mục tài sản trên tài khoản giao dịch ký quỹ, tỷ lệ ký quỹ cuối mỗi ngày giao dịch;
lưu trữ đủ hồ sơ, phản ánh chi tiết, chính xác các giao dịch trên từng tài khoản giao dịch ký
quỹ bao gồm các thông tin hàng ngày về danh mục tài sản ký quỹ, cầm cố, thế chấp trên tài
khoản, giá thị trường, tỷ lệ ký quỹ kèm theo các lệnh gọi ký quỹ bổ sung, phiếu lệnh giao
dịch ký quỹ.
Công ty chứng khoán phải bảo mật thông tin về tài khoản giao dịch ký quỹ của khách
hàng, không được phép cung cấp thông tin này cho bên thứ ba, ngoại trừ theo yêu cầu của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được sự đồng ý của khách hàng.
3.2.4/. Công bố thông tin
Công ty chứng khoán nên ghi chép đầy đủ, chính xác và lưu giữ các thông tin, số liệu
giao dịch mua bán trên tài khoản giao dịch ký quỹ của khách hàng tối thiểu trong vòng 5
năm.
Công ty nên có nghĩa vụ báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước, Sở Giao dịch chứng khoán về hoạt động giao dịch ký quỹ.
3.2.5/. Giải pháp đối với người môi giới chứng khoán
Thời gian trước đây, các nhân viên môi giới thường tư vấn cho khách hàng để chào
mời khách hàng sử dụng GDKQ càng nhiều càng tốt trong mức có thể của công ty chứng
khoán, nhằm mang lại lợi ích cho bản thân và công ty chứng khoán (phí giao dịch, hoa hồng
và lãi suất), rất ít môi giới phân tích rõ rủi ro cho nhà đầu tư. Chính vì vậy, có nhiều nhà đầu
tư không những mất trắng tài sản, mà còn gánh thêm nợ nần khi thị trường không thuận lợi.
Công ty chứng khoán thì rơi vào cảnh khó khăn với các chỉ tiêu an toàn tài chính, còn thiệt
hại của người môi giới chỉ là giảm thu nhập.
Như vậy, trong thị trường như hiện nay, cần có những quy định cụ thể, chặt chẽ của UBCK
về vấn đề này. Đồng thời, còn phải đề cập đến vấn đề đạo đức của nhân viên môi giới.

22

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

22


Nhóm 08

3.3/. Giải pháp đối với nhà đầu tư
3.3.1/. Tìm hiểu kỹ cách thức giao dịch ký quỹ chứng khoán và xác định mức độ chấp
nhận rủi ro
Việc không quan tâm đúng mức đến công tác quản trị rủi ro đã gây ra rất nhiều tác
động không tốt.
Đối với nhà đầu tư cần phải nắm bắt được đầy đủ thông tin, hiểu được mức sinh lời
kỳ vọng, mức rủi ro và những vấn đề liên quan đến hoạt động giao dịch mua ký quỹ. Có như
vậy, mới đảm bảo thực hiện giao dịch một cách chính xác, anh toàn.
3.3.2/. Kiểm soát rủi ro và tận dụng cơ hội
Đối với nhà đầu tư sử dụng GDKQ cần biết cách quản lý rủi ro trước khi nghĩ đến
kiếm lợi nhuận
NĐT cần xác định rõ khả năng chịu lỗ trước khi ký vào hợp đồng GDKQ với công ty
chứng khoán. Việc xác định mức giới hạn chịu đựng sẽ khiến tâm lý nhà đầu tư ổn định, như
vậy, sẽ có quyết định đầu tư sáng suốt.
Luôn chuẩn bị sẵn một lượng tiền mặt cho tình huống xấu.
Không nên sử dụng GDKQ cho chiến lược đầu tư lâu dài.
Với những nhà đầu tư mới tham gia thị trường, chưa có kinh nghiệm không nên sử
dụng GDKQ. Do tính chất rủi ro cao của sản phẩm GDKQ mà tất cả các tổ chức tài chính,
công ty chứng khoán đều khuyến cáo nhà đầu tư mới không sử dụng đòn bẩy tài chính.
Nhiều nhà đầu tư thấy mức lợi nhuận rất cao nên không lường trước được rủi ro khi sử dụng
và dẫn tới hậu quả thua lỗ.


23

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MUA KÝ QUỸ TẠI VIỆT NAM

23



×