Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

DSpace at VNU: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHOẺ NHÂN DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.11 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------------------

VƢƠNG XUÂN HƢƠNG

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG
CHĂM SÓC SỨC KHOẺ NHÂN DÂN
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành:

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Mã số:

5.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

TS. NGUYỄN VĂN DƢƠNG

HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------------------



VƢƠNG XUÂN HƢƠNG

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG
CHĂM SÓC SỨC KHOẺ NHÂN DÂN
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2004


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong lịch sử xã hội loài người, công bằng xã hội là một trong những
mục tiêu mà con người luôn vươn tới. Công bằng xã hội là ước mơ, khát
vọng, động lực thúc đẩy con người đấu tranh không ngừng nhằm xoá bỏ bất
công trong xã hội .
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi con người là chủ thể sáng tạo ra các giá trị
vật chất và tinh thần cho xã hội. Con người là “nguồn tài nguyên” đặc biệt
nguồn lực cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Với ý nghĩa đó, con người cần
được phát triển toàn diện về mọi mặt, để trở thành người lao động có những
năng lực và phẩm chất tốt sẽ là động lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nhận thức được điều đó Đảng cộng sản Việt Nam coi việc chăm lo
phát triển nguồn lực con người và thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc
sức khoẻ nhân dân là nhiệm vụ quan trọng.
Thực hiện chủ trương chung của Đảng về đổi mới, ngành y tế đã có
nhiều hình thức hoạt động đa dạng và phong phú. Hàng loạt các chính sách y
tế được thực hiện như: bảo hiểm y tế, viện phí, hành nghề y – dược tư nhân…
các chính sách xã hội về y tế một mặt thúc đẩy sự phát triển của ngành, cải

thiện và nâng cao sức khoẻ cho nhân dân. Mặt khác, thực hiện cơ chế thị
trường ngành y tế cũng gặp phải một số hạn chế nhất định. Trong thời kỳ bao
cấp nhân dân được hưởng chế độ chăm sóc sức khoẻ miễn phí. Việc xoá bỏ
chế độ bao cấp cho y tế đã gạt một bộ phận dân cư ra khỏi sự chăm sóc sức
khoẻ nói chung dẫn đến trong xã hội có sự phân hoá trong lĩnh vực hưởng thụ
các dịch vụ chăm sóc y tế, đây là một vấn đề nhạy cảm mà cả xã hội đang
quan tâm.
Với tư cách là mục tiêu lâu dài trong chiến lược phát triển con người
của Đảng, việc thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân


là một quá trình phát triển lâu dài với những biểu hiện phong phú đa dạng. Vì
thế, đặt ra yêu cầu phải có sự nghiên cứu nghiêm túc và khoa học cả về lý
luận và thực tiễn. Từ đó tìm ra hướng giải quyết nhằm khắc phục những hạn
chế, đưa ra các giải pháp có tính khả thi góp phần thực hiện mục tiêu chung
của chủ nghĩa xã hội là tất cả cho con người và vì con người.
Do đó, chúng tôi chọn đề tài: "Thực hiện công bằng xã hội trong
chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở nƣớc ta hiện nay" làm đề tài luận văn thạc
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công bằng xã hội là một trong những vấn đề quan trọng trong chính
sách xã hội của Đảng và Nhà nước, trong đó việc mở rộng mạng lưới y tế
chăm sóc sức khoẻ nhân dân là nội dung quan trọng của chính sách xã hội
hiện nay. Ở nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta từ lâu đã quan tâm đến
vấn đề này. Ngoài các quan điểm của Đảng được khẳng định trong các Văn
kiện, Nghị quyết đã có nhiều công trình, bài viết của nhiều nhà khoa học,
nhiều tác giả đề cập đến vấn đề công bằng xã hội ở những góc độ khác nhau .
Trong lĩnh vực y tế đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về
vấn đề công bằng xã hội như:
- Xây dựng hệ thống y tế theo định hướng công bằng, hiệu quả, của GS

Đỗ Nguyên Phương, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 1999.
- Một số vấn đề về thuốc và bảo đảm công bằng trong cung ứng thuốc
và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, của Lê Văn Truyền, Nhà xuất bản Y học, Hà
Nội 1996.
- Cải cách ngành y tế theo định hướng công bằng và hiệu quả - Quan
điểm của Việt Nam về một số vấn đề cơ bản, của nhóm tác giả: Phạm Mạnh
Hùng; Trương Việt Dũng; Gô ran dah lgren, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
2001.


