Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Đánh giá tổng kết dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La giai đoạn 2002 – 2007.Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.37 KB, 67 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nghèo đói là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu đối
với mọi quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển cũng như các nước đang
phát triển và kém phát triển, ở Việt Nam, đói nghèo là vấn đề được Đảng
và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng, kinh tế - xã hội nước ta nói chung và khu vực nông thôn nói
riêng đã có những biến đổi sâu sắc. Nhịp độ tăng trưởng GDP của nền kinh
tế cao và tương đối ổn định từ 7% - 10% tỷ lệ lạm phát giảm, sản lượng
lương thực liên tục tăng trong nhiều năm qua, cuộc sống nhân dân ngày
càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã có những thay đổi, tiến bộ .
Từ thực tế sản xuất cùng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng, nhà nước, các hộ nông dân biết sử dụng có hiệu quả về lao động,
đất đai, tiền vốn cho nên ngày càng có nhiều những hội kinh doanh giỏi .
Mặt khác, số hộ nông dân không biết bắt nhịp thời cơ, tiếp cận những tri
thức sản xuất hay không đủ điều kiện đã trở thành hộ nghèo đói . Ranh giới
giàu nghèo ngày càng trở nên rõ nét hơn , khi nền kinh tế thị trường ngày
càng mở cửa , điều đó đã dẫn tới sự phân hoá sâu sắc về đời sống và thu
nhập của nhóm người giàu và người nghèo trong xã hội, giữa thành thị và
nông thôn . Thực trạng này nếu không được giải quyết sẽ nảy sinh ra những
mâu thuẫn trong xã hội, là nguy cơ làm mất ổn định tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội .
Mặc dù được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm , ưu đãi trong công
cuộc xoá đói giảm nghèo. Nhưng Sơn La vẫn còn có hộ nghèo, nằm trong
danh mục các tỉnh có thu nhập bình quân đầu người thấp của cả nước.
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đây là một mối quan tâm lớn của cấp uỷ, các ban, ngành đoàn thể từ
Tỉnh đến cơ sở . Vì vậy việc xoá đói giảm nghèo trong nông thôn ở đây
được đặt ra như một yêu cầu cấp bách cần giải quyết với nhiều phương


pháp tiếp cận cả trên bình diện vĩ mô và vi mô .
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên nên trong quá
trình thực tập tại phòng Tài Chính&Kế hoạch huyện Mai Sơn tỉnh Sơn La
tôi đã chọn đề tài nghiên cứu của mình :
“ Đánh giá tổng kết dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La giai đoạn 2002
– 2007. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án” làm chuyên đề thực
tập tốt nghiệp.
Nhằm đánh giá đúng đắn kết quả, thành tựu, những mặt còn hạn chế
của dự án từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc triển khai
những dự án giảm nghèo trong các giai đoạn tiếp theo tại tỉnh Sơn La
2 . Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hoá cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm xem xét,
đánh giá các vấn đề nghèo đói ở nông thôn hiện nay .
Phản ánh thực trạng đói nghèo và tìm ra nguyên nhân dẫn đến đói
nghèo
Đánh giá kết quả thực hiện dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La nói riêng
và các tỉnh miền núi phía Bắc núi chung. Từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm, đề xuất để dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La trong các giai đoạn tiếp
theo đạt hiệu quả cao hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế xã hội Tỉnh Sơn La,
đặc biệt là các huyện thuộc dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc.
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đồng thời nghiên cứu, đánh giá tổng kết toàn bộ dự án giảm nghèo tỉnh
Sơn La
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chủ yếu tập trung nghiên cứu ở một số Huyện điển hình đại diện cho
các Huyện thuộc dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La trong đó có Huyện Mai

Sơn nơi tôi thực tập.
Về không gian: nghiên cứu trong phạm vi địa bàn tỉnh Sơn La.
Về thời gian: nghiên cứu toàn bộ dự án từ 2002 - 2007
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu kết hợp với các
phương pháp phân tích tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh xử lý, bảng biểu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong 3
chương:
Chương I: Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo
Chương II: Đánh giá dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La giai đoạn
2002-2007.
Chương III: Bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án. Một số đề
xuất, kiến nghị.
Để hoàn thành đề tài, ngoài sự nỗ lực nghiên cứu của bản thân, tôi
cũng đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ nhiều phía. Tôi xin chân thành
cảm ơn Phòng Tài chính-Kế hoạch Huyện Mai Sơn, bạn bè. Đặc biệt, tôi
xin chân thành cảm ơn TH.S Phạm Xuân Hoà đã hướng dẫn và động viên
tôi rất nhiều trong thời gian qua. Do thời gian và trình độ còn hạn chế, đề
tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý
thấy cô giáo.
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT PHẢI XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
I. CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ CÁC THƯỚC ĐO
NGHÈO ĐÓI.
1. Quan điểm về nghèo đói.
1.1. Các quan điểm về nghèo đói.
Theo quan điểm tiếp cận của WB, thì phạm vi của sự nghèo khổ

