Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƢƠNG THỊ BÍCH NGÂN

NGUY£N T¾C C¤NG B»NG
TRONG PH¸P LUËT THUÕ ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƢƠNG THỊ BÍCH NGÂN

NGUY£N T¾C C¤NG B»NG
TRONG PH¸P LUËT THUÕ ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lƣơng Thị Bích Ngân


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG
PHÁP LUẬT THUẾ........................................................................... 6
1.1.

Khái niệm nguyên tắc công bằng ...................................................... 6

1.2.

Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc công bằng trong pháp

luật thuế .............................................................................................. 7

1.2.1. Khái niệm nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế ........................ 7
1.2.2. Đặc điểm của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế .................. 9
1.3.

Ý nghĩa, vị trí, vai trò của nguyên tắc công bằng trong pháp
luật thuế ............................................................................................. 16

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG
PHÁP LUẬT THUẾ Ở VIỆT NAM ............................................... 20
2.1.

Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập doanh
nghiệp và pháp luật thuế thu nhập cá nhân .................................. 21

2.1.1. Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế ............................................................. 21
2.1.2. Đối tƣợng chịu thuế ............................................................................ 24
2.1.3. Thu nhập tính thuế.............................................................................. 31
2.1.4. Phƣơng pháp đánh thuế và thuế suất.................................................. 41
2.1.5. Công tác hành thu của cơ quan thuế .................................................. 44


2.2.

Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế giá trị gia tăng
và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ................................................. 46

2.2.1. Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế ............................................................. 47

2.2.2. Đối tƣợng chịu thuế ............................................................................ 49
2.2.3. Phƣơng pháp tính thuế và thuế suất ................................................... 52
2.2.4. Các biện pháp hành thu của cơ quan thuế .......................................... 57
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 63
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƢỜNG NGUYÊN TẮC
CÔNG BẰNG TRONG PHÁP LUẬT THUẾ Ở VIỆT NAM ............ 64
3.1.

Định hƣớng hoàn thiện pháp luật thuế nhằm tăng cƣờng
nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế ở Việt Nam .............. 64

3.1.1. Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế phải phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế ............................ 64
3.1.2. Khắc phục những bất cập trong các luật thuế .................................... 66
3.1.3. Nâng cao trách nhiệm bằng quyền của ngƣời nộp thuế trong thực
hiện nghĩa vụ thuế .............................................................................. 67
3.2.

Một số kiến nghị nhằm tăng cƣờng nguyên tắc công bằng
trong pháp luật thuế ở Việt Nam .................................................... 68

3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện một số quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân..... 69
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện một số quy định pháp luật thuế thu nhập
doanh nghiệp ...................................................................................... 73
3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện một số quy định pháp luật thuế giá trị
gia tăng............................................................................................... 77
3.2.4. Kiến nghị hoàn thiện Luật thuế tiêu thụ đặc biệt ............................... 81
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 85
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GTGT

Gía trị gia tăng

KH&CN

Khoa học và công nghệ

NSNN

Ngân sách nhà nƣớc

NSTW

Ngân sách trung ƣơng

TAND

Tòa án nhân dân

TNCN

Thu nhập cá nhân

TNDN


Thu nhập doanh nghiệp

TTĐB

Tiêu thụ đặc biệt

VNAH

Việt Nam anh hùng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công bằng và nguyên tắc công bằng là vấn đề đặc biệt quan trọng, tồn
tại nhƣ một điều kiện mang tính cơ sở, xƣơng sống cho mọi hoạt động trong
xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế hiện nay. Ngay trong định hƣớng của Đại
hội Đảng đã khẳng định, mục tiêu xây dựng một đất nƣớc Việt Nam “công
bằng - dân chủ - văn minh”. Có thể thấy, nguyên tắc công bằng là công cụ
đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật thuế, giúp khắc phục những khuyết tật
của nền kinh tế thị trƣờng, giảm bớt tình trạng phân hóa giàu nghèo trong phát
triển kinh tế. Đặc biệt ở Việt Nam, lĩnh vực kinh tế nói chung và thuế nói
riêng tính công bằng luôn đƣợc xem là nguyên tắc quan trọng nhất.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh thuế đƣợc hình thành và phát
triển là một tất yếu khách quan có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
đảm bảo nguồn tài chính của một quốc gia, là hình thức để phân bố ngân
sách một cách hợp lý.
Với nguyên tắc công bằng, Pháp luật thuế luôn hƣớng tới bảo đảm các
đối tƣợng có điều kiện nhƣ nhau phải nộp những loại thuế giống nhau. Đồng
thời động viên hợp lý khoản thu cho ngân sách mà không gây ảnh hƣởng đến

đời sống cá nhân và hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh doanh.
Nguyên tắc công bằng đƣợc thể hiện xuyên suốt trong hệ thống pháp
luật thuế, từ các luật thuế nội dung đến luật thuế thủ tục. Từ thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế đến thu thuế và chuyển khoản vào NSNN.
Tuy nhiên thực tế ở Việt Nam, việc đảm bảo tính công bằng trong luật
thuế còn nhiều bất cập, nhiều quy định chƣa đƣợc tuân thủ; các quy định về
đối tƣợng nộp thuế, hoàn thuế và khấu trừ thuế còn chƣa hợp lý. Tồn tại nhiều
vi phạm về hóa đơn, chứng từ, vi phạm thủ tục thuế, các hành gian lận thuế,

