Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Quan điểm của john maynard keynes trong phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường cho VD ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Trong bài phát biểu năm 1954 với tư cách chủ tịch trước Hiệp hội kinh tế
Mỹ, Simon Kuznets đã cho rằng bất bình đẳng thu nhập đầu tiên gia tăng
nhưng sau đó giảm xuống khi đất nước công nghiệp hoá (1955). Trong những
năm sau đó, nhiều nghiên cứu học thuật xác nhận hiệu ứng Kuznets cho các
nước công nghiệp tiên tiến.
Trong khi cuộc tranh luận của các học giả gần như không có tầm quan
trọng bên ngoài giới học thuật, việc tìm hiểu các áp lực làm giảm tình trạng
bất bình đẳng có tiềm năng mang lại những ảnh hưởng âm vang trong cuộc
sống thực tế.
Trong bối cảnh khủng hoảng và suy giảm kinh tế toàn cầu , hầu hết các
nước phát triển trên thế giới trong đó có Việt Nam luôn đi tìm một lý thuyết
kinh tế để giải quyết và đưa ra những giải pháp hợp lý nhất để vượt qua
khủng hoảng. Một trong các học thuyết nổi tiếng ấy, có thể kể đến học
thuyết kinh tế nổi tiếng của John Maynard Keynes, hơn lúc nào hết học
thuyết Keynes lại càng được đề cập và ứng dụng nhiều nhất. Trong bài tiểu
luận này chúng ta sẽ đề cập và tìm hiểu: “ Quan điểm của John Maynard
Keynes trong phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ; và ứng dụng học
thuyết kinh tế Keynes vào thực tiễn Việt Nam hiện nay như thế nào”

1
1


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Thân thế và sự nghiệp của J.M.Keynes
John Maynard Keynes (1883-1946) là một nhà kinh tế học người Anh;
ông học kinh tế tại Đại học Cambridge. Keynes đã từng vô cùng say mê toán


học và lịch sử, nhưng cuối cùng ông đã chuyển sự yêu thích sang Kinh tế học
do sự thuyết phục của một trong những giáo sư giảng dạy ông, nhà kinh tế
học nổi tiếng Alfred Marshall (1842-1924). Sau khi tốt nghiệp Cambridge,
ông đã làm việc tại rất nhiều vị trí trong Chính phủ, tập trung vào việc áp
dụng kinh tế học để giải quyết các vấn đề của thế giới thực. Ông rất được coi
trọng trong Chiến tranh Thế giới I và đã được giao chức vụ là nhà cố vấn
trong các cuộc hội thảo chuẩn bị cho Hiệp ước Versailles. .
Năm 1944 ông đã dẫn đầu đoàn đại biểu Anh đến Mỹ tham dự hội nghị
tài chính tiền tệ quốc tế tổ chức tại thành phố Forest, trong hội nghị này ông
đã có tác dụng rất quan trọng, ông đã tích cực vạch kế hoạch thành lập hai tổ
chức là tổ chức quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới về tái thiết và phát
triển do ông làm thống đốc.
Tuy nhiên, chính cuốn sách được xuất bản vào năm 1936 “Lý thuyết về
thất nghiệp, lãi suất và tiền tệ” đã đặt nền móng cho di sản Thế giới của ông:
Kinh tế học Keynes.
1.2. Hoàn cảnh ra đời học thuyết Keynes
Thời gian: Xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX và thống trị đến
những năm 70 của thế kỉ XX.