ngày càng mở rộng. Nghèo khổ thường gắn với sự thiếu thốn trong tiêu
dùng. Nhưng từ giữa năm 1970 và những năm 1980, nghèo khổ được tiếp
cận theo nhu cầu cơ bản bao gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực.
Từ giữa những năm 1980 đến nay tiếp cận theo năng lực và cơ hội, gồm:
tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Từ cách tiếp
cận trên, khi đánh giá tình trạng nghèo khổ khổng chỉ dựa theo tiêu chí thu
nhập mà còn gồm cả những tiêu chí không gắn với thu nhập.
Tuy nhiên ở những nước đang phát triển, việc phân tích và đánh giá
nghèo khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập (hay chi tiêu). Phương pháp
này cho phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác
nhau theo thời gian nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công và
đánh giá mức độ thành công của các chính sách đó. Nhưng làm thế nào để
biểu thị “ nghèo khổ” bằng một con số có ý nghĩa? Các nhà kinh tế đã dựa
trên khái niệm “nghèo khổ tuyệt đối”. Khái niệm này nhằm biểu thị một
mức thu nhập (chi tiêu) tối thiểu cần thiết để đảm bảo những “nhu cầu vật
chất cơ bản” như lương thực, quần áo, nhà ở để cho mỗi người có thể “tiếp
tục tồn tại”. Tuy nhiên khi xem xét mức nghèo khổ theo khái niệm trên nảy
sinh một số vấn đề sau:
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thứ nhất: Việc xác định mức này là một vấn đề chủ quan gây khó khăn
cho việc so sánh giữa các nước.
Thứ hai: Mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn của
mức sống theo thời gian và theo quốc gia (hay khu vực). Chẳng hạn, một
người dân ở nước phát triển hiện nay được phân loại là nghèo thì thực ra họ
lại còn có mức sống tốt hơn những người dân ở nước họ vào những năm
60 hoặc một số người dân ở các nước kém phát triển ngày nay mà họ
không được coi là nghèo.
Do vậy một phương pháp đã được các nhà kinh tế sử dụng là xác định “giới
hạn (ranh giới) nghèo khổ” hay còn gọi là “đường nghèo khổ”

Có hai cách tiếp cận “giới hạn nghèo khổ” là tiếp cận theo thu nhập và tiếp
cận theo chi tiêu. Tuy nhiên phương pháp được sử dụng nhiều hơn là tiếp
cận theo chi tiêu. Vì chi tiêu của hộ gia đình là chỉ số liên quan chặt chẽ
đến phúc lợi hơn là thu nhập. Và số liệu về thu nhập thường là không chính
xác đặc biệt ở các nước đang phát triển.
Có những phương pháp đánh giá “giới hạn nghèo khổ sau”
- Phương pháp của Ngân hàng Thế Giới:
Phương pháp mà WB đã sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa
vào ngưỡng chi tiêu tính bằng USD mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường dùng
hiện nay là 1 USD và 2 USD/ngày (theo sức mua tương đương). Đây là
ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho
con người, mức chuẩn đó là 2100 calo/người/ngày.
Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm (nghèo đói
ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp năng
lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những
người có mức chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những người có
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2100 calo/ngày gọi là
“nghèo về lương thực, thực phẩm”.
- Phương pháp của Việt Nam:
Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo
đói như sau:
+ Phương pháp dựa cả vào thu nhập và chi tiêu theo đầu người
(phương pháp của Tổng cục thống kê).
Phương pháp này đã xác định 2 ngưỡng nghèo:
* Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua đựoc một số
lương thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng. Như vậy, phương
pháp này tiếp cận tương tự cách tiếp cận của WB.
* Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ngưỡng nghèo chung”

ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hoá phi lương thực.
Ngưỡng nghèo Việt Nam được tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân cư
1993 và 1998 như sau:
Bảng 1: Ngưỡng nghèo ở Việt Nam
Chi tiêu bình quân đầu người/năm
1993
(Tính vào thời điểm
1/1993)
1998
(Tính vào thời điểm
1/1998
Ngưỡng nghèo về
lương thực, thực phẩm
750 nghìn đồng 1.287 nghìn đồng
Ngưỡng nghèo chung 1.116 nghìn đồng 1788 nghìn đồng
+ Phương pháp dựa trên thu nghập của hộ gia đình (phương pháp của
Bộ Lao động-Thương binh xã hội). Phương pháp này hiện đang được sử
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dụng để xác định chuẩn nghèo đói của chương trình xoá đói giảm nghèo
quốc gia (Chuẩn nghèo quốc gia).
Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2001-2005 được xác định dựa trên thu
nhập theo 3 vùng. Cụ thể là:
* Vùng Hải đảo và vùng núi nông thôn: Bình quân thu nhập là 80
nghìn đồng/người/tháng.
* Vùng đồng bằng nông thôn: 100 nghìn đồng/người /tháng.
* Và khu vực thành thị là 1500 nghìn đồng/người /tháng.
Người được coi là nghèo khổ cả về thu nhập là những người mà thu nhập
của họ nằm ở bên dưới các “giới hạn” đã được quy định nói trên:
Việc nhận diện ai là “người nghèo” luôn là một vấn đề khó khăn.

Cách thông thường và đã được các nước đang phát triển và WB sử dụng là
dựa vào kết quả các cuộc điều tra về thu nhập (chi tiêu) của hộ gia đình
(phương pháp thống kê). Những người đang sống trong “nghèo khổ tuyệt
đối” là những người mà 4/5 chi tiêu của họ dành cho nhu cầu về ăn mà chủ
yếu là lương thực và một chút ít thực phẩm (thịt hoặc cá); tất cả đều thiếu
dinh dưỡng; chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ; và tuổi thọ trung bình
của người lao động khoảng 40 năm.
Một cách tiếp cận khác cũng thường được sủ dụng để xem xét nghèo
đói là chia dân cư thành các nhóm khác nhau (theo 5 nhóm). Nhóm 1/5
nghèo nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức
thu nhập (chi tiêu) thấp nhấp.
Bên cạnh sự “nghèo khổ tuyệt đối”, ở nhiều nước còn xét đến sự
“nghèo khổ tương đối”. “Nghèo khổ tương đối” được xét trong tương quan
xã hội, phụ thuộc địa điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ
biến nơi đó. Sự nghèo khổ tương đối được hiểu là những người sống dưới
mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
xác định. Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt một cái mà đại bộ
phận những người khác trong xã hội được hưởng. Do đó chuẩn mực để
xem xét nghèo khổ tương đối thường khác nhau giữa các nước hoặc giữa
các vùng. Nghèo khổ tương đối là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập.
1.2. Khái niệm về nghèo đói
Xuất phát từ những quan niệm về nghèo đói ở trên, có những khái
niệm về nghèo đói như sau:
Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập
bị hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để bảo đảm tiêu
dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được
tham gia vào quá trình ra quyết định. Như vậy nghèo khổ được định nghĩa