1


trốn thuế vẫn còn diễn ra với nhiều hình thức tinh vi hơn gây thất thoát NSNN
đến hàng nghìn tỷ đồng. Các quy định pháp luật liên tục sửa đổi gây khó hiểu
đối với dân và trong một số trƣờng hợp, các đối tƣợng không đƣợc hƣởng ƣu
đãi thỏa đáng.
Chính vì vậy, thiết nghĩ việc xây dựng pháp luật nhằm bảo đảm thực
hiện nguyên tắc công bằng trong xây dựng và áp dụng luật thuến là vô cùng
quan trọng. Đây là điều kiện để từng bƣớc hoàn thiện pháp luật và hƣớng đến
bảo vệ quyền lợi ngƣời nộp thuế trong quan hệ nghĩa vụ với nguồn thu NSNN.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nguyên tắc công bằng trong
pháp luật thuế ở Việt Nam” để làm đề tài tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nguyên tắc công bằng đã từng đƣợc xem xét và nghiên cứu nhiều về
mặt lý luận. Tuy nhiên nếu xét về một lĩnh vực kinh tế chuyên sâu dƣới góc
nhìn pháp lý thì còn rất hạn chế đặc biệt trong pháp luật thuế.
Ở Việt Nam, các công trình liên quan về tính công bằng trong pháp thuế
đƣợc thể hiện trong các tạp chí kinh tế thƣờng tập trung vào các sắc thuế riêng
biệt, cụ thể nhƣ luận văn thạc sĩ “Nguyên tắc công bằng trong luật thuế thu
nhập cá nhân” của tác giả Trần Thị Bích Trƣơng, năm 2014, khoa luật đại

học quốc gia Hà Nội; luận văn tiến sĩ “Nguyên tắc công bằng trong pháp luật
thuế TNCN ở Việt Nam năm 2012” của tác giả Trần Minh Đức, năm 2012,
Viện khoa học xã hội Hà Nội, hay luận văn thạc sĩ nghiên cứu về tổng thể các
nguyên tắc thuế của Việt Nam “Các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế”của
tác giả Trần Thị Khánh Huyền, năm 2014, Khoa luật đại học quốc gia Hà Nội.
Ngoài ra, nguyên tắc công bằng còn đƣợc thể hiện trong các sách
chuyên khảo, các công trình nghiên cứu liên quan đến nguyên tắc công bằng
trong từng sắc thuế nhƣ Trần Minh Đức 2008 “Một số vấn đề về nguyên tắc
công bằng trong pháp luật về thuế TNCN”, Tạp chí nhà nƣớc và pháp luật số

2


12, trang 56 – 60, hay những nghiên cứu dƣới góc độ bảo vệ quyền lợi của
ngƣời nộp thuế nhƣ TS. Nguyễn Thị Lan Hƣơng (2013), “Bảo đảm công
bằng và điều chỉnh quan hệ lợi ích khi sửa đổi luật thuế TNDN”, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, 08(240) và TS. Nguyễn Thị Lan Hƣơng (2014) “Về bảo
vệ quyền của người nộp thuế trong Luật Quản lý thuế”, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Luật học, tập 29, (1), tr.42-50.
Nhƣ vậy qua những nghiên cứu nói trên có thể thấy nguyên tắc công bằng
đã đƣợc nghiên cứu khá nhiều, tuy nhiên chƣa có một nghiên cứu nào mang tính
tổng quan về nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế nói chung ở Việt Nam.
Đặc biệt trong tình hình thay đổi liên tục các sắc thuế nhƣ hiện nay.
Bên cạnh đó, với những ý kiến, nhận thức mang tính cá nhân hy vọng
có thể đem lại những kết quả thiết thực cho chính bản thân và đặc biệt đối với
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Với sự đầu tƣ thích đáng, tác giả hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ là một
tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu, luận văn sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu cơ sở lý

luận và thực tiễn của nguyên tắc công bằng và biểu hiện của nó từ việc xây dựng
và áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam. Từ đó, đánh giá những điểm mạnh và
điểm yếu của pháp luật thuế dƣới góc nhìn nguyên tắc công bằng và bảo vệ
quyền lợi của ngƣời nộp thuế. Luận văn nghiên cứu trên cơ sở cụ thể các vấn đề
về Thuế TNCN và thuế TNDN đại diện cho thuế trực thu, Thuế GTGT và thuế
TTĐB đại diện cho thuế gián thu, kết hợp đánh giá luật quản lý thuế trong quá
trình thực hiện hành thu với những biện pháp cụ thể liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của ngƣời nộp thuế nhƣ biện pháp bồi thƣờng thiệt hại, truy thu, khấu
trừ và hoàn thuế nhìn nhận trong mối quan hệ với một sắc thuế cụ thể.
Về thời gian nghiên cứu, luận văn tập trung đánh giá thực tiễn áp dụng
các luật thuế trong phạm vi nghiên cứu giai đoạn gần đây nhất từ 2010 – 2017.

3


4. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hƣớng đến phân tích biểu hiện của nguyên tắc công bằng
trong pháp luật thuế đồng thời đánh giá đƣợc những bất cập của pháp luật dựa
trên nguyên tắc công bằng. Tập trung đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật
thuế ở Việt Nam nhằm bảo đảm quyền lợi ngƣời nộp thuế và đƣa ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật thuế trên những định hƣớng chung.
Mục tiêu cụ thể:
- Hiểu đúng nội hàm của công bằng và nguyên tắc công bằng trong
pháp luật thuế.
- Đánh giá thƣ̣c tra ̣ng pháp lu ật và thực tiễn thi hành nguyên tắc công
bằng trong pháp luật thuế ở Việt Nam.
- Đề xuấ t ki ến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi
ngƣời nộp thuế trên cơ sở định hƣớng chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả sẽ dùng các phương pháp nghiên cứu

luật học gồm: Phƣơng pháp phân tích quy phạm để đánh giá các quy định của
pháp luật thuế, làm rõ đƣợc những điểm tích cực và tiêu cực, từ đó hiểu đƣợc
ý tƣởng của các nhà làm luật. Đồng thời kết hợp với phƣơng pháp phân tích
vụ việc nhằm đánh giá thực trạng của nguyên tắc công bằng trong pháp luật
thuế để có đánh giá đúng đắn về quy định của luật pháp và tính hiệu quả của
nó. Đánh giá đƣợc tính hiệu lực và tính hiệu quả của pháp luật thuế trong giai
đoạn hiện nay ở Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn còn dùng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đề tài sẽ kế thừa, tổng kết lại những
kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan đế n pháp lu ật thuế và những
quan điểm về công bằng và nguyên tắc công bằng. Tuy nhiên, đó không đơn
giản là sự sao chép mà là sự kế thừa có chọn lọc trên cơ sở các phân tích, bình