2
2


Về kinh tế - xã hội ở các nước tư bản: Ở các nước phương Tây khủng
hoảng kinh tế, thất nghiệp thường xuyên, nghiêm trọng (điển hình là cuộc
khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933) đã chứng tỏ các lý thuyết ủng hộ tự do
kinh doanh (tự điều tiết, “bàn tay vô hình”, lý thuyết “cân bằng tổng quát”)
của trường phái cổ điển và phát triển lành mạnh. Chủ nghĩa tư bản phát triển
với lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi sự can thiệp của cổ điển mới
không còn sức thuyết phục, tỏ ra kém hiệu nghiệm, không đảm bảo cho nền

kinh tế
Nhà nước vào kinh tế (chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước). Sự phát
triển của chủ nghĩa xã hội (phát triển hưng thịnh đến những năm 70 của thế
kỉ XX): Lúc đầu sự thành công của nền kinh tế kế hoạch hóa thu hút sự chú ý
của các nhà kinh tế tư sản
Tóm lại: tình hình kinh tế xã hội ở các nước tư bản và trên thế giới yêu
cầu một lý thuyết kinh tế mới có khả năng thích ứng với tình hình mới bảo
vệ, duy trì và phát triển chủ nghĩa tư bản và học thuyết của Keynes đáp ứng
được, đó là lý thuyết kinh tế về chủ nghĩa tư bản có điều tiết.
1.3. Các học thuyết kinh tế Keynes
1.3.1. Lý thuyết chung về việc làm
Theo Keynes: Việc làm không chỉ xác định tình hình thị trường lao
động, sự vận động của thất nghiệp mà còn bao gồm cả tình trạng sản xuất,
khối lượng sản phẩm, quy mô thu nhập. Việc làm cụ thể hóa tình trạng nền
kinh tế, cơ sở cho việc điều tiết nền kinh tế. Khái quát lý thuyết việc làm:
Việc làm tăng thì thu nhập thực tế tăng, do đó tiêu dùng tăng (tâm lý chung)
nhưng tốc độ tăng tiêu dùng chậm vì khuynh hướng tiết kiệm một phần thu
nhập tăng thêm. Do đó cầu giảm tương đối (so với sản xuất), cản trở việc mở
rộng đầu tư của nhà tư bản. Nhà kinh doanh sẽ thua lỗ nếu sử dụng toàn bộ
3
3


lao động tăng thêm để thỏa mãn số cầu tiêu dùng tăng (“Khuynh hướng tiêu
dùng giới hạn”).
Để khắc phục: phải có một khối lượng đầu tư nhằm kích thích quần
chúng tiêu dùng phần tiết kiệm của họ. Việc mở rộng đầu tư của các nhà tư
bản còn phụ thuộc vào “hiệu quả giới hạn của tư bản”
1.3.2. Các phạm trù cơ bản trong lý thuyết việc làm
Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn:

Là khuynh hướng cá nhân phân chia phần thu nhập tăng thêm cho tiêu
dùng theo tỷ lệ ngày càng giảm dần. Đây là quy luật tâm lý của mọi cộng
đồng tiêu tiền, nó là nguyên nhân của sự giảm sút tương đối cầu tiêu dùng
dẫn đến sản xuất trì trệ, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp.
Theo Keynes: khuynh hướng tiêu dùng giới hạn là một tương quan hàm
số giữa thu nhập và chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ thu nhập đó (C): C = X
(R)
Có 3 nhân tố ảnh hưởng đến khuynh hướng này là:
Thứ nhất, thu nhập (R): thu nhập tăng thì tiêu dùng tăng và ngược lại.
Thứ hai, các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến thu nhập (thay đổi tiền
công danh nghĩa, cho một lao động, lãi suất, thuế khóa,...).
Thứ ba, những nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu
dùng. Có thể chia làm 2 nhóm như sau:
Nhóm làm tăng tiết kiệm (lập khoản dự phòng rủi ro, đẻ dành cho tuổi
già, cho việc học tập của con cái và bản thân, xây dựng tài sản,... thậm chí
thỏa mãn tính hà tiện đơn thuần) có thể khái quát thành sự thận trọng, nhìn
xa, tính toán, tham vọng, tự lập, kinh doanh, kiêu hãnh và hà tiện,.. điều này
làm giảm tiêu dùng.
4
4


