Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Tiểu LuậnKhủng Hoảng Nợ Dưới Chuẩn, Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Từ Khủng Hoảng Cho Hoạt Động Giám Sát Tài Chính Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (893.59 KB, 79 trang )

GVHD: TS. Diệp Gia Luật

CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm
5

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC



ĐỀ TÀI MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
KHỦNG HOẢNG NỢ DƯỚI CHUẨN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM
RÚT RA TỪ KHỦNG HOẢNG CHO HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
Khóa

: K21

Lớp

: Ngày 3

Nhóm
GVHD

5
: TS. Diệp Gia Luật

THÀNH VIÊN NHÓM
1.
2.


3.
4.
5.
6.

Nguyễn Thanh Quế Anh
Trần Đức Dương
Lê Thanh Điệp
Nguyễn Thị Hà
Trần Minh Hậu
Phạm Thị Hoà

Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”

7. Nguyễn Văn Phúc
8. Nguyễn Thị Thảo
9. Đỗ Minh Tuấn
10. Phạm Vũ Tuấn
11. Phạm Thị Vân ( nhóm trưởng )
12. Trần Thị Thanh Vân

Page 1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………..3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG..................................................................... 4
1.1 Các khái niệm & đặc điểm cảu tín dụng thứ cấp.......................................4
1.1.1 Khái niệm.......................................................................................4
1.1.2 Các đặc điểm của tín dụng thứ cấp................................................ 4

1.2 Nguyên nhân khủng hoảng tín dụng thứ cấp.............................................. 5
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNGTHỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG THỨ
CẤP.................................................................................................................... 11
2.1 Thực trạng khủng hoảngthị trường tín dụng thứ cấp tại Mỹ.................12
2.2 Thực trạng khủng hoảngthị trường tín dụng thứ cấp tại các nước khác, đặc biệt
là khu vực châu Âu...........................................................................................16
2.3 Tác động của khủng hoảng........................................................................17
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Ở VIỆT NAM 26
3.1 Ảnh hưởng khủng hoảng nợ của Mỹ đến Việt Nam.................................26
3.2 Bài học rút ra từ khủng hoảng vay dưới chuẩn Mỹ.................................31
3.3 Kiến nghị cho Việt Nam............................................................................. 35
3.3.1 Nguy cơ xảy ra khủng hoảng ở Việt Nam..................................... 35
3.3.2 Một số kiến nghị.......................................................................... 38
KẾT LUẬN....................................................................................................... 39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..40

Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”

Page 2


Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”

Page 3


LỜI MỞ ĐẦU
Hầu như không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào, khủng hoảng cho vay thế chấp
dưới chuẩn ở Mỹ đã bất ngờ nổ ra vào giữa năm 2007. Cuộc khủng hoảng này có tác
động mạnh đến cả hệ thống tài chính lẫn nền kinh tế thực. Các cơ quan điều tiết tài chính

của Mỹ, từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), Ủy ban Chứng khoán (SEC) cho tới Bộ Tài
chính đều đã phải vào cuộc nhằm giải quyết khủng hoảng.
Nguồn gốc ban đầu của cuộc khủng hoảng tồi tệ này là sự chứng khoán hoá các
khoản cho vay mua nhà không đủ tiêu chuẩn.
Thứ nhất, cơ chế cho vay đã bị đơn giản hoá, dựa hoàn toàn vào những đánh giá của
các công ty đánh giá mức độ tín nhiệm, dẫn đến nhiều khoản vay không đủ chuẩn.
Thứ hai, cơ chế chứng khoán hoá đã đánh đồng các khoản vay đủ chuẩn và không
đủ chuẩn, gây ra cả bong bóng nhà đất lẫn chứng khoán.



CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Các khái niệm và đặc điểm của tín dụng thứ cấp
1.1.1. hái niệm
Tín dụng xuất phát từ gốc từ Latinh: Gredittum - tức là tin tưởng, tín nhiệm. Tín
dụng được diễn giải theo ngôn ngữ Việt Nam là sự vay mượn. Trong thực tế tín dụng
hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất cứ dạng nào tín dụng cũng thể hiện 2
mặt cơ bản:
- Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác sử dụng
trong một thời gian nhất định.
- Đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu 1
giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữ kinh tế là lãi
suất.
Tín dụng thứ cấp còn gọi là cho vay dưới chuẩn, là các khoản cho vay các đối tượng
có mức tín nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không
có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không
tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ
đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn
chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn. Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro
tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn và còn bằng tài sản thế chấp.

1.1.2. Các đặc điểm của tín dụng thứ cấp
 Độ rủi ro cao
Tài sản thế chấp là tài sản hình thành từ nguồn tín dụng. Tài sản thế chấp cho các
khoản vay này thường chính là các bất động sản mà người vay vốn mua.
Hạn mức cho vay cao.
Thời hạn cho vay dài. Các khoản vay thế chấp này thường được kéo dài thời gian
trả nợ của người đi vay.
Lãi suất cao.
Khả năng chi trả và điểm tín dụng của người đi vay không được xét theo quy định.
Do vậy, khi thị trường suy thoái, những người đi vay dạng này không có điều kiện trả
nợ.
 Quá trình phân bổ rủi ro rộng



Hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn có quá trình lan truyền, phân bổ rủi ro
rộng do sau khi cho vay, ngân hàng chuyển nhượng khoản vay cho công ty cho vay thế
chấp. Sau đó, các công ty này thực hiện phát hành “trái phiếu tái thế chấp” chuyển
nhượng rộng rãi trên thị trường chứng khoán. Dưới hình thức này, người cho vay thực
(người nắm giữ “trái phiếu tái thế chấp”) và người đi vay không biết nhau.
Mức độ lan tỏa rủi ro rộng là do sự mua đi bán lại các công cụ tài chính phát sinh
kéo theo quá nhiều các thành phần đầu tư trong nước cũng như nước ngoài vào cuộc
chơi.
 Tính thanh khoản cao
Do những khoản vay đã được “trái phiếu hoá” thành sản phẩm tài chính thông
dụng có thể chuyển nhượng, mua bán dễ dàng và rộng rãi trên thị trường chứng khoán
nên tín dụng có tính thanh khoản cao.
1.2. Nguyên nhân khủng hoảng tín dụng thứ cấp
 Chính sách tiền tệ mở rộng của FED trong giai đoạn 2001-2004
Cuối năm 2001, khi nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái, FED đã liên tục cắt giảm lãi

suất. Chính sách tiền tệ mở rộng đã khuyếch trương các hoạt động kinh tế. Đến giữa năm
2002, nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhưng mối lo ngại về việc suy thoái có thể quay trở
lại đã khiến Chủ tịch FED, Alan Greenspan, và đồng nghiệp quyết định giữ nguyên lãi
suất chỉ đạo ở mức 1% trong suốt 2 năm 2003 và 2004.
Căn cứ vào “tín hiệu” của ngân hàng trung ương, lãi suất trên hầu khắp các thị
trường tài chính đều đã giảm mạnh. Đặc biệt, lãi suất đối với khoản vay cố định 30 năm
chỉ ở mức 4% đến 5%, thấp nhất trong vòng 40 năm qua.
Tháng 9.2001, FED cũng đã bơm một số tiền lên tới 38,25 tỷ USD vào hệ thống
ngân hàng Mỹ để duy trì sự lưu thông tiền tệ thông suốt và tuyên bố sẵn sàng bơm thêm
tiền nếu cần thiết. Bên cạnh đó khối lượng tín dụng còn được thúc đẩy bởi dòng vốn nước
ngoài chảy vào ổn định.
Như vậy với việc hạ lãi suất, bơm tiền vào nền kinh tế làm cho lượng cung tiền
tăng mạnh nhưng FED không hề thực hiện bất kỳ một biện pháp nào để “trung hòa hóa”
tác động của dòng vốn vào đối với cung tiền vì họ tin rằng nền kinh tế vẫn đang trong



quá trình phục hồi. Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế vào cuối năm 2002 làm
cho thu nhập cá nhân và lợi nhuận của công ty đều tăng lên đáng kể.
Biểu 1: Diến biến thay đổi lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường màu xanh)