trên nhiều khía cạnh khác nhau. Việc đo lường được từng khía cạnh đó một
cách nhất quán là điều rất khó, còn gộp cả những khía cạnh đó vào một số
chỉ số nghèo khổ hay thước đo nghèo khổ duy nhất là không thể.
Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á- Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Bangkok – Thái Lan (9/1993) đã đưa ra định nghĩa
chung như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu
này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và
phong tục tập quán của địa phương”. Định nghĩa này hiện nay đang được
nhiều quốc gia sử dụng trong đó có Việt Nam.
1.2. Các quan điểm về nghèo đói.
Theo quan điểm tiếp cận của WB, thì phạm vi của sự nghèo khổ
ngày càng mở rộng. Nghèo khổ thường gắn với sự thiếu thốn trong tiêu
dùng. Nhưng từ giữa năm 1970 và những năm 1980, nghèo khổ được tiếp
cận theo nhu cầu cơ bản bao gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực.
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ giữa những năm 1980 đến nay tiếp cận theo năng lực và cơ hội, gồm:
tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Từ cách tiếp
cận trên, khi đánh giá tình trạng nghèo khổ không chỉ dựa theo tiêu chí thu
nhập mà còn gồm cả những tiêu chí không gắn với thu nhập.
Tuy nhiên ở những nước đang phát triển, việc phân tích và đánh giá
nghèo khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập (hay chi tiêu). Phương pháp
này cho phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác
nhau theo thời gian nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công và
đánh giá mức độ thành công của các chính sách đó. Nhưng làm thế nào để
biểu thị “ nghèo khổ” bằng một con số có ý nghĩa? Các nhà kinh tế đã dựa
trên khái niệm “nghèo khổ tuyệt đối”. Khái niệm này nhằm biểu thị một
mức thu nhập (chi tiêu) tối thiểu cần thiết để đảm bảo những “nhu cầu vật
chất cơ bản” như lương thực, quần áo, nhà ở để cho mỗi người có thể “tiếp

tục tồn tại”. Tuy nhiên khi xem xét mức nghèo khổ theo khái niệm trên nảy
sinh một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Việc xác định mức này là một vấn đề chủ quan gây khó khăn
cho việc so sánh giữa các nước.
Thứ hai: Mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn của
mức sống theo thời gian và theo quốc gia (hay khu vực). Chẳng hạn, một
người dân ở nước phát triển hiện nay được phân loại là nghèo thì thực ra họ
lại còn có mức sống tốt hơn những người dân ở nước họ vào những năm
60 hoặc một số người dân ở các nước kém phát triển ngày nay mà họ
không được coi là nghèo.
Do vậy một phương pháp đã được các nhà kinh tế xử dụng là xác định
“giới hạn (ranh giới) nghèo khổ” hay còn gọi là “đường nghèo khổ”
Có hai cách tiếp cận “giới hạn nghèo khổ” là tiếp cận theo thu nhập và tiếp
cận theo chi tiêu. Tuy nhiên phương pháp được sử dụng nhiều hơn là tiếp
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cận theo chi tiêu. Vì chi tiêu của hộ gia đình là chỉ số liên quan chặt chẽ
đến phúc lợi hơn là thu nhập. Và số liệu về thu nhập thường là không chính
xác đặc biệt ở các nước đang phát triển.
Có những phương pháp đánh giá “giới hạn nghèo khổ sau”
- Phương pháp của Ngân hàng Thế Giới:
Phương pháp mà WB đã sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa
vào ngưỡng chi tiêu tính bằng USD mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường dùng
hiện nay là 1 USD và 2 USD/ngày (theo sức mua tương đương). Đây là
ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho
con người, mức chuẩn đó là 2100 calo/người/ngày.
Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm (nghèo đói
ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp năng
lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những
người có mức chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những người có

mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2100 calo/ngày gọi là
“nghèo về lương thực, thực phẩm”.
- Phương pháp của Việt Nam:
Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo
đói như sau:
+ Phương pháp dựa cả vào thu nhập và chi tiêu theo đầu người
(phương pháp của tổng cục thống kê).
Phương pháp này đã xác định 2 ngưỡng nghèo:
* Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua đựoc một số
lương thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng. Như vậy, phương
pháp này tiếp cận tương tự cách tiếp cận của WB.
* Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ngưỡng nghèo chung”
ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hoá phi lương thực.
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ngưỡng nghèo Việt Nam được tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân cư
1993 và 1998 như sau:
Bảng 1: Ngưỡng nghèo ở Việt Nam
Chi tiêu bình quân đầu người/năm
1993
(Tính vào thời điểm
1/1993)
1998
(Tính vào thời điểm
1/1998)
Ngưỡng nghèo về
lương thực, thực phẩm
750 nghìn đồng 1.287 nghìn đồng
Ngưỡng nghèo chung 1.116 nghìn đồng 1788 nghìn đồng
+ Phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình (phương pháp của