Nhóm thứ hai làm giảm tiết kiệm tăng tiêu dùng (thích hưởng thụ, thiển
cận, hào phóng, phô trương, xa hoa,...).
Bốn loại động lực là: tiết kiệm kinh doanh (bảo đảm nguồn tài chính để
thực hiện cuộc đầu tư mới mà không mắc nợ) - Tiền mặt (bảo đảm nguồn tiền
mặt để đối phó với những bất trắc xảy ra - Cải tiến (bảo đảm tăng thu nhập
nhờ hiệu suất) và động lực thận trọng về tài chính (bảo đảm quỹ dự trữ tài
chính).
Biểu thị khuynh hướng tiêu dùng giới hạn (KHTDGH) (toán học): Kí

hiệu: KHTDGH = dC / dR . Trong đó: C là chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ
thu nhập, dC là gia tăng tiêu dùng, R là Thu nhập, dR là gia tăng thu nhập.
Hiệu quả giới hạn của tư bản
Theo Keynes, mục đích của các doanh nhân khi đầu tư là bán có “thu
hoạch tương lai”. Đó là chênh lệch giữa số tiền bán hàng với phí tổn cần thiết
để sản xuất ra hàng hóa đó. Tương quan giữa “thu hoạch tương lai” và phí
tổn cần thiết để sản xuất hàng hóa đó gọi là hiệu quả của tư bản. Cùng với sự
tăng lên của vốn đầu tư thì hiệu quả của tư bản giảm dần và Keynes gọi đó là
hiệu quả giới hạn của tư bản
Có hai nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là:
Thứ nhất là, đầu tư tăng làm cho khối lượng hàng hóa tăng dẫn đến giá
cả hàng hóa sản xuất thêm giảm.
Thứ hai là, cung về hàng hóa tăng (sản xuất tăng) làm cho giá cung tổng
số tư bản tăng.
Từ đó làm cho phí tổn sản xuất tăng và “thu hoạch tương lai” giảm vì thế
hiệu quả tư bản giảm. Như vậy tăng đầu tư sẽ dẫn đến làm giảm hiệu quả
giới hạn của tư bản.
5
5


Đường biểu diễn mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư và hiệu quả giới hạn
tư bản gọi là “đường cong đầu tư” hay “đường cong hiệu quả giới hạn của tư
bản” (xem đồ thị).

Lãi suất:
Là phần trả công cho sự chia ly của cải tiền tệ (Số tiền trả cho việc
không sử dụng tiền mặt trong một khoảng thời gian nhất định). Không phải
cho tiết kiệm hay nhịn ăn tiêu (vì khi tích trữ tiền mặt dù rất nhiều cũng
không nhận được khoản trả công nào cả).

Lãi suất chịu ảnh hưởng của hai nhân tố là: khối lượng tiền trong tiêu
dùng (tỉ lệ nghịch) và sự ưa chuộng tiền mặt (tỉ lệ thuận). Đây là điểm quan
trọng để Keynes đưa ra chính sách điều chỉnh kinh tế của Nhà nước (tăng
hiệu quả giới hạn tư bản và giảm lãi suất). Sự ưa chuộng tiền mặt là khuynh
hướng có tính chất hàm số, biều diễn dưới dạng hàm số:
6
6


M = M1 + M2 = L1(R) + L2(r) (Hàm số của lãi suất)
M: Sự ưa chuộng TM
M1: Số TM dùng cho động lực giao dịch và dự phòng
M2: Số TM dùng cho động lực đầu cơ
L1: Hàm số TM xác định M1 tương ứng với thu nhập R
L2: Hàm số TM xác định M2 tương ứng với lãi suất r
Thu nhập (R) cũng phụ thuộc 1 phần vào r ⇒ M1 cũng phụ thuộc r. Vì
vậy sự ưa chuộng tiền mặt là HS của lãi suất (r).
Số nhân đầu tư:
Là mối quan hệ giữa gia tăng thu nhập (dR) với gia tăng đầu tư (dI). Nó
xác định sự gia tăng đầu tư sẽ làm gia tăng thu nhập lên bao nhiêu lần (là hệ
số bằng số nói lên mức độ tăng của sản lượng do kết quả của mỗi đơn vị đầu
tư).
Cụ thể ta có:
C là chi tiêu cho tiêu dùng rút ra từ thu nhập và dC là gia tăng tiêu dùng
R là Thu nhập và dR là gia tăng thu nhập
I là đầu tư và dI là gia tăng đầu tư
S là tiết kiệm và dS là gia tăng tiết kiệm.
Khi đó ta sẽ có công thức sau:

7

7


Từ đó công thức tính sự gia tăng sản lượng do đầu tư thêm là:
Q=R=C+I
d Q = d R = K. (dC + dI)
(Q là sản lượng và dQ là sự gia tăng sản lượng)
K là số nhân
Theo Keynes: Mỗi sự gia tăng đầu tư kéo theo sự gia tăng cầu về tư liệu
sản xuất và sức lao động, kích thích sản xuất phát triển, tăng thu nhập (tăng
sản lượng) và đến lượt nó thu nhập tăng lại làm tiền đề cho sự gia tăng đầu tư
mới. Vì thế số nhân làm cho thu nhập phóng đại lên nhiều lần.

8
8


CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM CỦA KEYNES ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
2.1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và ô nhiễm môi trường
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa kinh tế và
môi trường dựa trên nền tảng lý thuyết Keynes. Các nghiên cứu thực nghiệm
về đường cong Keynes chủ yếu tập trung vào hai chủ đề chính:
Liệu các chỉ thị của suy thoái môi trường có tuân theo mối quan hệ U
ngược với các mức thu nhập đầu người không.
Tính toán điểm ngưỡng chuyển đổi khi chất lượng môi trường cải thiện
theo sự tăng lên của thu nhập đầu người.
Trong thời gian gần đây cũng đã có nhiều quốc gia trên thế giới thực
hiện các nghiên cứu về mối quan hệ kinh tế và môi trường đặc thù cho riêng

quốc gia mình như Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc... Hầu hết các
nghiên cứu này cũng đều tìm ra được mối quan hệ theo quy luật Keynes cũng
như xác định được mức ngưỡng thu nhập khi chất lượng môi trường bắt đầu
tăng theo thu nhập đầu người cho riêng quốc gia mình.
Đa số các nghiên cứu này tập trung vào lĩnh vực ô nhiễm không khí
(SO2, NOx, SPM, CO). Chỉ có một số ít nghiên cứu quan tâm đến lĩnh vực ô
nhiễm nước và chất thải rắn. Xin giới thiệu các kết quả nghiên cứu thực
nghiệm nêu trên cùng với một số bằng chứng thực tế về mối quan hệ Keynes
giữa ô nhiễm môi trường và mức thu nhập đầu người.
2.2. Mối quan hệ giữa thu nhập đầu người và ô nhiễm không khí
Có thể nói, mối quan hệ giữa các chỉ tiêu ô nhiễm không khí và thu nhập
đầu người đã và đang được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất. Các chỉ tiêu ô
9
9


nhiễm không khí được đề cập phổ biến có thể kể đến SO2, NOx, CO, bụi và
khói.
Tại Đài Loan, các nghiên cứu cho thấy mối quan hệ EKC cho 2 chất ô
nhiễm NO2 và CO. Ngưỡng chuyển đổi của NO2 nằm ở mức thu nhập đầu
người 384.000 đài tệ (tương đương 12.800 USD thời điểm 1996) và ngưỡng
chuyển đổi của CO ở mức thấp hơn là 205.000 đài tệ (tương đương 6.833
USD thời điểm 1996).
Kết quả nghiên cứu này cũng rất phù hợp với thực tế đã diễn ra tại Đài
Loan trong thập niên 90. Vào năm 1990, Cục BVMT Đài Loan bắt đầu áp
dụng quy định mới bắt buộc các xe ô tô mới phải lắp đặt bộ chuyển đổi xúc
tác giúp làm giảm đáng kể lượng phát thải NO2 và CO từ hoạt động giao
thông. Quy định này tỏ ra rất hiệu quả. Ngưỡng chuyển đổi của NO2 cao hơn
gấp đôi so với CO do thực tế là hoạt động giao thông tạo ra phần lớn lượng
phát thải CO trong khi chỉ tạo ra 1 nửa lượng phát thải NO2. Phải đến năm