Nguồn cung tiền tệ dồi dào dẫn đến việc bất cân đối về cung cầu tiền tệ và cho vay
dưới chuẩn là giải pháp để giải quyết bài toán về thừa vốn để tối đa hóa lợi nhuận. Việc
cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá đã dãn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín
dụng.
Những người dân có thu nhập thấp và mức tín dụng dưới chuẩn được vay tiền để
đầu tư vào thị trường bất động sản với hi vọng được giàu lên nhanh chóng mà không
nhận thức được rủi ro khi nhu cầu nhà đất chỉ là bong bóng cho đến khi rủi ro trở thành
khủng hoảng.
 Giá nhà tăng liên tục

Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả
lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Cuối năm 2002, hoạt động của thị trường
nhà ở diễn ra sôi động nhờ thu nhập cá nhân tăng, lãi suất cho vay thế chấp thấp và các



GVHD: TS. Diệp Gia Luật

CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm
5 chủ thể tham gia thị trường đều
khoản tín dụng dồi dào. Điều này đã khiến cho tất cả các
muốn tranh thủ kiếm lời.
Bong bóng bất động sản hình thành từ 3 nguyên nhân:
- Cục dự trử liên bang Mỹ nới lỏng chình sách tiền tệ. Nguồn vốn dồi dào từ thị
trường tại chính trong và ngoài nước.Cung tiền tăng, lãi xuất giảm đồng thời thực hiện
giải pháp cho vay dưới chuẩn để giải quyết bài toán thừa vốn và tối đa hóa lợi nhuận.
Tạo điều kiện cho người dân đi vay vốn mua bất động sản với hi vọng giàu lên nhanh
chóng khi bất động sản tăng giá.
- Công ty tài chính thực hiện chứng khoán hóa các khoản cho vay của ngân hàn
thương mại. Việc này diễn ra ngoài tầm kiểm soát của chính phủ vì việc mua bán bảo
hiểm diễn ra là vô cùng phức tạp.
- Việc thực hiện chứng khoán hóa lan rộng ra ngoài phạm vi của ngân hàn thương
mại mà tới các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Nguồn vốn trở nên rất dồi dào.
Với những lý do trên thị trường bất động sản trở nên nhộn nhịp. Những người có
thunhập thấp và diểm tín dụng dưới chuẩn vẫn có cơ hội vay tiền mua nhà với mức lãi
xuất cao hơn bình thường và dưới hình thức lãi xuất điều chỉnh.
Giá bất động sản tăng liên tục, với con mắt lạc quan các nhà đầu tư vẫn nhìn thấy
ánh sáng và cơ hội ở thị trường bất động sản và các nhà đầu tư vân tiếp tục có nhu cầu
mua MBS. Một phần, nhà đầu tư được trấn an bằng các hợp đồng bảo hiểm CDS từ các
công ty bảo hiểm và nhà đầu tư khác Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng

mạnh tay hơn trong việc bán CDS (credit default swap) ra thị trường, bất chấp khả năng
bảo đảm của mình.
Nhu cầu mua nhà tăng cao, kéo theo giá bất động sản tăng liên tục, bình quan tăng
54% trong vòng 4 năm. Dẫn đến việc đầu cơ và ỷ lại giá nhà sẽ tiếp tục tăng lên. Người
mua tiếp tục mua nhà với giá cao hơn rất nhiều so với giá trị thực của nó. Một bong bóng
đã được hình thành trong thị trường bất động sản.
Người dân đổ xô đi mua nhà nhằm kiếm lời bởi họ tin rằng giá nhà sẽ tăng cao
hơn. Nhiều nhà đầu cơ đã thu lợi lớn chỉ đơn giản bằng cách mua nhà và bán lại, thậm chí