4


luâ ̣n để th ể hiện góc nhìn mới, trực diện các vấ n đề . Từ đó, có cái nhìn tổng
quan về nguyên tắc công bằng trong áp dụng và xây dựng các luật thuế nội
dung mà cụ thể là 4 sắc thuế tiêu biểu đại diện cho thuế trực thu và thuế gián
thu trong mối quan hệ qua lại hoặc với luật quản lý thuế trong đặt hệ thống
pháp luật thuế nói chung.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: Trong quá trình nghiên cứu, để làm rõ
vấn đề, tác giả sẽ tiến hành so sánh những đánh giá và ý kiến khác nhau, từ
góc độ kinh tế đến góc độ luật pháp về nguyên tắc công bằng. Đồng thời so
sánh pháp luật thuế gián thu và pháp luật thuế trực thu của Việt Nam, pháp
luật thuế trong thời kì gần đây, phạm vi công bằng của luật đƣợc biểu hiện
nhƣ thế nào. Cuối cùng nhìn nhận và so sánh với các nƣớc trên thế giới, đánh
giá xu hƣớng các quốc gia để nhìn nhận một cách đúng đắn nhất về đề tài
trong phạm vi nghiên cứu của Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Đề tài là công trình nghiên cứu đƣợc trình bày một cách tƣơng đối về
hệ thống và toàn diện về pháp luật thuế ở Việt Nam trên cơ sở của nguyên tắc
công bằng. Các kết quả đạt đƣợc trong luận văn nhằm cung cấp những luận
cứ khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế đặt trong mối quan hệ với
pháp luật khác. Hƣớng tới xây dựng pháp luật thuế đảm bảo trách nhiệm với
nguồn thu Nhà nƣớc nhƣng không ảnh hƣởng đến nguyên tắc công bằng trong
một giới hạn nhất định.
7. Kết cấu luận văn
- Chương 1: Lý luận về nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế.
- Chương 2: Thực trạng của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế
ở Việt Nam
- Chương 3: Định hƣớng hoàn thiện pháp luật thuế và một số kiến nghị
nhằm tăng cƣờng nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế ở Việt Nam.

5


Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG
TRONG PHÁP LUẬT THUẾ
1.1. Khái niệm nguyên tắc công bằng
Công bằng là một khái niệm tồn tại từ rất sớm, và đƣợc nhìn nhận từ
nhiều khía cạnh khác nhau. Theo TS. Ngô Thị Mỹ Dung đã từng nhận định
thì công bằng (công lý) là một khái niệm căn bản của đạo đức học, của triết
học pháp quyền, triết học xã hội cũng nhƣ của đời sống chính trị, xã hội, tôn
giáo và pháp luật [19, tr.3].
Ngoài ra, công bằng còn đƣợc coi là đạo đức - pháp quyền, đồng thời
cũng là khái niệm chính trị - xã hội. Khái niệm công bằng bao hàm trong nó
yêu cầu về sự phù hợp giữa vai trò thực tiễn của cá nhân (nhóm xã hội) với
địa vị của họ trong đời sống xã hội, giữa những quyền và nghĩa vụ của họ,

giữa làm và hƣởng, giữa lao động và sự trả công, giữa tội phạm và sự trừng
phạt, giữa công lao và sự thừa nhận của xã hội. Sự không phù hợp trong mỗi
quan hệ đó đƣợc xem là sự bất công [19, tr.8].
Tóm lại, công bằng dù đƣợc diễn đạt bằng những cách hiểu nào thì nó
vẫn là một kiểu trạng thái lý tƣởng mà xã hội hiện đại muốn hƣớng đến.
Trong đó các vấn đề về lợi ích, trách nhiệm và cơ hội đƣợc nhìn nhận cũng
nhƣ phân chia một cách phù hợp nhất.
“Nguyên tắc” theo từ điển Từ và Ngữ Việt Nam thì (nguyên là gốc, tắc
là phép tắc) là điều cơ bản đã đƣợc quy định, nhất thiết phải tuân thủ theo,
dùng làm cơ sở cho mối quan hệ xã hội. Nguyên tắc còn là những điều cơ bản
rút ra từ thực tế khách quan để chỉ đạo hành động [35, tr.1292]. Theo từ điển
Viện ngôn ngữ học thì“nguyên tắc” là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân
theo trong một loạt việc làm [42, tr.894].

6


Qua các cách tiếp cận trên cho thấy, “nguyên tắc công bằng” là cơ sở,
là điều kiện và mục đích hƣớng tới trong mọi hoạt động trong xã hội kể cả
trong lĩnh vực lập pháp và hành pháp. Nguyên tắc công bằng cùng với
những nguyên tắc khác tạo nên bộ những nguyên tắc cơ bản mà pháp luật
cần tuân thủ.
Nguyên tắc công bằng lần đầu tiên đƣợc nhắc đến một cách mạnh mẽ
nhất trong Bản tuyên ngôn nhân quyền năm 1789. Và sau này đƣợc nhìn nhận
rộng rãi với những phạm vi khác nhau trong từng quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đối với Việt Nam nói riêng, nguyên tắc công bằng đã nhiều lần đƣợc
khẳng định trong các văn kiện quan trọng nhƣ Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
VIII năm 1996 đã xác định rõ nhiệm vụ đảm bảo công bằng là động lực và
nội dung của sự đổi mới “Dân giàu, nước mạnh. Xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” đồng thời tiếp tục đƣợc thể hiện rõ nét trong những chính sách của