1998, Cục BVMT Đài Loan mới bắt buộc các nguồn cố định phải kiểm soát
phát thải NO2 do chi phí xử lý khí này rất cao.
Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy ngưỡng thu nhập đầu người khi
chất lượng môi trường bắt đầu được cải thiện là rất cao, dao động trong
khoảng trên 3.000 USD - 15.000 USD. Các số liệu thực tế cũng đã chứng
minh cho các kết quả nghiên cứu này.
- Các thành phố có mức thu nhập đầu người dưới 1.000 USD/năm
thường có mức ô nhiễm rất cao và mức độ cải thiện ô nhiễm không đáng kể;
Các thành phố nằm trong mức thu nhập đầu người từ trên 3.000 -10.000
USD/năm đều có những cải thiện ô nhiễm đáng kể, tiêu biểu như Băng Cốc
(Thái Lan), Seoul (Hàn Quốc), Mexico City (Mêhicô); Các thành phố thuộc
nhóm nước phát triển có mức thu nhập trên 10.000 USD đều đã đạt được
chất lượng không khí rất tốt. Ví dụ, các TP như: London (Anh) hay Los
10
10


Angeles (Mỹ) nồng độ các chất ô nhiễm không khí đều đã đạt tiêu chuẩn của
WHO;
- Tại các nước phát triển, vấn đề ô nhiễm bắt đầu gia tăng từ cách mạng
công nghiệp và lên đến đỉnh điểm vào đầu thập niên 70 và sau đó bắt đầu
được cải thiện. Nhưng phải đến cuối thập niên 90, đầu thập niên 2000, tức là
sau 30 năm, chất lượng không khí mới đạt chất lượng tốt.
Trong khi đó, một số nước đang phát triển đã có những cải thiện ô nhiễm
đáng kể trong thời gian ngắn hơn và ở một mức thu nhập thấp hơn, tiêu biểu
là trường hợp của Thái Lan chỉ mất khoảng 10 năm (từ đỉnh điểm năm 1991 2000) đã giảm được nồng độ SPM xuống hơn 50%.
2.3. Mối quan hệ giữa thu nhập đầu người và ô nhiễm nước
So với lĩnh vực ô nhiễm không khí, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
và ô nhiễm nước ít được quan tâm nghiên cứu hơn.
Tại Hàn Quốc, các nghiên cứu đã tìm ra được mối quan hệ đường cong

EKC đối với nồng độ BOD của sông Hàn. Theo đó, nồng độ BOD trên sông
Hàn đạt đỉnh vào năm 1984, khi mức thu nhập đầu người của Hàn Quốc đạt
khoảng hơn 4.000 USD rồi sau đó giảm liên tục khi mức thu nhập tăng lên.
Các nghiên cứu dữ liệu trên 64 nguồn nước thuộc bang Louisiana (Mỹ)
cũng đã tìm được mối quan hệ EKC cho các chỉ tiêu ô nhiễm Nitơ và
Phopho. Ngưỡng chuyển đổi của Nitơ nằm ở mức thu nhập đầu người 11.375
- 12.981 USD/năm, của Phot pho là 6.773 — 14.312 USD/năm (tỉ giá năm
1996). Đây là mức thu nhập đầu người của Louisiana vào thập niên 80, hiện
này thu nhập bình quân đầu người của bang Louisiana đã đạt mức trên
37.000 USD/năm.
Như vậy, ngay cả đối với các chỉ tiêu ô nhiễm nước, mức thu nhập khi
đạt đến ngưỡng chuyển đổi cũng rất cao, đặc biệt là đối với các chỉ tiêu ô
11
11


nhiễm hữu cơ như N, P, BOD, COD, dao động từ mức 4.000 — trên 15.000
USD.