GVHD: TS. Diệp Gia Luật

CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm
5


GVHD: TS. Diệp Gia Luật

CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm
5 đưa vào sử dụng. Các nhà môi
ngay cả khi những ngôi nhà đó chưa được xây xong và
giới cho vay thế chấp nôn nóng đẩy nhanh và kết thúc các giao dịch nhằm thu về các
khoản phí và chuyển sang các giao dịch kế tiếp. Về sau, người ta mới nhận ra rằng nhiều
người mua nhà thế chấp đủ tiêu chuẩn lại bị hướng vào nhóm đối tượng vay nợ dưới
chuẩn bởi vì những người bán trung gian được hưởng phí cao hơn từ loại này.
Những người cho vay cảm thấy an toàn vì rủi ro vỡ nợ đang giảm theo thời gian
do giá nhà vẫn tiếp tục tăng. Giá trị tài sản của những người sở hữu nhà cũng tăng theo
tương ứng.
Biểu 2: Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kì “ bong bóng” thị trường nhà ở


Hầu hết các khoản vay dưới chuẩn đều theo hình thức vay thế chấp với lãi suất
linh hoạt (ARM: adjustable-rate mortgage). Theo truyền thống, người mua thường muốn
vay tiền mua nhà với lãi suất cố định hơn là lãi suất linh hoạt. Theo đó, họ sẽ phải thanh
toán hàng tháng tiền lãi với lãi suất cố định trong suốt 30 năm (lãi suất 4-5%). Tuy nhiên,
lãi suất ARM lại rất thấp (1%/năm) với thời hạn từ 3 đến 5 năm. Chính vì vậy, nó đã thu


GVHD: TS. Diệp Gia Luật

CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm
5


GVHD: TS. Diệp Gia Luật

CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm
5 các khoản tiền lãi phải trả hàng
hút được những người mua có thu nhập thấp. Tuy nhiên,
tháng đã tăng dần theo thời gian do lãi suất cho vay được điều chỉnh lên những mức cao
hơn.
 Cơ chế giám sát, cơ chế quản trị rủi ro việc cho vay dưới chuẩn lỏng lẻo
Cho vay thế chấp dưới chuẩn là khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao.
Các khoản vay này không được xem xét kỹ lưỡng và thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc
không có giấy tờ chứng minh khả năng tài chính của người đi vay.
Tùy theo mức độ, khoản nợ cho người có điểm tín nhiệm dưới chuẩn vay có đặc
điểm lãi suất cao, chiết khấu sâu, tỷ lệ nợ vay tối đa trên tài sản thế chấp thấp so với
khoản nợ chuẩn.
Mức độ rủi ro của việc cho vay dưới chuẩn thật sự cao khi rủi ro về đạo đức xảy
ra. Khi các tổ chức cho vay liều lĩnh, rót tiền vào khách hàng không thu nhập, không việc
làm, không tài sản.

Khi thi trường tài chính nhộn nhịp, việc chứng khoán hóa đã làm cho nguồn vốn
tăng lên dồi dào, các ngân hàng và tổ chức tài chính cố gắng tìm khách hàng cho vay để
thu được lợi nhuận. Tiêu chuẩn cho vay giảm dần đến không có tiêu chuẩn, Các nhà môi
giới khi dàn xếp các khoản vay rủi ro này cũng yêu cầu khoản phí cao. Như vậy, hoạt
động của toàn hệ thống được thúc đẩy bởi khối lượng tín dụng cao, tiêu chuẩn tín dụng
thấp, lãi suất và phí cao. Hầu hết những người cho vay không nhận ra cái bẫy họ đang
bước vào. Đồng thời, nhiều người đi vay đã lợi dụng sự dễ dãi của môi trường cho vay để
đầu cơ. Họ không mua nhà để ở mà chỉ để giữ một thời gian rồi bán lại cho người khác
nhằm kiếm lời.
 Việc áp dụng công cụ chứng khoán hóa không hợp lý
Chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài sản sẵn
có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các loại chứng
khoán nợ. Nói một cách khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ
trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính
sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quan tới danh
mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa.