Theo chúng tôi, công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân là
vấn đề rộng của xã hội. Trong lĩnh vực y tế, công bằng xã hội đòi hỏi phải
xem xét đến nhiều lĩnh vực khác như công bằng trong: Khám - Chữa bệnh;
Vệ sinh phòng dịch; Môi trường; An toàn thực phẩm; Cung ứng và sử dụng
thuốc an toàn; Y đức... Các nghiên cứu trên chỉ đề cập đến một mặt nào đó
của toàn bộ vấn đề chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề một cách có hệ thống với tư
cách là một vấn đề chính trị - xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và việc thực hiện công bằng
xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Luận văn đưa ra một số phương
hướng và giải pháp cơ bản để đảm bảo thực hiện tốt vấn đề công bằng xã hội
trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Nhiệm vụ:
+ Làm rõ khái niệm công bằng xã hội và quan niệm công bằng xã hội
trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra cho việc thực
hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp có tính khả thi trong việc
thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
4. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lí luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính
sách xã hội và công bằng xã hội.
Căn cứ thực tiễn của luận văn là đường lối của Đảng và Nhà nước trong
chiến lược phát triển con người với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh”. Những vấn đề của thực tiễn xây dựng chủ


nghĩa xã hội và thực hiện chính sách xã hội trong quá trình đổi mới của đất
nước.
Phương pháp: Dưới góc độ khoa học triết học - xã hội luận văn sử dựng
tổng hợp phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, kết hợp phương pháp lô gíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sách kết hợp với việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối lãnh đạo của Đảng vào phân tích tổng kết thực
tiễn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi của đề tài chủ yếu nghiên cứu vấn đề công bằng xã hội trong
chăm sóc sức khoẻ nhân dân, không đi sâu vào nghiên cứu vấn đề công bằng
xã hội nói chung.
Công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân là một phạm trù
khá rộng. Luận văn chỉ tập trung làm rõ một số nội dung của công bằng xã hội
trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở nước ta từ đổi mới đến nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Thành công của luận văn góp phần làm sáng tỏ quan điểm chính sách
của Đảng và Nhà nước về công bằng xã hội nói chung và công bằng xã hội
trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở lí luận và thực tiễn cho các cơ
quan quản lí của ngành hoạch định các chính sách nhằm đảm bảo công bằng
xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Góp phần vào việc phát triển nguồn

lực con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu học tập và tham khảo cho việc giảng
dạy - học tập trong các nhà trường của ngành y tế.


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu; kết luận; phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
Luận văn gồm: 3 chương; 6 tiết.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về công bằng xã hội trong
chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Chương 2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện
công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở nước ta hiện nay.
Chương 3. Phương hướng cơ bản và giải pháp đảm bảo việc thực hiện
công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân.


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
TRONG CHĂM SÓC SỨC KHOẺ NHÂN DÂN
1.1. Công bằng xã hội
1.1.1. Khái niệm công bằng xã hội
Trong giai đoạn hiện nay, loài người đã tạo ra những điều kiện để con
người có thể phát triển một cách toàn diện, con người ngày càng đóng vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Nhận thức được vấn đề này quan
điểm của Đảng coi con người là vốn quý nhất và đặt con người vào vị trí
trung tâm của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện tăng trưởng kinh
tế gắn với công bằng xã hội. Vậy công bằng là gì ? Nó có vai trò như thế nào
trong đời sống xã hội, là một phạm trù chính trị - xã hội.
“Công bằng xã hội’’ được nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới và đưa ra