2.4. Mối quan hệ giữa thu nhập đầu người và phát sinh chất thải rắn
Có rất ít nghiên cứu về phát triển kinh tế và vấn đề chất thải rắn. Trong
số các nghiên cứu tiên phong về Keynes, chỉ sử dụng một dữ liệu đa quốc gia
đề cập đến vấn đề chất thải rắn sinh hoạt. Nghiên cứu này không tìm thấy
đỉnh của đường cong Keynes, thay vào đó nghiên cứu này khẳng định lượng
chất thải sinh hoạt phát sinh tăng liên tục theo mức thu nhập. Có một nghiên
cứu tìm thấy mối quan hệ tuyến tính giữa thu nhập đầu người và chất thải rắn
công nghiệp của Hàn Quốc.
Đối với chất thải sinh hoạt, đường cong Keynes đạt ngưỡng chuyển đổi
vào năm 1991, khi mà mức thu nhập đầu người tại Hàn Quốc đạt khoảng trên
7.500 USD/năm. Xu hướng giảm vẫn còn tiếp tục cho đến nay. Xu hướng

giảm chất thải sinh hoạt từ những năm 90 đến nay là do có sự đóng góp rất
lớn của chương trình cấp quốc gia “Hệ thống thu phí rác thải dựa vào thể
tích” bắt đầu vào đầu năm 1995. Chương trình này đã giúp giảm 31 % lượng
rác sinh hoạt trong năm 1995. Đối với chất thải rắn công nghiệp, lượng phát
thải tăng đều theo thu nhập đầu người được giải thích là do sự gia tăng liên
tục của các hoạt động công nghiệp, đặc biệt là do sự tăng lên nhanh chóng
của rác thải xây dựng.
Các nghiên cứu tiến hành trên 30 tỉnh/thành phố ở Trung Quốc, đã tìm ra
ngưỡng chuyển đổi đối với chất thải rắn công nghiệp ở mức thu nhập đầu
người là 34.040 tệ, tương đương 4.525 USD (tỷ giá năm 2000).

12
12


CHƯƠNG 3
ÁP DỤNG HỌC THUYẾT KEYNES VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM
Trước hết, cần khẳng định quan điểm về mô hình phát triển kinh tế ở
nước ta đã được xác định qua các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam là
“phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như
vậy, vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước ta là hết sức quan trọng,
qua đó để đảm bảo tính hiệu quả của thị trường và để đảm bảo tính định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở vận dụng học thuyết Keynes và những lý luận kinh tế mới
nhất về kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng:
Nhà nước cần thiết phải tích cực và chủ động tác động vào nền kinh tế, qua
đó để ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển, đặc
biệt là trong bối cảnh hiện nay cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới
đang tác động tiêu cực tới nước ta thì vai trò đó càng trở nên cấp thiết.

Các công cụ và chính sách kinh tế chủ yếu mà Nhà nước hoàn toàn có
thể sử dụng và tác động vào nền kinh tế là:
3.1. Kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong một số ngành kinh tế
Xây dựng bộ phận kinh tế Nhà nước vững mạnh và hoạt động có hiệu
quả. Kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu Nhà nước về
vốn, các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên và về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước; các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước
như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển và các tài nguyên khác; các nguồn lực thuộc
sở hữu Nhà nước khác như: ngân sách, các quỹ dự trữ, hệ thống ngân hàng
Nhà nước, hệ thống bảo hiểm, các công trình thuộc về kết cấu hạ tầng kinh tế
13
13


- xã hội và phần vốn góp của Nhà nước vào các loại hình kinh doanh khác
nhau.
Như vậy, kinh tế Nhà nước bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, trong đó
doanh nghiệp Nhà nước là một trong những bộ phận nòng cốt, vì đây là bộ
phận chiếm giữ một phần lớn tài sản của nền kinh tế và tạo ra khoảng trên
1/3 tổng sản phẩm xã hội (GDP) và là một lực lượng vật chất quan trọng để
Nhà nước tác động tới nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì kinh
tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường phải được thể hiện trên hai mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, kinh tế Nhà nước phải nắm giữ và chi phối được các vị trí,
các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân - đó là hệ thống tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm, các cơ sở sản xuất và kinh doanh dịch vụ quan trọng
trong các ngành của nền kinh tế quốc dân, những vị trí và lĩnh vực trọng yếu
thuộc về kết cấu hạ tầng Kinh tế - Xã hội… Qua đó, để có thể đảm bảo các
cân đối lớn của nền kinh tế, tác động tới tổng cung và tổng cầu, đảm bảo ổn