GVHD: TS. Diệp Gia Luật

CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm
5


Sơ đồ 1: Nghiệp vụ Chứng khoán hóa

Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation)
để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản
(MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường.Cái gọi là đòn bẩy tài chính được tận
dụng khi chứng khoán mua vào được sử dụng làm vật thế chấp để vay mua chứng khoán

khác, cứ thế một đồng đô la tài sản thật sẽ được biến hóa thành hàng trăm đồng đô la tài
sản ảo chỉ hiện diện trên sổ sách
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay
mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng
bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài sản
càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của
trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng.
Khi quả bong bóng bất động sản nổ, người dân không còn khả năng trả tiền vay
hàng tháng, giá trị bất động sản đi xuống không ngừng, các gói chứng khoán trả góp bị
mất giá vì không nhà đầu tư nào muốn mua nữa
 Lòng tham của thị trường ( Gồm tâm lý bầy đàn & sự lạc quan quá mức)
Lãi xuất cao cộng với lòng tham của các ngân hàng và công ty tài chính đã dẫn
đến việc cho vay với tiêu chuẩn người đi vay rất thấp thậm chí bằng không. Lòng tham
đã che mờ cái rủi ro hiện hữu trước mặt của các ngân hàng và tổ chức tài chính.

Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”

Page 10


Tiểu luận: “Tài chính tiền tệ”

Page 11


Những người dân tìm được nguồn vốn nhờ vay nợ dưới chuẩn là những nhà đầu tư
trẻ mới bước vào nghề, họ trở thành những con cừu non để các công ty địa ốc dẫn dắt
trong quá trình mua bán và hợp thức hóa chứng từ. Các công ty địa ốc nhận được tới 3%
giá trị tiền vay nên các công ty địa ốc tiếp tục thổi bồng thị trường để nhận được món hoa
hồng hậu hĩnh này. Điều này đã làm cho giá nhà tăng lên rất cao so với giá trị thực của

nó.
Trong quá trình chứng khoán hóa, thì các ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư, công ty
thẩm định rủi ro, các nhà bán lẻ trái phiếu, cùng các công ty quản lý thị trường, tất cả
cũng đều hưởng những món tiền hoa hồng, môi giới và chi phí béo bở. Nói chung là tất
cả những đối tác nằm trong “đường dây” này đều hưởng lợi từ túi tiền của người bán nhà,
người đi vay mua nhà cùng các nhà đầu tư nhỏ.
Với tâm lý muốn sở hữu một căn nhà, những người dân có thu nhập thấp không đủ
trả lãi xuất cố định, họ đã lao đầu vào các gói vay vốn với lãi xuất điều chỉnh với niềm tin
sau một thời gian giá nhà sẽ tăng và họ sẽ bán nhà và thu được lời.
Lòng tham của các ngân hàng và tổ chức tài chính đã che mờ những rủi ro của
việc giá bất động sản tăng cao lên rất nhiều so với giá trị thực và nhu cầu mua nhà chỉ là
một nhu cầu ảo mà những người đầu tư, các nhà đầu cơ tạo ra để tăng giá bất động sản
hình thành nên quả bong bóng bất động sản. Khi quả bong bóng này nổ, người dân không
còn khả năng trả tiền vay hàng tháng, giá trị bất động sản đi xuống không ngừng, các gói
chứng khoán trả góp bị mất giá vì không nhà đầu tư nào muốn mua nữavà khủng hoảng
xảy ra là tất yếu.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNG THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG
THỨ CẤP
2.1. Thực trạng khủng hoảng thị trường tín dụng thứ cấp tại Mỹ
Những khó khăn trên thị trường bất động sản và cho vay thế chấp đã rất đáng quan
ngại từ năm 2006, biểu hiện khủng hoảng đã xuất hiện với sự gia tăng nợ xấu và số tổ
chức cho vay phá sản: hàng loạt công ty bất động sản rơi vào phá sản và giá cổ phiếu
nhóm ngành bất động sản sụt giảm mạnh; giá trị các khoản vay dưới tiêu chuẩn lên đến
trên 600 tỷ USD, bằng 1/5 thị trường cho vay mua nhà của Mỹ và con số này càng tăng