Đảng trong những kỳ tiếp theo. Đặc biệt nguyên tắc còn đƣợc thể hiện một
cách mạnh mẽ trong Hiến Pháp - văn bản pháp quy quan trọng nhất nƣớc Việt
Nam Xã hội chủ nghĩa cho đến ngày nay. Từ đó thể hiện đƣợc tƣ tƣởng mới
của Đảng và Nhà nƣớc ta trong việc đảm bảo nguyên tắc công bằng trong xã
hội bằng các động thái công bằng trong pháp luật.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc công bằng trong pháp
luật thuế
1.2.1. Khái niệm nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế
Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế có nghĩa là mọi đối tƣợng
có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế và mọi ngƣời có điều kiện liên quan
đến thuế nhƣ nhau thì phải đƣợc đối xử về thuế nhƣ nhau. Tính công bằng
vẫn đƣợc đảm bảo trong cả trƣờng hợp có sự khác nhau về điều kiện, thể hiện
ở việc nếu có điều kiện khác nhau thì những đối tƣợng khác nhau nhƣng cùng
loại thì phải đƣợc đối xử với nhau tƣơng ứng. Các đối tƣợng nhƣ nhau phải

7


nộp những loại thuế giống nhau và những đối tƣợng khi có đủ điều kiện để
đƣợc khuyến khích, ƣu đãi về thuế cũng đƣợc hƣởng sự đối xử tƣơng ứng[60].
Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế là những tƣ tƣởng, định
hƣớng chủ đạo, đúng đắn, khách quan và khoa học, đƣợc quy định cụ thể
trong pháp luật thuế từ quy định về chủ thể có nghĩa vụ, đối tƣợng chịu thuế,
thu nhập tính thuế đến thuế suất và công tác hành thu.
Nhƣ ta đã phân tích, công bằng và nguyên tắc công bằng là một điều
kiện và cũng là trạng thái muốn hƣớng đến của pháp luật thuế, nên tính công
bằng từ lý luận và thực tiễn một số nộ dung chỉ dừng lại mức tƣơng đối.
Tiêu thức để có thể đánh giá tính công bằng của một hệ thống thuế phải
dựa nguyên tắc công bằng theo chiều ngang và nguyên tắc công bằng theo
chiều dọc. Cụ thể, hệ thống thuế đƣợc coi là bằng theo chiều ngang nếu các cá

nhân về mọi mặt đều nhƣ nhau thì đƣợc đối xử ngang nhau trong việc thực
hiện nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, nguyên tắc này trong thực tế rất khó thực hiện
vì pháp luật thuế không chỉ rõ những tiêu chí cụ thể để xác định các chủ thể
nhƣ thế nào là nhƣ nhau, mặt khác cũng không chỉ rõ việc đối xử nhƣ nhau
trong điều chỉnh việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế là nhƣ thế nào.
Khác với nguyên tắc công bằng theo chiều ngang, một hệ thống thuế
đƣợc coi là công bằng theo chiều dọc nếu ngƣời có khả năng nộp thuế nhiều
hơn thì phải nộp thuế cao hơn ngƣời khác. Tức là nghĩa vụ nộp thuế đƣợc xây
dựng có sự phân biệt giữa những chủ thể có những khác biệt bẩm sinh, trình
độ, năng lực hoặc các điều kiện sống khác nhau.
Nguyên tắc tắc công bằng đƣợc nhìn nhận với tƣ cách là nguyên tắc
đánh thuế trong kinh tế học và nguyên tắc xây dựng chính sách thuế và
pháp luật thuế. Đƣợc pháp luật ghi nhận và cụ thể hóa không chỉ trong các
luật thuế nội dung mà còn trong luật quản lý thuế đặt trong những các chế
tài xử lý vi phạm nhằm tăng cƣờng nguyên tắc công bằng nói chung. Đặc

8


biệt đây là nguyên tắc có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bình đẳng, là
nguyên tắc xƣơng sống trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật thuế.
Trong đó công bằng đƣợc cụ thể hóa một cách tƣơng đối hoặc tuyệt đối từ
những quy định về chủ thể nộp thuế, quy định về thu nhập chịu thuế, thuế
suất và các quy định miễn giảm thuế trong các sắc thuế nội dung. Cũng nhƣ
cụ thể hóa trong chính các nguyên tắc quản lý thuế, quyền của ngƣời nộp
thuế và nghĩa vụ của cơ quan thuế trong quá trình từ thu nộp, thanh tra,
kiểm tra thuế,.. trong luật thuế thủ tục.
1.2.2. Đặc điểm của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế
Nguyên tắc công bằng đƣợc đảm bảo bằng việc gắn chặt chính sách
thuế với chế độ dân chủ và nhà nƣớc pháp quyền. Là một trong những nguyên

tắc tạo thành hệ thống quan điểm chỉ đạo và chi phối sâu sắc đến việc ban
hành, sửa đổi, bổ sung cũng nhƣ thay thế hệ thống văn bản pháp luật thuế. Có
tác động tích cực đến vị trí và vai trò của các văn bản pháp luật thuế, vừa là
cơ sở tƣ tƣởng ban đầu đảm bảo thuế đƣợc xây dựng hợp pháp và hợp lý, vừa
là cơ sở đảm bảo pháp luật đi vào thực tế đời sống nhân dân. Nguyên tắc đƣợc
cụ thể hóa trong Pháp luật thuế, chính sách Thuế của Nhà nƣớc và quy định
thực thi thông qua đó bảo đảm điều chỉnh hài hòa lợi ích ngƣời nộp thuế thực
hiện đƣợc nghĩa vụ của mình đối với lợi ích chung, bên cạnh trách nhiệm của
nhà nƣớc về xây dựng nền tảng và điều kiện sống phù hợp cho ngƣời dân.
Đặc biệt, đây là nguyên tắc định hƣớng và là tƣ tƣởng cốt lõi nhằm thực hiện
tốt nhất ý nghĩa bên trong của thuế, không để “thuế má thu đến tơ tóc, mà
dùng của cải nhƣ bùn đất” nhƣ cách diễn tả về thuế Việt Nam trong những
năm phong kiến. Cuối cùng đó chính là sự đồng nhất về tƣ tƣởng và hƣớng
đến xây dựng một xã hội tiến bộ hơn.
Có thể nói trong lịch sử phát triển của thuế tồn tại rất nhiều quan điểm
khác nhau về quyền lợi và trách nhiệm trong thuế. Nên nguyên tắc công bằng
cũng đƣợc nhìn nhận trong phạm vi không giống nhau.
9