Bộ Lao động-Thương binh xã hội). Phương pháp này hiện đang được sử
dụng để xác định chuẩn nghèo đói của chương trình xoá đói giảm nghèo
quốc gia (Chuẩn nghèo quốc gia).
Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2001-2005 được xác định dựa trên thu
nhập theo 3 vùng. Cụ thể là:
* Vùng Hải đảo và vùng núi nông thôn: Bình quân thu nhập là 80
nghìn đồng/người/tháng.
* Vùng đồng bằng nông thôn: 100 nghìn đồng/người /tháng.
* Và khu vực thành thị là 1500 nghìn đồng/người /tháng.
Người được coi là nghèo thổ cả về thu nhập là những người mà thu nhập
của họ nằm ở bên dưới các “giới hạn” đã được quy định nói trên:
Việc nhận diện ai là “người nghèo” luôn là một vấn đề khó khăn.
Cách thông thường và đã được các nước đang phát triển và WB sử dụng là
dựa vào kết quả các cuộc điều tra về thu nhập (chi tiêu) của hộ gia đình
(phương pháp thống kê). Những người đang sống trong “nghèo khổ tuyệt
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đối” là những người mà 4/5 chi tiêu của họ dành cho nhu cầu về ăn mà chủ
yếu là lương thực và một chút ít thực phẩm (thịt hoặc cá); tất cả đều thiếu
dinh dưỡng; chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ; và tuổi thọ trung bình
của người lao động khoảng 40 năm.
Một cách tiếp cận khác cũng thường được sủ dụng để xem xét nghèo
đói là chia dân cư thành các nhóm khác nhau ( theo 5 nhóm). Nhóm 1/5
nghèo nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức
thu nhập (chi tiêu) thấp nhấp.
Bên cạnh sự “nghèo khổ tuyệt đối”, ở nhiều nước còn xét đến sự
“nghèo khổ tương đối”. “Nghèo khổ tương đối” được xét trong tương quan
xã hội, phụ thuộc địa điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ
biến nơi đó. Sự nghèo khổ tương đối được hiểu là những người sống dưới
mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian

xác định. Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt một cái mà đại bộ
phận những người khác trong xã hội được hưởng. Do đó chuẩn mực để
xem xét nghèo khổ tương đối thường khác nhau giữa các nước hoặc giữa
các vùng. Nghèo khổ tương đối là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập.
2. Các thước đo về nghèo đói.
Xuất phát từ các tiếp cận định nghĩa sự nghèo khổ nói trên, thước đo
sử dụng phổ biến hiện nay để đánh giá nghèo khổ về thu nhập là đếm số
người sống dưới chuẩn nghèo. Gọi là “chỉ số đếm đầu người” (HC-
Headcount index). Từ đó xác định tỷ lệ nghèo đói (tỷ lệ đếm đầu-HCR)
Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số. Việc sử dụng
chỉ số này là cần thiết để đánh giá tình trạng nghèo và những thành công
trong mục tiêu “giảm nghèo” của quốc gia và thế giới. Tuy nhiên, để phản
ánh được tính chất gay gắt của nghèo đói và để có chính sách cần thiết hữu
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hiệu nhằm giảm nghèo cho mọi đối tượng là người nghèo, các nhà kinh tế
đã xây dựng chỉ số: “Khoảng cách nghèo”. Khoảng cách nghèo là phần
chênh lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo và ngưỡng nghèo, tính bằng
phần trăm so với ngưỡng nghèo. Khi so sánh các nhóm dân cư trong một
nước, khoảng cách nghèo cho biết tính chất và mức độ của nghèo khổ khác
nhau giữa các nhóm.
Ngoài ra còn có những thước đo khác để đánh giá nghèo đói như:
- Chỉ số nghèo khổ (chỉ số nghèo nhân lực-HPI)
Chỉ số nghèo khổ là thước đo tổng hợp đánh giá sự nghèo đói đa
chiều và sự thiệt thòi của con người. HPI xem xét vấn đề nghèo đói và thiệt
thòi thông qua các khía cạnh : cuộc sống lâu dài, khoẻ mạnh; sự đảm bảo
về kinh tế và sự hội nhập về xã hội.
Hai cách tiếp cận trình bày ở trên (PQLI và BNA) chỉ có ý nghĩa khi
xem xét nền kinh tế của quốc gia đang phát triển; trong khi đó HPI đưa ra

hai hệ thống chỉ tiêu riêng biệt cho các nước phát triển và đang phát triển.
Đối với các nước đang phát triển, HPI gồm có:
-Tỷ lệ người dự kiến không sống qua 40 tuổi.
-Tỷ lệ người mù chữ.
-Tỷ lệ người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế, nước sạch.
Đối với các nước phát triển, HPI gồm có:
-Tỷ lệ người dự kiến sống không quá 60 tuổi.
-Tỷ lệ người chưa đạt tiêu chuẩn đọc, viết.
-Tỷ lệ số người nghèo về thu nhập.
-Tỷ lệ người thiệt thòi trong hoà nhập xã hội.
 Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI)
Chỉ số này được tính căn cứ vào 3 yếu tố: tỷ lệ chết yểu, tỷ lệ biết
chữ và tuổi thọ trung bình. Tỷ lệ trẻ em chết yểu thể hiện chất lượng của
công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ của người mẹ, sự trong sạch của môi
trường, mức độ sẵn có của nước sạch...Tuổi thọ trung bình phản ánh mức
độ chăm sóc chung
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Cách tiếp cận này đã đưa được một phần lớn hiệu quả các hoạt
động phúc lợi xã hội và một chỉ số tổng hợp. Tuy nhiên, chỉ số
chất lượng vật chất của cuộc sống chỉ có tác dụng trong việc so
sánh trình độ phát triển của những nước có thu nhập trung bình
trở xuống; nói cách khác, một khi dinh dưỡng, y tế và giáo dục đã
đạt đến một trình độ nào đó thì chỉ số PQLI sẽ không còn thay đổi
theo sự biến đổi của thu nhập nữa.
- Các "Nhu cầu thiết yếu" (BNA)
Cách tiếp cận "các nhu cầu thiết yếu" nhằm vào việc cực tiểu hoá
vấn đề nghèo đói thay vì tối đa hoá sản lượng. Những người theo hướng
tiếp cận này cho rằng tăng trưởng kinh tế là không có hiệu quả nếu nó
không có những chương trình tập trung trực tiếp vào đáp ứng những nhu