lên trong bối cảnh lãi suất tăng cao và bong bóng bất động sản bắt đầu xì hơi; khoảng 70
hãng cho vay cầm cố ở Mỹ đã ngừng hoạt động hoặc chờ rao bán.

Tháng 6/2007: Bear Stearns, ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ đã thông báo hai
trong nhiều quỹ bảo hiểm của họ đã mất hơn 1/2 tài sản do sự sụt giảm mạnh giá trị danh
mục đầu tư cho vay thế chấp. Khách hàng không thể rút tiền và điều duy nhất họ có thể
làm là theo dõi một cách vô vọng sự mất giá của các khoản đầu tư. Đến tháng 03/2008
Bear Stearns được bán cho Ngân hàng đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 triệu Đôla
Mỹ.
Theo số liệu điều tra, cuộc khủng hoảng này thực sự bùng phát vào tháng 8/2008,
khi mà các ngân hàng thua lỗ tuyên bố phá sản ngày một tăng, ngày 9/8, NovaStar
Financial công bố thua lỗ 52,9 triệu USD trong quý II do các khoản vay vỡ nợ, tổ chức
cho vay thế chấp hàng đầu Mỹ, Countrywide Financial, phải đối mặt với nguy cơ phá sản
do tính thanh khoản trở nên xấu hơn. American Home Mortgage, một trong những hãng
cho vay cầm cố lớn nhất, cũng đệ đơn xin phá sản, nhiều quỹ cho vay bất động sản lớn
khác cũng tuyên bố phá sản và hàng loạt ngân hàng quốc tế lớn công bố kết quả kinh
doanh xấu trong lĩnh vực đầu tư vào bất động sản đã tác động mạnh đến thị trường tài
chính thế giới. Nhưng tác động mạnh nhất khi Ngân hàng Parisbas của Pháp (BNP) rút
2,2 tỷ USD vốn và ngưng hoạt động 3 quỹ cho vay tiền mua nhà thứ cấp ở Mỹ vì lo sợ về
tính thanh khoản của các khoản vay thế chấp ở Mỹ. Thông tin xấu trên thị trường tín
dụng kéo theo sự hoảng loạn của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Các NHTW
đã sử dụng đến biện pháp mạnh tay là đồng loạt bơm tiền vào hệ thống ngân hàng của
mình. Tổng số tiền các NHTW bơm ra trong vòng một tuần là hơn 400 tỷ USD, trong đó
riêng số tiền tiếp sức khẩn cấp trong hai ngày 9 và 10/8 mà FED và NHTW châu Âu
(ECB) tung ra là 323,3 tỷ USD. Biện pháp này đã giúp hệ thống tài chính tránh rủi ro từ
tình trạng thiếu tiền mặt và bước đầu đã làm dịu bớt căng thẳng về thanh khoản tín dụng
trong bối cảnh nợ xấu đối với bất động sản ở mức cao và thị trường nhà đất Mỹ đang
trong thời kỳ khủng hoảng. Tuy nhiên, lượng tiền trên vẫn chưa đủ và chưa thực sự tạo ra
được hiệu quả bình ổn rõ rệt trên các thị trường. FED đã quyết định cắt giảm lãi suất
chiết khấu xuống còn 5,75%/năm (giảm 0,5 điểm phần trăm). Như vậy, phải tới khi FED