định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, bộ phận kinh tế Nhà nước phải chuyển mạnh sang cơ chế kinh
tế thị trường, đảm bảo thực hiện kinh doanh với mục tiêu năng suất, chất
lượng và hiệu quả. Có như vậy mới lôi cuốn và chi phối được các thành phần
kinh tế khác, thúc đẩy quá trình tăng trưởng nhanh và bền vững.
Để phát huy được vai trò chủ đạo trên, các doanh nghiệp Nhà nước hiện
nay ở nước ta đang trong quá trình đổi mới và sắp xếp lại, thông qua một loạt
các biện pháp như: giải thể, sát nhập các xí nghiệp làm ăn thua lỗ và kém
hiệu quả; tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước; sắp xếp lại các tổng
công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con, tiến tới hình thành các tập
đoàn kinh tế mạnh. Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả
14
14


doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp
Nhà nước, tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư
liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công
ích… Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu
vực, có sự tham gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước,
các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư…, trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi
phối
3.2. Sử dụng công cụ tài chính và chính sách tài khóa
Chính sách tài khoá là việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu
công cộng để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế và do đó tác động
đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Học thuyết Keynes cũng đã chỉ ra
tầm quan trọng của công cụ tài chính và các nước có nền kinh tế thị trường
đều vận dụng công cụ đó ở những mức độ khác nhau. Tất nhiên, ở nước ta
cũng không là ngoại lệ, nền tài chính ở nước ta là nền tài chính phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chính

sách tài chính là chính sách huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính để
phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu chung của
chính sách tài khoá hiện nay ở nước ta là:
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Vì vậy, chính sách tài
khoá phải hướng tới việc thúc đẩy tiết kiệm và tăng đầu tư trong cả hai khu
vực tư nhân và Nhà nước. Trong học thuyết Keynes, đầu tư (I) và tiết kiệm
(S) là hai đại lượng kinh tế vĩ mô quan trọng và trong trạng thái cân bằng vĩ
mô khi I = S. Vì vậy, theo Keynes, cần phải khuyến khích các dòng tiết kiệm
đầu tư vào sản xuất kinh doanh để kích thích kinh tế.
Đảm bảo việc làm trong xã hội và giảm thất nghiệp. Hiện nay sức ép về
việc làm ngày càng gia tăng, vì vậy giải quyết việc làm là một mục tiêu kinh
tế vĩ mô quan trọng của chính sách tài khoá.
15
15


Ổn định giá cả và tiền tệ, chống nguy cơ lạm phát.
Thực hiện công bằng xã hội, thông qua việc điều tiết thu nhập và đây là
mục tiêu quan trọng nhằm hướng tới mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.3. Sử dụng công cụ tiền tệ và chính sách tiền tệ của chính phủ
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường làm cho vai trò
của hệ thống ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng, điều đó buộc các
Chính phủ phải nắm lấy các công cụ tiền tệ, hệ thống ngân hàng thực thi
chính sách tiền tệ nhằm tác động tới nền kinh tế. Các công cụ của chính sách
tiền tệ mà ngân hàng Trung ương sử dụng là:
Hoạt động của thị trường mở. Thị trường mở là thị trường tiền tệ của
ngân hàng Trung ương, được sử dụng để mua hoặc bán trái phiếu Chính phủ
- thông qua đó ngân hàng có thể điều tiết mức cung ứng tiền tệ, tác động tới
tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại. Thông