cầu thiết yếu của 40-50% dân số nghèo khổ nhất. Theo họ, những nhu cầu
thiết yếu này gồm có:
- Nhu cầu dinh dưỡng: được tính thông qua chỉ số lượng calo/người/
ngày.
- Nhu cầu về giáo dục: được tính thông qua (i) tỷ lệ biết chữ của
người trưởng thành (tính cho người từ 15 tuổi trở lên) (ii) tỷ lệ nhập học
thô và ròng (iii) số năm đi học bình quân (iv) chi tiêu của Chính phủ dành
cho giáo dục.
- Nhu cầu về sức khoẻ: được tính theo tuổi thọ bình quân.
- Nhu cầu về vệ sinh: tính qua các chỉ tiêu (i) tỷ lệ chết yểu (trung
bình 1000 trẻ em sinh ra) (ii) phần trăm dân số được hưởng các phương
tiện vệ sinh.
- Nhu cầu về nước sạch: tính qua các chỉ tiêu (i) tỷ lệ chết yểu (trung
bình 1000 trẻ em sinh ra) (ii) phần trăm dân số được hưởng các nguồn nước
sạch.
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Nhu cầu về nhà ở: m
2
/người.
Cách tiếp cận từ các nhu cầu thiết yếu đưa ra một loạt các chỉ số thể
hiện nhiều mặt của phúc lợi dành cho con người. Tuy nhiên, cách tiếp cận
này chỉ phù hợp cho việc đánh giá một nền kinh tế đang phát triển vì nó
nhấn mạnh vào việc giảm nghèo đói trên khía cạnh thoả mãn những nhu
cầu thiết yếu đối với con người-những vấn đề không còn đặt ra với một nền
kinh tế đã phát triển.
II. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo và các yếu tố ảnh hưởng đến
việc xoá đói giảm nghèo.
1. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo.
Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự

phân hoá giàu nghèo diễn ra rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm
nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục
tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa
phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố
lành mạnh và tiến bộ của thời đại.
Do đó trong chính sách phát triển kinh tế -xã hội thời kỳ 1996-2000
nhà nước đã xây dựng được các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó
có chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia. Xoá đói giảm nghèo không
chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó còn là vấn đề kinh tế -xã hội quan
trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa chính sách kinh tế với
chính sách xã hội.
Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo
về kinh tế là điều kiện tiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xã
hội .Vì vậy, phải tiến hành thực hiện xoá đói giảm nghèo cho các hộ nông
dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng
chiến cách mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh,
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng
thị trường nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao đông ở nông thôn
vào sản xuát tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường
cơ bản để xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
nông thôn phải được xem như là 1 giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoặt cho
phát triển ở nông thôn, nhằm xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện
nay.
Tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ
sở nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó là con đường để
cho mọi người vượt qua đói nghèo, để nhà nước có thêm tiềm lực về kinh
tế để chủ động xoá đói giảm nghèo. Đây là sự thể hiện tư tưởng kinh tế của

Hồ Chủ Tịch:" Giúp đỡ người vươn lên khá, ai khá vươn lên giàu, ai giàu
thì vươn lên giàu thêm".Thực hiện thành công chương trình xoá đói giảm
nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập chính
đáng cho người nông dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xoá đói giảm
nghèo, phát triển kinh tế nông thôn còn là nền tảng, là cơ sở để cho sự tăng
trưởng và phát triển 1 nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi
mới đất nước. Hơn thế nữa nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị xã hội.
Xoá đói giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăn sóc tốt sức khoẻ
nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập
vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành
mạnh, giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người
nghèo, ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào
đường lối và chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá
bỏ được các tệ nạn xã hội khác, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngoài ra còn có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm
vụ và yêu cầu xoá đói giảm nghèo thì sẽ không chủ động giải quyết được
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
xu hướng gia tăng phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai
cấp với hậu quả là sự bần cùng hoá và do vậy sẽ đe doạ tình hình ổn định
chính trị và xã hội làm chệch hướng XHCN của sự phát triển kinh tế -xã
hội. Không giải quyết thành công các chương trình xoá đói giảm nghèo sẽ
không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói
chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững sẽ không thể
thực hiện được. Không tập trung nỗ lực, khả năng và điều kiện để xoá đói
giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn
lực con người phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước nhằm đưa nước
ta đạt tới trình độ phát triển tương đương với quốc tế và khu vực, thoát khỏi
nguy cơ lạc hậu và tụt hậu.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xoá đói giảm nghèo.