Trong luận văn này tác giả tập trung nghiên cứu nguyên tắc công bằng
ở những học thuyết hiện đại về thuế, từ học thuyết về thuế - trao đổi, học
thuyết về thuế - đoàn kết và sau nữa là học thuyết về thuế - bù đắp đặt trong
quan điểm pháp luật thuế Việt Nam.
Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế đƣợc thể hiện khá toàn diện
về mặt lý luận
Thứ nhất, chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế
Nghĩa vụ nộp thuế đƣợc xem là nghĩa vụ của mọi cá nhân, và tổ chức.
Điều 47 Hiến pháp 2013 đã chỉ rõ “mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo quy
định”. Khác với quy định tại Điều 80, Hiến pháp 1992, Quy định này đã

khẳng định nghĩa vụ nộp thuế không chỉ dừng lại đối với đối tƣợng là “công
dân” mà là nghĩa vụ chung của tất cả “mọi ngƣời”. Đó có thể là cá nhân cƣ
trú hay không cƣ trú, là hộ gia đình kinh doanh, hợp tác xã, là doanh nghiệp
thành lập theo quy định Luật doanh nghiệp Việt Nam, hay doanh nghiệp
nƣớc ngoài... chỉ cần có thực hiện hoạt động kinh doanh hoặc có thu nhập
chịu thuế phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam, có hoạt động thụ hƣởng đến các
đối tƣợng chịu thuế, thì tất yếu hình thành nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà
nƣớc một cách trực tiếp hay gián tiếp. Tức là, nghĩa vụ nộp thuế đƣợc xây
dựng dựa trên cơ sở chủ yếu là thu nhập chịu thuế và đối tƣợng chịu thuế
nên buộc mọi chủ thể phải thực hiện một phần nghĩa vụ với nhà nƣớc mà
không có sự phân biệt giữa cá nhân và tổ chức, không phân biệt giới tính,
tôn giáo, trình độ học vấn, dân tộc...
Câu hỏi đặt ra là vì sao phải nộp thuế? Cần quy định trách nhiệm nộp
thuế của tổ chức và cá nhân nhƣ thế nào?
Đầu tiên có thể khẳng định, nhà nƣớc và sự tồn tại của nhà nƣớc là một
nhu cầu khách quan mang tính lịch sử. Và thu thuế có thể xem là công cụ
nhằm tạo lập tài chính chủ yếu của nhà nƣớc. Thuế là cơ sở để nhà nƣớc có

10


thể duy trì và tồn tại lâu dài, là nguồn tài chính để nhà nƣớc chi tiêu và xây
dựng hạ tầng cần thiết. Từ đó, tạo môi trƣờng sống và điều kiện sống cơ bản
cho ngƣời dân.
Có thể thấy bản chất của nhà nƣớc là một thực thể đặc biệt. Hay Nhà
nƣớc tồn tại trong xã hội nhƣng lại đƣợc tách ra khỏi xã hội cũng nhƣ tách
khỏi lao động sản xuất. Nhà nƣớc tách ra khỏi xã hội nhằm đảm bảo vị trí
quản lý của mình đồng thời tự mình tách ra khỏi mỗi quan hệ lao động sản
xuất nhằm tạo môi trƣờng lao động lành mạnh nhất, đảm bảo tính cạnh tranh
công bằng nhất. Từ đó tránh trƣờng hợp cạnh tranh bất cân xứng giữa một

bên là “Nhà nƣớc” với một bên là tổ chức và cá nhân, nhằm xây dựng mối
quan hệ bình đẳng cần thiết trong nền kinh tế.
Ngoài khoản tài chính từ thuế, Nhà nƣớc ta có thể tạo nguồn thu ngân
sách từ các khoản phí, lệ phí, các khoản đóng góp, ủng hộ, hoặc vay từ các
chủ thể khác. Tuy nhiên, vì những nguồn tài chính này không mang tính ổn
định nên thuế có thể xem là công cụ khả thi trong việc tạo nguồn thu quan
trọng nhất trong ngân sách nhà nƣớc.
Bên cạnh đó, thu thuế còn giúp nâng cao trách nhiệm cộng đồng. Theo
đó, mỗi cá thể trong một cộng đồng lớn ngoài việc hƣởng dụng những lợi
ích của xã hội còn phải gánh vác một phần trách nhiệm đối với đồng loại; hy
sinh một phần lợi ích của mình để chia sẻ với những cá thể còn gặp khó
khăn. Cũng nhƣ, gánh vác một phần trách nhiệm với nhà nƣớc, có ý thức tự
giác hơn với những giá trị vật chất và tinh thần mà mình đƣợc thụ hƣởng.
Cuối cùng nâng cao ý thức về pháp luật - một phần không thể thiếu trong xã
hội có nhà nƣớc.
Thứ hai, trách nhiệm nộp thuế theo thu nhập chịu thuế và đối tượng
chịu thuế.
Theo đó, trách nhiệm nộp thuế đƣợc xác định dựa trên khả năng nộp

11


thuế của chủ thể. Tính công bằng ở đây có thể hiểu là việc thu nộp thuế phụ
thuộc rất lớn vào khả năng trả thuế của ngƣời nộp thuế. Khác với các kiểu nhà
nƣớc phong kiến trƣớc đây, những quy định của pháp luật về thuế do Nhà
nƣớc đặt ra đảm bảo sau khi thực hiện trách nhiệm với nhà nƣớc, ngƣời nộp
thuế không bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa. Khả năng trả thuế là cơ sở để
các nhà hoạch định, các nhà làm luật áp dụng đối với những chủ thể vừa đảm
bảo khả năng nộp đủ thuế NSNN vừa không gây quá nhiều áp lực tài chính
đối với các chủ thể để tiếp tục sản xuất kinh doanh, tạo động lực hình thành