những quan niệm khác nhau.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa công bằng là “theo đúng lẽ phải không
thiên vị’’ [55, tr .277].
Trong từ điển triết học giản yếu cho rằng: Công bằng có vai trò quan
trọng trong ý thức quần chúng. Nội dung của công bằng không có tính chất
chung chung, bất di, bất dịch, phi thời gian - nó thay đổi theo lịch sử, phản
ánh kinh tế - xã hội nhất định và sự đánh giá về mặt đạo đức của từng giai cấp
theo quyền lợi của mình …[56, tr. 650].
Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa:… Công bằng nêu ra sự tương
quan giữa một số hiện tượng theo quan điểm phân phối phúc và hoạ, lợi và
hại giữa người với người. Công bằng đòi hỏi sự tương xứng vai trò của những
cá nhân (những giai cấp) với địa vị của họ, giữa hành vi với sự đền bù (lao


động và thù lao, công và tội, thưởng và phạt), giữa quyền lợi và nghĩa vụ.
Không có sự tương xứng trong quan hệ ấy là bất công… Ngoài ra công bằng
còn được hiểu là phương thức đúng đắn nhất để thoả mãn một cách hợp lý
những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân xuất
phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Về
nguyên tắc chưa có sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực
mà mâu thuẫn giữa nhu cầu con người và khả năng hiện thực của xã hội còn
chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi một xã hội có sự đòi hỏi riêng về công
bằng xã hội . [54, tr. 580-581].
Từ điển bách khoa triết học, Mátxcơva (1983) định nghĩa: Công bằng là
phạm trù đạo đức - pháp quyền và chính trị - xã hội. Khái niệm công bằng bao
hàm yêu cầu về sự tương xứng giữa vai trò thực tiễn của những cá nhân
(nhóm xã hội) khác nhau với địa vị của họ trong đời sống xã hội, giữa những
quyền và nghĩa vụ của họ, giữa cống hiến và đãi ngộ, giữa lao động và sự trả
công, giữa phạm tội và sự trừng phạt, giữa công lao và sự thừa nhận của xã
hội. Sự không tương xứng trong những quan hệ đó được đánh giá là sự bất

công.
Theo một số tài liệu khác: công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa
các thành viên trong xã hội về một phương diện nào đấy, hoàn toàn xác định,
thường là những quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và
hưởng thụ, gắn liền với quan hệ phân phối của cải làm ra của xã hội.
Hay nói như PGS. TS Dương Xuân Ngọc: công bằng xã hội là một
phạm trù xã hội dùng để chỉ trình độ phát triển về phương diện xã hội của con
người (cá nhân và cộng đồng), được thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tinh thần, mà
trước hết là lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền
lợi giữa xã hội và cá nhân, nhằm bảo đảm sự phát triển hài hoà của con người,


của xã hội phù hợp với xu thế và tiến bộ xã hội. Công bằng xã hội phải được
thể hiện đầy đủ trong việc giải quyết mối quan hệ trong phát triển kinh tế và
giải quyết các vấn đề xã hội, để đảm bảo quyền tự do của mỗi người trong
quan hệ gắn bó với cộng đồng. Điều đó cũng có nghĩa là công bằng xã hội sẽ
tạo điều kiện cho mỗi người, cho cộng đồng có cơ hội tham gia vào quá trình
phát triển xã hội và hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Công
bằng xã hội còn là trách nhiệm của Nhà nước, của toàn xã hội trong việc
chăm lo bảo vệ quyền lợi của nhân dân và tạo ra những điều kiện thuận lợi để
nhân dân hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với nhà nước [38, tr 34-35].
Như vậy, công bằng xã hội là mối quan hệ xã hội phức tạp nó thể hiện
không chỉ trong mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể, cá nhân với xã hội, mà
còn trong mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, giữa các nhóm xã hội và
các cộng đồng xã hội khác nhau.
Công bằng được định nghĩa bằng nhiều cách song có thể khái quát
thành hai nhóm chủ yếu:
Một là: khái niệm “nhu cầu’’ và “bình đẳng”.
Theo từ điển tiếng Việt “nhu cầu” là đòi hỏi của cuộc sống, tự nhiên và