GVHD: TS. Diệp Gia Luật

CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm
chính thức sử dụng công cụ lãi suất vào ngày 17/8 thì5phản ứng tích cực đầu tiên từ thị
trường chứng khoán Mỹ và thế giới; sau đó FED đã liên tục cắt giảm lãi suất để cứu nền
kinh tế Mỹ khỏi suy thoái.
Sóng lớn khủng hoảng tài chính lại nổi lên khi ngày 6/9/2008, Chính phủ Mỹ đã
công bố kế hoạch bỏ ra hàng trăm tỷ mua lại 80% cổ phiếu của 2 tập đoàn đầu tư lớn nhất
là Fannie Mae và Freddie Mac (chiếm trên 50% dư nợ tín dụng BĐS Mỹ); ngày 15/9
ngân hàng Lehman Brothers lớn thứ 4 nước Mỹ, đã tồn tại gần 160 năm tuyên bố phá sản
sau khi thất bại trong đàm phán với các đối tác mua lại do thua lỗ nặng; Tập đoàn chứng
khoán lớn nhất thế giới Merril Lynch bị Bank of America thâu tóm cũng do thua lỗ nặng;
Tập đoàn Bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ đang đứng bên bờ vực phá sản thì được FED ra tay
cứu giúp bằng số tiền 85 tỷ USD...Tính từ đầu năm 2008 đến thời điểm đó đã có 13 ngân
hàng Mỹ phá sản và danh sách này dường như chưa dừng lại...Thượng viện và Hạ viện
Mỹ cuối cùng đã phải thông qua kế hoạch Paulson 700 tỷ USD nhằm cứu nguy hệ thống
tài chính sau khi một loạt điều khoản được đưa thêm vào phương án đó, trong đó có biện
pháp tạm thời nâng mức bảo hiểm tiền gửi tiết kiệm liên bang lên tới 250.000 USD từ
mức 100.000 USD hiện nay nhằm khôi phục lòng tin của công chúng đối với hệ thống
ngân hàng (Trước đó, phương án trên đã bị Hạ viện phủ quyết trong cuộc bỏ phiếu ngày
29/9/2008)...Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã và đang tiếp tục lan sang Châu Âu khi
mà một số ngân hàng đã phải nhờ đến sự ứng cứu của nhà đầu tư và Chính phủ các nước.
Bên cạnh đó, Kết quả kinh doanh của các ngân hàng đầu tư lớn tại phố Wall được
công bố trong những tháng đầu năm 2008 lần lượt cho thấy các khoản tổn thất khổng lồ
(write-down) trong năm 2007. Dự kiến ảnh hưởng của cơn bão tín dụng nợ dưới chuẩn sẽ
còn tiếp tục trong năm 2008.
Trong những năm dẫn đến cuộc khủng hoảng, số tiền đáng kể tiền nước ngoài
chảy vào Mỹ từ các nền kinh tế tăng trưởng nhanh ở châu Á và các nước sản xuất dầu
mỏ. Điều này lưu lượng vào các quỹ kết hợp với lãi suất thấp của Mỹ từ 2002-2004 góp
phần vào điều kiện tín dụng dễ dàng, mà nhiên liệu cả nhà ở và tín dụng bong bóng.

Các khoản cho vay của các loại khác nhau (ví dụ như, thế chấp, thẻ tín dụng, và tự
động) được dễ dàng để có được và người tiêu dùng cho rằng một tải khoản nợ chưa
từng có.


GVHD: TS. Diệp Gia Luật

CHKT Ngày 3 – K21 – Nhóm

Tổng thiệt hại ước tính trong hàng nghìn tỷ đô la Mỹ trên
5 toàn cầu.


×