thu nhập mới.
Xây dựng pháp luật về thuế căn cứ vào khả năng nộp thuế, tức là những
ngƣời có thu nhập khác nhau, thì khoản thuế phải đóng không giống nhau.
Từ đó, Nhà nƣớc đảm bảo quyền thu thuế đồng thời đảm bảo tính hợp
lý cần thiết. Không đƣợc quy định bất hợp lý những khoản thu nhằm lạm thu
quyền thu thuế cũng nhƣ đảm bảo tính phù hợp với đặc trƣng của nền kinh tế
hiện đại hiện nay khi mà sự phân biệt giàu nghèo ngày càng sâu sắc, nền kinh
tế thị trƣờng có nhiều ảnh hƣởng có thể làm chệch hƣớng, hoặc tiêu cực hóa
các quan hệ kinh tế hiện có.
Thứ ba, áp dụng chính sách ưu đãi thuế đối với một số chủ thể đặc biệt
Bên cạnh việc đề cao nghĩa vụ nộp thuế của ngƣời nộp thuế, Nhà
nƣớc còn ban hành những chính sách nhằm xây dựng một pháp luật tối cao
nhƣng không loại trừ đi tính nhân đạo của nó. Tức là, bằng các biện pháp
tài chính, các chính sách pháp luật, Nhà nƣớc vừa đảm bảo duy trì nguồn
thu tài chính nhƣng phải đảm bảo quyền con ngƣời trong tạo lập tài sản và
duy trì điều kiện vật chất, duy trì cuộc sống không đẩy con ngƣời ra khỏi
chính sách của pháp luật.
Về bản chất, những trƣờng hợp đƣợc miễn giảm thuế vẫn là đối tƣợng
phải chịu thuế. Tức là, họ vẫn phải đăng kí thuế và kê khai thuế để nhà nƣớc

12


quản lý nhƣng không phải nộp hoặc đƣợc giảm một khoản tài chính trong một
thời gian nhất định hoặc trong suốt thời gian hoạt động. Những quy định này
trong một số trƣờng hợp đƣợc xem nhƣ công cụ để điều tiết vĩ mô, điều tiết
chi tiêu, kích thích tiêu dùng cũng nhƣ khích lệ ngƣời nộp thuế đầu tƣ, kinh
doanh hoặc sản xuất những mặt hàng, những lĩnh vực hay khu vực kinh tế
khó khăn và đặc biệt khó khăn. Ngoài ra, trong một số trƣờng hợp khác, việc
miễn giảm thuế lại đƣợc xem nhƣ một biện pháp chính sách xã hội nhằm hỗ

trợ một số trƣờng hợp ngƣời nộp thuế rơi vào hoàn cảnh khó khăn do thiên tai,
hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc các trƣờng hợp bất khả kháng khác. Quy định
mang đối với một số trƣờng hợp chuyên biệt này đƣợc xem nhƣ động thái từ
Nhà nƣớc, Nhà nƣớc luôn đặt quyền lợi của ngƣời nộp thuế trong lợi ích
chung và thay vì phải sử dụng những chính sách xã hội khác thì Nhà nƣớc sử
dụng quy định miễn giảm thuế để hỗ trợ gián tiếp đối với ngƣời nộp thuế.
Nhìn chung, việc quy định về miễn giảm thuế đƣợc xem nhƣ biện pháp
mang tính hỗ trợ của nhà nƣớc đối với ngƣời nộp thuế trong mối quan hệ về
nghĩa vụ với nhà nƣớc. Mà nếu nhƣ xét về khả năng trả thuế nhƣ mục trên đã
phân tích thì những trƣờng hợp này không đảm bảo tính công bằng về kinh tế
và tính hoàn trả tài chính; nhƣng nếu nhìn một cách bản chất hơn, thì đó vẫn
là công bằng, công bằng đặt trong chính sách xã hội. Công bằng trong bối
cảnh phát triển của mỗi quốc gia. Đặc biệt những trƣờng hợp miễn giảm này
đƣợc quy định chung, mang tính lâu dài nên bất kì một đối tƣợng nào thỏa
mãn các điều kiện đều có thể đƣợc miễn giảm thuế nhƣ những đối tƣợng khác,
mà không có sự phân biệt.
Có thể thấy, tính công bằng trong trƣờng hợp này chỉ mang tính tƣơng
đối nhằm thực hiện các chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Thứ tư, áp dụng các phương pháp đánh thuế đảm bảo sự công bằng
Để đảm bảo tính công bằng trong việc đánh thuế, Nhà nƣớc không chỉ

13


dựa vào những quy định mang tính nội dung mà còn dựa vào những cách thức
mang tính kỹ thuật trong việc đánh thuế. Tính thuế dựa trên khả năng tài
chính và không tận thu với ngƣời nộp thuế nhằm đi đúng định hƣớng phát
triển chung của nƣớc ta cũng các nƣớc trên thế giới. Trong việc đánh thuế,
nhà nƣớc ta đã có sự phối hợp các phƣơng thức đánh thuế sau
Xét về phương thức chung: kết hợp đánh thuế trực thu và thuế gián thu.

Đây là phƣơng thức nhằm đảm bảo việc đánh thuế không chỉ tập trung vào
điều tiết thu nhập của tổ chức, cá nhân tiêu dùng mà còn là công cụ để phân
phối thu nhập. Phát huy vai trò cơ sở của từng loại thuế. Từ việc phân chia
này, Nhà nƣớc có sự điều chỉnh kết hợp nhằm đảm bảo nguồn thu NSNN luôn
ổn định. Một khi có những quy định giảm đánh thuế đối với thuế trực thu thì
nhất thiết phải tăng thuế gián thu và ngƣợc lại.
Xét về phương pháp kĩ thuật: tính thuế trên biểu thuế lũy tiễn từng phần
và đánh thuế trên tỷ lệ phần trăm.
Về biểu thuế lũy tiến từng phần, thuế suất đƣợc đánh trên phần tăng
thêm của thu nhập tính thuế. Nên tính công bằng đƣợc đảm bảo một cách
tối đa. Thuế suất tăng hoặc giảm phụ thuộc vào mức thu nhập và giới hạn
thu nhập Nhà nƣớc quy định để áp dụng thuế. Chính vì thuế mà thuế suất
đối với phƣơng pháp này không tuyệt đối mà chỉ áp dụng trong từng phần,
tạo nên tính áp sát về tăng lên của thuế theo nấc thang tỷ lệ. Đây là một
phƣơng pháp khá phức tạp, vì vậy hiện nay pháp luật thuế Việt Nam chỉ áp
dụng đối với thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân cƣ trú có thu nhập từ
tiền lƣơng, tiền công.
Về phƣơng pháp đánh thuế theo tỷ lệ phần trăm, đây là phƣơng thức
khá phổ biến. Áp dụng trực tiếp với một tỷ lệ phần trăm thuế suất mang tính
tuyệt đối phù hợp đối với từng loại thu nhập tính thuế hoặc từng doanh thu từ
hoạt động kinh doanh. Tính công bằng trong phƣơng pháp này không đƣợc áp