xã hội [57, tr. 968].
Theo từ điển triết học giản yếu: “Nhu cầu” là sự cần đến thứ gì đó tất
yếu một cách khách quan nhằm duy trì hoạt động sống và sự phát triển của cơ
thể, của cá nhân con người, nhóm xã hội và toàn bộ xã hội.
Nhu cầu xã hội mang tính lịch sử nó phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội. Nhu cầu thể hiện sự lệ thuộc của con người vào điều
kiện tự nhiên và xã hội nhằm đảm bảo sự tồn tại của mình. Việc xã hội thoả
mãn các nhu cầu của con người đến mức độ nào, nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển của xã hội và trình độ tự giác của con người. Nhu cầu của


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Hiền Anh (5/1996), “Vài suy nghĩ về tăng trưởng kinh tế và công
bằng”, Toàn cảnh sự kiện dư luận, (70).

2.

Vương Anh (28/4/1999), “Những cán bộ y tế vùng sâu vùng xa”, Báo
Nhân dân.

3.

Báo nhân dân (26/10/2003).

4.

Bộ Y tế (1999), Niên giám thống kê, Bộ Y tế, Hà Nội.


5.

Bộ Y tế (2000), Niên giám thống kê, Bộ Y tế, Hà Nội.

6.

Bộ Y tế (2001),Niên giám thống kê, Bộ Y tế, Hà Nội.

7.

Bộ Y tế (2002), Niên giám thống kê, Bộ Y tế, Hà Nội

8.

Bộ Y tế (1996), Khám chữa bệnh cho người nghèo, Bộ Y tế, NXB Y
học.

9.

Bộ Y tế - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh(1997), Chủ Tịch Hồ
Chí Minh với công tác bảo vệ sức khoẻ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.

10.

Lưu Hoàng Chuẩn (1995), Bảo hiểm y tế nông thôn và vấn đề xoá đói
giảm nghèo, NXB Y học, Hà Nội.

11.


Phạm Ngọc Chương (1994), Bảo hiểm y tế và những vấn đề đặt ra,
Thông tin khoa giáo.

12.

Công ty ADUKI(1996), Vấn đề nghèo ở Việt Nam, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.

13.

Chính phủ (2001), Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân
giai đoạn 2001- 2010

14.

Phạm Huy Dũng (1996), Khám chữa bệnh cho người nghèo, Nhà xuất
bản Y học, Hà Nội.


15.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.


17.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII - Về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm
sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

18.

Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

19.

Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20.

Nguyễn Đình Hiển (1996), Một số vấn đề tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở nước ta. Nghiên cứu lí luận - Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.

21.

Nguyễn Đình Hiền (1995), Tư tưởng của Các Mác về công bằng và
bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng vào nước ta hiện nay,
Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

22.


Phạm Mạnh Hùng (2001), Cải cách ngành y tế theo định hướng công
bằng và hiệu quả: Quan điểm của Việt Nam về một số vấn đề cơ bản,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

23.

Phạm Mạnh Hùng (8/2001), “Thực hiện định hướng công bằng và hiệu
quả trong chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân”, Tạp chí Cộng sản
(15).

24.

Nguyễn Đình Hối (2001), Phát triển sức khoẻ trong thời kì đổi mới,
Nhà xuất bản Y tế, Hà Nội.


25.

Lê Hồng Khánh (1999), Công bằng xã hội dưới tác động của cơ chế thị
trường trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ ở nước ta hiện nay, Trung
tâm Khoa học và Nhân văn quốc gia, Hà Nội.

26.