Công tác xóa đói giảm nghèo là một công tác rất khó khăn và quan
trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Việc
xét các yếu tố ảnh hưởng đến việc xóa đói giảm nghèo là tiền đề quan trọng
trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của mỗi quốc gia cũng như trong
công tác triển khai các dự án xóa đói giảm nghèo
2.1. Yếu tố khách quan.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên là một yếu tố đầu tiên và quan trọng ảnh hưởng
đến công tác xóa đói giảm nghèo. Nếu điều kiện tự nhiên ưu đãi: như khí
hậu tốt, địa hình bằng phẳng, giàu tài nguyên, nằm trong khu vực kinh tế
mạnh … thì việc xóa đói giảm nghèo sẽ thuận lợi hơn rất nhiều kể cả về
tiến độ và chi phí cho việc xóa đói giảm nghèo
2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội.
Điều kiện kinh tế xã hội là yếu tố do lịch sử đem lại. Quá trình lịch
sử của một quốc gia đưa lại những xuất phát điểm khác nhau như kinh tế
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
kém phát triển do hậu quả của chiến tranh kéo dài…, nền văn hóa Phương
Đông hay phương Tây… làm ảnh hưởng đến tác phong, hiệu quả lao động,
sang tạo làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của một quốc gia, quyết
định nhiều đến tình trạng nghèo đói
2.1.3. Các yếu tố tác động khác:
- Hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế.
- Hỗ trợ từ các quốc gia khác.
Đây là hai yếu tố tác động tích cực làm giảm tình trạng nghèo đói
của mỗi quốc gia và làm giảm sự nghèo đói, bất bình đẳng về thu nhập giữa
các quốc gia, khu vực trên thế giới
2.2. Yếu tố chủ quan.
2.2.1. Năng lực quản lý của Nhà nước.
Hiện nay năng lực của các quốc gia quyết định nhiều đến công tác

xóa đói giảm nghèo của các quốc gia đó. Một nhà nước có năng lực quản lý
tốt dẫn đến hiệu quả công tác quản lý và triển khai công tác xóa đói giảm
nghèo cao. Đồng thời làm tăng sự tin tưởng của các tổ chức, quốc gia phát
triển khác trên thế giới trong việc hỗ trợ công tác xóa đói giảm nghèo.Có
thể nhanh chóng giảm được tình trạng nghèo đói của quốc gia đó.
2.2.2. Các quan điểm, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước.
Mỗi quốc gia có một chiến lược phát triển kinh tế xã hội khác nhau
trong từng thời kỳ và giai đoạn khác nhau. Một phần dẫn đến sự khác nhau
này là do chế độ chính trị, tầm nhận thức của Nhà nước cũng như điều kiện
kinh tế xã hội của quốc gia đó. Dẫn đến các quan điểm về xóa đói giảm
nghèo của mỗi quốc gia là khác nhau làm ảnh hưởng đến công tác xóa đói
giảm nghèo của quốc gia đó.
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
III. NGUYÊN NHÂN XOÁ ĐÓI NGHÈO
1. Nguyên nhân đói nghèo của Việt nam.
Ở Việt Nam nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có thể phân theo 3 nhóm:
- Nhóm nguyên nhân điều kiện tự nhiên: khí hậu khắc nghiệt, thiên
tai, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao
thông khó khăn đã và đang kìm hãm sản xuất, gây ra tình trạng đói nghèo
cho cả một vùng, khu vực.
- Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo: thiếu kiến thức làm
ăn, thiếu vốn, đông con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc các tệ nạn
xã hội, lười lao động, ốm đau, rủi ro...
- Nhóm các nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc
không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu
vực khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn
cách làm ăn, khuyến nông,lâm, ngư,chính sách trong giáo dục đào tạo, ytế,
giải quyết đất đai, định canh định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu tư còn
hạn chế.

Kết quả điều tra về xã hội học cho thấy:
- Thiếu vốn: 70-90% tổng số hộ được điều tra.
- Đông con: 50-60% tổng số hộ được điều tra.
- Rủi ro, ốm đau: 10-15% tổng số hộ được điều tra.
- Thiếu kinh nghiệm làm ăn: 40-50% tổng số hộ được điều tra.
- Neo đơn, thiếu lao động: 6-15% tổng số hộ được điều tra.
- Lười lao động, ăn chơi hoang phí: 5-6% tổng số hộ được điều tra.
- Mắc tệ nạn xã hội: 2-3% tổng số hộ được điều tra.
IV. TỔNG QUAN KINH NGHIỆM XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1. Bức tranh chung về nghèo đói trên thế giới.
Theo bản báo cáo được gửi cho Tổng thư ký LHQ Kofi Annan, hơn
500 triệu người có thể thoát khỏi cảnh đói nghèo, 250 triệu người sẽ không
bị đói kéo dài và 30 triệu trẻ em có thể được cứu sống nếu các nước giàu
tăng gấp đôi viện trợ phát triển của mình trong 10 năm tới.
Ông Kofi Annan nói: “Lãnh đạo của các nước phát triển sẽ gặp nhau
tại New York vào tháng 9 tới để xem xét lại những kết quả đã đạt được
trong việc thực hiện các mục tiêu đặt ra trong tuyên bố thiên niên kỷ. Tôi
hy vọng tại cuộc họp này, các nhà lãnh đạo sẽ đạt được những quyết định
quan trọng để chúng ta có thể cùng nhau xây dựng một thế giới an toàn hơn
và tốt đẹp hơn”.
Cũng trong bản cáo này, 265 chuyên gia đã đưa ra những dự án dài
hạn cũng như những biện pháp trước mắt như cung cấp màn chống muỗi
hay lập ra các chương trình cung cấp bữa trưa miễn phí tại trường học
nhằm đạt được mục tiêu thiên niên kỷ đặt ra tại cuộc họp của LHQ năm
2000. Trong đó có việc giảm đói nghèo trên toàn thế giới, chống lại căn
bệnh AIDS và tạo điều kiện cho các em nhỏ được đến trường.
Theo ước tính của các chuyên gia của LHQ, trợ giúp phát triển phải