14


sát nhƣ phƣơng pháp tính thuế theo lũy tiễn từng phần nhƣng đảm bảo tính
quản lý của Nhà nƣớc.
Thứ năm, đối xử với người nộp thuế như nhau trong quá trình thực
hiện thủ tục thu nộp thuế
Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế đƣợc hiểu bằng sự bảo đảm

công bằng giữa những ngƣời nộp thuế trong quá trình thu nộp thuế. Cơ quan
thuế có nhiệm vụ bảo đảm công bằng trong việc xác định nghĩa vụ nộp thuế
bằng các thủ tục theo Luật quản lý thuế. Bảo đảm công bằng, không phân biệt
đối xử giữa các đối tƣợng đƣợc quy định là ngƣời nộp thuế trong quá trình ấn
định thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế, xóa nợ thuế cũng nhƣ các khoản tiền
phạt, kiểm tra, thanh tra thuế, cƣỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
Ngoài ra, đó còn là sự bảo đảm bình đẳng về vị trí của ngƣời nộp thuế
trƣớc pháp luật và bình đẳng trong quan hệ với cơ quan thuế nhân danh nhà
nƣớc thực hiện quyền thu thuế.
Điều 47, Hiến pháp 2013 quy định “mọi công dân bình đẳng trước
pháp luật”, bên cạnh quyền “công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước
và xã hội (Điều 53). Tức là, để đảm bảo quyền lợi của ngƣời nộp thuế, cơ
quan thuế có nghĩa vụ tạo môi trƣờng bình đẳng về pháp luật; và ngƣợc lại,
ngƣời nộp thuế cũng phải thực hiện những nghĩa vụ của mình đối với cơ quan
thuế - chủ thể đại diện cho Nhà nƣớc. Trong mối quan hệ này Nhà nƣớc
không đè nặng áp lực phụ thuộc hay bị động vào một phía. Ngƣời nộp thuế
đƣợc hỗ trợ, hƣớng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin và tài liệu
để thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi và nghĩa vụ về thuế; đƣợc yêu cầu cơ quan
quản lý thuế giải thích về việc tính thuế, ấn định thuế; yêu cầu cơ quan hải
quan xác định trƣớc mã số, trị giá hải quan. Đặc biệt đƣợc cơ quan thuế đảm
bảo về bí mật thông tin theo quy định của pháp luật, cũng nhƣ hƣởng các ƣu
đãi về thuế, hoàn thuế, bồi thƣờng thiệt hại theo quy định. Bên cạnh đó, ngƣời

15


nộp thuế phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, phối hợp và cung cấp thông tin
trong quá trình thuộc đối tƣợng thanh tra, kiểm tra. Đối với những trƣờng hợp
các chủ thể trong quan hệ pháp luật thuế có các hành vi vi phạm pháp luật
thuế thì Nhà nƣớc buộc thực hiện những chế tài tƣơng ứng với những hành vi

vi phạm. Tùy vào mức độ của hành vi mà thực hiện phạt vi phạm hành chính
hay phạt vi phạm hình sự một cách minh bạch và công bằng dựa mà không có
sự phân biệt. Không để trƣờng hợp chủ thể vi phạm pháp luật thuế và chủ thể
tuân thủ đƣợc đối xử nhƣ nhau. Buộc mỗi chủ thể trong quan hệ có trách
nhiệm đối với Nhà nƣớc và trách nhiệm đối với thái độ trƣớc pháp luật của
mình. Cuối cùng, công bằng chính là cơ sở để xây dựng một pháp luật thuế
mà cơ quan thuế vừa là chủ thể đại diện nhà nƣớc, có quyền lực nhà nƣớc,
nhƣng cũng là tổ chức thực hiện “dịch vụ”.
Trong quan hệ pháp luật thuế Nhà nƣớc bảo đảm quyền lợi đối với bất
kể là đối tƣợng nào bất kể đó là nhóm đối tƣợng số ít và thiểu số. Các chủ thể
trong pháp luật thuế không chỉ có nghĩa vụ đối với nhà nƣớc, không chỉ đặt
vào vị trí công bằng đối trong một giới hạn nhất định; mà các chủ thể còn có
nghĩa vụ nhƣ nhau, đƣợc nhà nƣớc nhìn nhận nhƣ nhau một cách công bằng
nhất. Bắt đầu bằng những sự kiện pháp lý từ đăng kí doanh nghiệp, đăng ký
mã số thuế đến các hoạt động mang tính thủ tục đến các thủ tục trong quá
trình ấn định thuế kê khai thuế hay trong những quyền lợi về khấu trừ và hoàn
thuế, miễn giảm, xóa nợ thuế cũng nhƣ trong việc thực hiện chế tài trong xử
phạt vi phạm về thuế các chủ thể đều đƣợc đối xử một cách công bằng.
1.3. Ý nghĩa, vị trí, vai trò của nguyên tắc công bằng trong pháp
luật thuế
Nguyên tắc công bằng bên cạnh những nguyên tắc cơ bản khác trong
xây dựng pháp luật thuế Việt Nam có ý nghĩa trụ cột trong quá trình hình
thành và xây dựng luật pháp một cách thống nhất và đúng định hƣớng. Với

16


tính chất là 1 trong 5 nguyên tắc cơ bản của pháp luật thuế. Nguyên tắc công
bằng có thể nói là nguyên tắc mang tính nội dung duy nhất so với những
nguyên tắc quy định và đánh giá hình thức của pháp luật thuế.