qua đó để đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, cũng qua
đó để điều tiết mức cung tiền tệ.
Công cụ lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiết khấu là lãi suất quy định của
ngân hàng Trung ương khi họ cho các ngân hàng thương mại vay tiền, qua đó
để tác động tới mức cung ứng tiền tệ.
Đối với nước ta hiện nay, chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết vĩ mô hết
sức quan trọng, vai trò của nó ngày càng tăng cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách tiền tệ phải
khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô tín dụng. Trong chính
sách tiền tệ, lãi suất là một công cụ quan trọng, là phương tiện để điều tiết
mức cung, cầu về tiền tệ; thắt chặt hay nới lỏng lượng cung ứng tiền tệ và do
đó kiềm chế lạm phát. Thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng nó sẽ có
16
16


tác động trực tiếp đến nền kinh tế, mục tiêu của chính sách tiền tệ là: ổn định
tiền tệ, kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảmbảo
an toàn của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng.

17
17


KẾT LUẬN

Qua phân tích, chúng ta thấy được những điểm tiến bộ mà học thuyết
Keynes đã mang lại những điểm nổi bật trong kinh tế học:
Thứ nhất, tiến hành một cuộc “ cách mạng về nhận thức đối với chủ
nghĩa tư bản”. Ông thừa nhận các khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản như thất

nghiệp không tự nguyện, khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, về mặt lý luận, Keynes đã điều chỉnh kinh tế học truyền thống,
xây dựng hệ thống lý luận mới; dùng thuyết nhà nước can thiệp vào kinh tế
thay cho thuyết tự do kinh doanh
Thứ ba, về mặt chính sách, Keynes phủ định chính sách kinh tế tự do thả
nổi của chủ nghĩa tư bản, không cần có sự can thiệp của Nhà nước.
Thứ tư, về phương pháp tích, Keynes đã mở ra phương pháp phân tích vĩ
mô hiện đại, ông lại xuất phát từ toàn bộ hoạt động của nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Nghiên cứu các tổng lượng kinh tế như tổng cầu, tổng cung, tổng
đầu tư, tổng việc làm, tổng thu nhập và tìm ra mối liên hệ giữa các tổng
lượng kinh tế.
Cuộc cách mạng của Keynes đáp ứng yêu cầu thực tế của chủ nghĩa tư
bản độc quyền, thoát ra khỏi lý luận truyền thống lấy tự do thả nổi làm nội
dung phân tích sự cân bằng, xây dụng học thuyết kinh tế mới mà tư tưởng
trung tâm của nó là sự can thiệp của chính phủ vào kinh tế mới và tìm mọi
biện pháp nâng cao tổng cầu để giải quyết việc làm nhằm giúp chủ nghĩa tư
bản thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, tránh khỏi sự sụp đổ hoàn toàn. Tuy
nhiên, việc can thiệp của chính phủ vào kinh tế nên tránh lạm dụng những
can thiệp lớn, việc sử dụng quá nhiều và thường xuyên chính sách vĩ mô có
18
18


thể trở thành một thói quen khó bỏ, hoặc tạo một ý thức rằng can thiệp là
chuyện tất yếu. Cần phải lưu ý rằng việc sử dụng một công cụ vĩ mô luôn đòi
hỏi sự huy động nguồn lực lớn thông qua nhà nước (chẳng hạn chính sách
mở rộng chi tiêu của chính phủ) hoặc sự bóp méo một số tín hiệu quan trọng
nhất của thị trường (ví dụ tăng hay giảm lãi suất). Điều này thường giúp đạt
được một số mục tiêu ngắn hạn, nhưng lại có thể gây ra những ảnh hưởng
không có trong dự tính, hoặc không tính toán được.


19
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Khương Ninh (2009), Giáo trình kinh tế học, NXB Thống kê.
2. Hung, M.F., và Shaw, D (2009), Economic Growth and the Environmental

Kuznets Curve in Taiwan, Tạp chí Quản lý kinh tế.
3. Vũ Đình Bách, (2006), Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Công thương, (2010), Bảo vệ doanh nghiệp trong thương mại quốc tế,

Nxb Công thương, Hà Nội.

20


MỤC LỤC

21




×