đạt 195 tỷ USD vào năm 2015 thì cộng đồng quốc tế mới hy vọng đạt được
mục tiêu thiên niên kỷ đặt ra năm 2000. Theo bản báo cáo, các nước giàu
nên tăng viện trợ phát triển từ 0,25% GDP của mình năm 2003 thành
0,44% năm 2006 và 0,7 % vào năm 2015.
3. Những bài học kinh nghiệm rút ra trong công cuộc xoá đói giảm
nghèo hiện nay.
Một thực tế cho thấy rằng hầu hết những người nghèo đều tập trung
ở khu vực nông thôn. Bởi vì đây là khu vực hết sức khó khăn về mọi mặt
như: Điện, nước sinh hoạt, đường, trạm y tế … ở các nước đang phát triển
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
với nền kinh tế sản xuất là chủ yếu thì sự thành công của chương trình xoá
đói giảm nghèo phụ thuộc vào chính sách của nhà nước đối với chương
trình phát triển nông nghiệp và nông thôn của các quốc gia. Thực tế cho
thấy rằng các con rồng châu Á như: Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, các
nước Asean và Trung Quốc đều rất chú ý đến phát triển nông nghiệp và
nông thôn. Xem nó không những là nhiệm vụ xây dựng nền móng cho quá
trình CNH-HĐH, mà còn là sự đảm bảo cho phát triển bền vững của nền
kinh tế quốc dân. Tuy nhiên không phải nước nào cũng ngay từ đầu và
trong suốt quá trình vật lộn để trở thành các con rồng đều thực hiện sự phát
triển cân đối, hợp lý ở từng giai đoạn, từng thời kỳ giữa công nghiệp với
nông nghiệp. Dưới đây là kết quả và bài học kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới.
3.1. Hàn quốc
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, chính phủ Hàn Quốc không chú ý đến
việc phát triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát triển ở các
vùng đô thị, xây dựng các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn,
thế nhưng 60% dân số Hàn Quốc sống ở khu vực nông thôn, cuộc sống
nghèo đói, tuyệt đại đa số là tá điền, ruộng đất tập trung vào sở hữu của
giai cấp địa chủ, nhân dân sống trong cảnh nghèo đói tột cùng. Từ đó gây

ra làn sóng di dân tự do từ nông thôn vào thành thị để kiếm việc làm, chính
phủ không thể kiểm soát nổi, gây tình trạng mất ổn định chính trị-xã hội.
Để ổn định tình hình chính trị-xã hội, Chính phủ Hàn Quốc buộc phải xem
xét lại các chính sách kinh tế-xã hội của mình, cuối cùng đã phải chú ý đến
việc điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn và một
chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn được ra đời gồm 4 nội dung
cơ bản:
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn bằng cách tăng số tiền cho
hộ nông dân vay.
- Nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao
- Thay lúa giống mới có năng suất cao
- Khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc
thành lập các HTX sản xuất và các đội ngũ lao động để sửa chữa
đường xá, cầu cống và nâng cấp nhà ở.
Với những nội dung này, Chính phủ Hàn Quốc đã phần nào giúp
nhân dân có việc làm, ổn định cuộc sống, giảm bớt tình trạng di dân các
thành phố lớn để kiếm việc làm. Chính sách này đã được thể hiện thông
qua kế hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu nông thôn nhằm cải tiến cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, từng bước đưa
nền kinh tế phát triển nhằm xóa đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực
nông thôn.
Tóm lại, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát triển
nhưng chính phủ vẫn coi trọng những chính sách có liên quan đến việc phát
triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân
chúng ở khu vực nông thôn, có như vậy mới xoá đói giảm nghèo cho nhân
dân tạo thế ổn định và bền vững cho nền kinh tế.
3.2. Đài Loan.
Đài Loan là một trong những nước công nghiệp mới (NICs), nhưng

là một nước thành công nhất về mô hình kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
công nghiệp với phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn (mặc dù Đài
Loan không có các điều kiện thuận lợi như một số nước trong khu vực). Đó
chính là Chính phủ Đài Loan đã áp dụng thành công một số chính sách về
phát triển kinh tế xã hội như:
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện hình thành các trang
trại gia đình với quy mô nhỏ, chủ yếu đi vào sản xuất nông phẩm theo
hướng sản xuất hàng hoá.
- Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hoá nông nghiệp
nông thôn, mở mang thêm những ngành sản xuất kinh doanh ngoài nông
nghiệp cũng được phát triển nhanh chóng, số trang trại vừa sản xuất nông
nghiệp vừa kinh doanh ngoài nông nghiệp chiếm 91% số trang trại sản xuất
thuần nông chiếm 9%. Việc tăng sản lượng và tăng năng suất lao động
trong nông nghiệp đến lượt nó lại tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp
phát triển.
- Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển
nông thôn. Đài Loan rất coi trọng phát triển mạng lưới giao thông nông
thôn cả về đường bộ, đường sắt và đường thuỷ.
Trong nhiều thập kỷ qua, Đài Loan coi trọng việc phát triển giao
thông nông thôn đều khắp các miền, các vùng sâu vùng xa, công cuộc điện
khí hoá nông thôn góp phần cải thiện điều kiện sản xuất, điều kiện sinh
hoạt ở nông thôn. Chính quyền Đài Loan cho xây dựng các cơ sở sản xuất
công nghiệp ngay ở vùng nông thôn để thu hút những người lao động nhàn
rỗi ở khu vực nông nghiệp, tăng thu nhập cho những người nông dân
nghèo, góp phần cho họ ổn định cuộc sống. Đài Loan áp dụng chế độ giáo
dục bắt buộc đối với những người trong độ tuổi, do đó trình độ học vấn của
nhân dân nông thôn được nâng lên đáng kể, cùng trình độ dân trí được nâng
lên và điều kiện sống được cải thiện, tỷ lệ dân số đã giảm từ 3.2%/năm