Xuất phát từ hiện thực khách quan dƣới cái nhìn chủ quan của tri thức
khoa học. Nguyên tắc công bằng đã thể hiện đƣợc tính khách quan của nó.
Chính điều này đã tạo điều kiện cơ bản để các nhà làm luật có thể xây dựng
đƣợc một hệ thống pháp luật phù hợp và không đi lệch hƣớng với những mục
tiêu ban đầu. Xây dựng đƣợc một pháp luật vừa hiệu lực vừa hiệu quả. Đồng
thời trong mối quan hệ với ngƣời nộp thuế, nguyên tắc công bằng cũng có tác
động tích cực đến khả năng tiếp cận và nhìn nhận những quy định của Pháp
luật nói chung và Pháp luật về thuế nói riêng. Từ đó nâng cao trách nhiệm của
ngƣời nộp thuế đối với Nhà nƣớc.
Cũng vì đƣợc xem là thuộc tính mang tính nền tảng, là nguyên lý xuyên
suốt toàn bộ quá trình xây dựng Pháp luật, chi phối toàn bộ hoạt động của
Nhà nƣớc nên Bác Hồ đã từng khẳng định “nguyên tắc của ta thì phải vững
chắc, chính sách của ta thì phải linh hoạt”.
Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế đóng vai trò rất lớn trong
việc thúc đẩy tính bình đẳng. Là một trong những động lực thực hiện mục tiêu
xây dựng nhà nƣớc “công bằng - dân chủ - văn minh”.
Xem xét tính công bằng giữa những chủ thể sẽ giúp cho pháp luật vừa
hợp tình, vừa hợp lý; đảm bảo công bằng nhƣng không cào bằng; đảm bảo lợi
ích của cả số đông và cả số ít; cũng nhƣ công bằng giữa nhóm đa số và nhóm
thiểu số. Nhìn nhận pháp luật một cách đúng đắn, tạo lòng tin đối với những
chủ thể có nghĩa vụ và không để hình thành những tƣ tƣởng mang tính ỷ lại
hay so bì. Công bằng dựa trên năng lực và khả năng tài chính. Công bằng dựa
trên nhu cầu thụ hƣởng và nhu cầu cuộc sống tối thiểu. Từ đó tạo động lực
thực hiện pháp luật. Nâng cao nhận thức pháp luật và gánh vác chung đối với

17


xã hội. Đặc biệt công bằng thƣờng đi kèm với bình đẳng và công bằng đi kèm
với khách quan. Chính vì thế nguyên tắc này sẽ tạo ra môi trƣờng phát triển

lành mạnh với nền kinh tế vững vàng, theo định hƣớng phát triển tiến bộ.
Từ những phân tích trên đây, ta có thể khẳng định việc nghiên cứu
“nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế ở Việt Nam” không chỉ là sự
nghiên cứu rời rạc tính công bằng giữa các loại thuế mà nó phải đặt trong
tổng thể các sắc thuế không tách rời về cả hình thức và nội dung. Nên để
bảo vệ quyền lợi của ngƣời nộp thuế chính cũng nhƣ đảm bảo tính công
bằng trong thuế chính là sự giải quyết nghĩa vụ trong một giới hạn hợp lý
nhất giữa các sắc thuế.
Tóm lại, công bằng có vai trò là một trong những nguyên tắc xây dựng
pháp luật thuế cơ bản, đã và đang đƣợc thể hiện bao trùm và cụ thể hơn trong
pháp luật thuế từ mặt lý luận.Tuy nhiên xét về tính hiệu quả thì không thể chỉ
đánh giá một mặt chính sách của nhà nƣớc mà nó còn phụ thuộc rất lớn vào
trách nhiệm của mỗi cá nhân nộp thuế và ý thức tự nguyện của ngƣời nộp
thuế đối với pháp luật, cũng nhƣ đánh giá tính phù hợp của chính sách pháp
luật khi áp dụng vào đời sống thực tiễn. Có nhƣ thế, pháp luật thuế mới thực
sự là một luật sống có hiệu lực và có hiệu quả. Đồng thời đảm bảo không vi
phạm Hiến pháp và pháp luật khác có liên quan.

18


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Công bằng là một khái niệm căn bản của đời sống chính trị, xã hội, tôn
giáo và pháp luật. Là một trạng thái lý tƣởng mà xã hội hiện đại hƣớng đến.
Trong đó, các vấn đề về lợi ích, trách nhiệm và cơ hội đƣợc nhìn nhận và
phân chia một cách phù hợp. Công bằng vừa là mục tiêu vừa là chuẩn mực
trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, đƣợc xem là tƣ tƣởng chủ đạo trong
hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng.
Nguyên tắc công bằng đƣợc xem là sợi chỉ xuyên suất, là tƣ tƣởng chủ
đạo từ quá trình xây dựng và thực thi pháp luật thuế từ xác định trách nhiệm

chung đối với mọi chủ thể, nộp thuế theo khả năng trả thuế đến các quy định
mang tính kỹ thuật về phƣơng pháp thuế suất và các chính sách ƣu đãi về
thuế. Nguyên tắc công bằng đảm bảo quyền lợi của ngƣời nộp thuế, hƣớng tới
xây dựng pháp luật thuế vừa hiệu lực vừa hiệu quả. Thúc đẩy sự công bằng và
đi lên của đất nƣớc theo định hƣớng phát triển kinh tế - xã hội.
Nhìn nhận đúng về mặt lý luận của công bằng và nguyên tắc công bằng
sẽ là cơ sở để đánh giá đƣợc tính hoàn thiện của pháp luật thuế, từ đó đƣa ra
đƣợc định hƣớng và những kiến nghị phù hợp. Nguyên tắc công bằng không
chỉ thể hiện trong một luật thuế hay một số luật thuế mà nó là sự kết hợp giữa
các luật thuế dƣới cái nhìn thống nhất.

19


×