Nguyễn Hiền Lương (1996), Khía cạnh triết học - xã hội của vấn đề
sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ ở việt Nam hiện nay, Trung tâm Khoa
học và Nhân văn quốc gia, Hà Nội.

27.


Trần Hoàng Kim (2003), “Tổng quan tình hình kinh tế xã hội Việt Nam
2001-2003”, Tạp chí Tư tưởng -Văn hoá, (10).

28.

Đỗ Thiện Kính (7/1997), “Hướng tìm hiểu công bằng xã hội qua thu
nhập”, Tạp chí Xã hội học.

29.

Hà Huy Khôi (1996), Mấy vấn đề dinh dưỡng trong thời kì chuyển tiếp,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

30.

C.Mác - Ăng nghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.

31.

C.Mác - Ăngnghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.

32.

C.Mác - Ăng nghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.

33.


Hồ chí Minh (1984), Toàn tập, tập 4, Nhà Xuất bản Sự thật, Hà Nội.

34.

Hồ chí Minh (1986), Toàn tập, tập 5, Nhà Xuất bản Sự thật, Hà Nội.

35.

Hồ chí Minh (1986), Toàn tập, tập 6, Nhà Xuất bản Sự thật, Hà Nội.

36.

Hồ chí Minh (1986), Toàn tập, tập 8, Nhà Xuất bản Sự thật, Hà Nội.

37.

Hồ chí Minh(1995), Toàn tập, tập 9, Nhà Xuất bản Sự thật, Hà Nội.

38.

Dương Xuân Ngọc (7/2002), “Vai trò nhà nước trong việc thực hiện
công bằng xã hội”, (7)


39.

Nhật Ninh (4/5/1999), “Để công bằng trong khám chữa bệnh”, Báo
nhân dân.

40.


Lê - Nin (1997), Toàn tập, tập 34, NXB Tiến bộ Mátxcơva.

41.

Sở Y tế Hà Nội (2001), Tóm tắt số liệu thống kê y tế 1996 - 1998.

42.

Sở Y tế Hà Nội (2001), Tóm tắt số liệu thống kê y tế 1999 - 2000

43.

Đỗ Nguyên Phương (1998), Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát
triển ở Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

44.

Đỗ Nguyên Phương (1999), Y tế Việt Nam trong quá trình đổi mới,
Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

45.

Đỗ Nguyên Phương (1999), Chủ Tịch Hồ Chí Minh với y tế, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

46.

Đỗ Nguyên Phương (1996), Vấn đề khám chữa bệnh cho người nghèo
ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.


47.

Phạm Song (12/1991), “Củng cố y tế cơ sở để bảo vệ và chăm sóc sức
khoẻ nhân dân”, Tạp chí Cộng sản.

48.

Trần Thu Thuỷ (1996), Tình hình khám chữa bệnh của người nghèo và
những giải pháp, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

49.

Lê Sỹ Thắng (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và về
chính sách xã hội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội

50.

Trịnh Quốc Tuấn (1996), Bình Đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay- Vấn
đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

51.

Lê Ngọc Trọng (1996), Những giải pháp thực hiện chính sách và bảo
vệ sức khoẻ cho người nghèo, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.


52.

Lê văn Truyền (1996), Một số vấn đề về thuốc và bảo đảm công bằng

trong cung ứng thuốc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Nhà xuất bản Y
học, Hà Nội.

53.

Từ điển bách khoa Triết học (1983).

54.

Từ điển bách khoaViệt Nam(1995), tập 1.

55.

Từ điển Việt Nam (1994), Hoàng Phê chủ biên, NXB Thế giới, Hà
Nội.

56.

Từ điển Triết học giản yếu (1987), NXB Đại học và trung học chuyên
nghiệp.

57.

Từ điển tiếng Việt (1999), Ngôn ngữ học Việt Nam, NXB Thanh Hoá.

58.

Minh Vũ (2003), “Một thành tựu quan trọng”, Báo Nhân dân, Số
43(769)




×