(1950) xuống còn 1.5%/năm (1995). Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ ban
đầu cho nhân dân cũng được quan tâm đầu tư thích đáng
Ngoài Hàn Quốc, Đài Loan còn 1 số nước Asean cũng có những
chương trình phát triển kinh tế xã hội bằng con đường kết hợp giữa những
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngành công nghiệp mũi nhọn với việc phát triển kinh tế nông thôn vơi mục
đích xoá đói giảm nghèo trong dân chúng nông thôn. Điều đặc trưng quan
trọng của các nước Asean là ở chỗ những nước này đều có nền sản xuất
nông nghiệp lạc hậu, bước vào công nghiệp hoá có nghĩa là vào lúc khởi
đầu của quá trình công nghiệp hóa. Tất cả các nước Asean (Trừ Singapor)
đều phải dựa vào sản xuất nông nghiệp, lấy phát triển nông nghiệp là một
trong những nguồn vốn cho phát triển công nghiệp. Điển hình là những
nước như Thái Lan, Indonexia, Philipin và Malaxia. Tất cả những nước này
phần lớn dân cư sống ở khu vực nông thôn, đời sống kinh tế nghèo nàn lạc
hậu, thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy mà chính phủ
các nước này trong quá trình hoạch định các chính sách kinh tế-xã hội họ
đều rất chú trọng đến các chính sách nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn, giành cho nông nghiệp nông thôn những ưu tiên cần thiết về
vốn đầu tư để tiến hành cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp. Tuy
nhiên khi bước vào giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hoá, tất cả các
nước Asean đều nhận thấy rằng không thể đi lên bằng con đường nông
nghiệp mà phải đầu tư cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Chính vì lẽ đó
mà các chính sách về phát triển nông nghiệp nông thôn cũng như các
chương trình phát triển khác như chương trình xoá đói giảm nghèo không
được chú trọng như ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Do vậy,
khoảng cách về thu nhập của những người giàu với những người nghèo là
rất lớn. Sự phân tầng xã hội là rõ rệt, gây mất ổn định về tình hình chính trị
xã hội, từ đó làm mất ổn định trong phát triển kinh tế.
Sự phồn vinh của Băng Cốc, Manila được xây dựng trên nghèo khổ

của các vùng nông thôn như Đông Bắc Thái lan, miền trung đảo Ludon.
Cho đến nay sự bất bình đẳng về thu nhập ở Thái Lan vẫn tiếp tục gia tăng,
các thành phố lớn, các khu công nghiệp vẫn có tỷ lệ tăng trưởng cao, năm
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1981 Băng Cốc đóng góp cho GDP ở các vùng khác lại giảm xuống như ở
miền Bắc và miền Nam Thái Lan phần đáng góp đã giảm xuốn 14.7% năm
1981 xuống còn 10% năm 1989
Ở Malaixia, Chính phủ đã thực hiện chính sách phân phối lại trong
nền kinh tế quốc dân, nhưng việc phân phối lại thì lợi ích vẫn chủ yếu tập
trung cho tầng lớp giàu có, những người nghèo khổ đặc biệt là nông dân
hầu như không được chia sẻ lợi ích đó. Khái niệm công bằng ở đây là sự
công bằng giữa tầng lớp giàu có.
Vào năm 1985 ở Malayxia có tới 82.000 hộ gia đình ở khu vực nông
thôn thuộc diện nghèo đói.
Tình trạng nghèo khổ ở Philipin còn tồi tệ hơn, năm 1988 tỷ lệ nghèo
đói ở Philippin lên tới 49,5% dân số trong 3,1 triệu hộ gia đình đói nghèo
thì tới 2.2 triệu gia đình (72,8%) sống ở khu vực nông thôn, đời sống chủ
yếu dựa vào nghề nông, còn 843.000 hộ (27.2%) sống ở khu vực phi nông
nghiệp. Điều này cho thấy đa số những người nghèo Philippin sống tập
trung ở khu vực nông thôn.
Tình trạng nghèo khổ ở các nước ASEAN vẫn tiếp tục gia tăng, cùng
với quá trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này, điều này cho thấy
do sự tăng trưởng kinh tế không theo kịp sự tăng trưởng dân số, mặt khác là
do quá trình chuyển dịch cơ cấu sang những ngành sản xuất công nghệ cao
của một số nước ASEAN hiện nay làm cho nạn thất nghiệp ngày càng trầm
trọng hơn.Để giải quyết tình trạng đói nghèo, chính phủ các nước ASEAN
có rất nhiều cố gắng.
Chính phủ Inđônêxia trong kế hoạch 5 năm lần năm đã tăng chỉ tiêu
cho các hoạt động tạo ra những việc làm mới cho những người chưa có

việc làm, nhằm tạo thu nhập ổn định cho người lao động, góp phần tích cực
cho công cuộc xoá đói giảm nghèo cho nhân dân.
SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A

×