Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực miền nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.98 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐẬU VĂN TRÁNG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
THUỘC BỘ XÂY DỰNG Ở KHU VỰC MIỀN NAM

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số

: 60 34 04 03

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017
1


Luận văn này đƣợc bảo vệ tại
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Quang Huy

Phản biện 1: TS. Trần Trí Trinh
Phản biện 2: TS. Nguyễn Văn Bảng


Luận văn này được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia

Địa điểm: Phòng họp 202, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận
văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia

Số: ….. - Đường 3/2 - Quận 10 - TP Hồ Chí Minh

Thời gian: Vào hồi 9 giờ 30 phút, ngày 19 tháng 7 năm 2017

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau 30 năm đổi mới (từ năm 1986), Việt Nam chúng ta đã
đạt được những thành tựu quan trọng ở tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế, xã hội. Những thành quả đó là minh chứng cho các chủ
trương, đường lối của Đảng cũng như các chính sách, pháp luật của
Nhà nước đã đi vào thực tiễn của đời sống xã hội, phù hợp với quy
luật phát triển, vận động chung của khu vực và trên toàn thế giới.
Trong các thành tựu sau 30 năm đổi mới, ngành Giáo dục - Đào tạo
đã có những đóng góp hết sức quan trọng, góp phần nâng cao dân trí,
bồi dưỡngvà phát triển nhân tài cho đất nước. Phát huy thành quả
này, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâmbằng việc nghiên cứu lý
luận, đúc kết thực tiễn để xây dựng, ban hành các chính sách, chiến
lược về giáo dục, đào tạo, với mục tiêu là “Phấn đấu đến năm 2030,
nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.
Để đưa nền giáo dục Việt Nam vươn lên tâm cao mới theo
mục tiêu đã đề ra, Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 20112020 đã nêu rõ các thành tựu, hạn chế, yếu kém và các nguyên nhân,

cũng như đề ra các giải pháp căn cơ để thực hiện thành công các mục
tiêu đã đề ra. Về bất cập, yếu kém, chiến lược khẳng định “Quản lý
giáo dục vẫn còn nhiều bất cập, còn mang tính bao cấp, ôm đồm, sự
vụ và chồng chéo, phân tán; trách nhiệm và quyền hạn quản lý
chuyên môn chưa đi đôi với trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân
sự và tài chính. Hệ thống pháp luật và chính sách về giáo dục thiếu
đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung”; “Một bộ phận nhà giáo và
cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục trong
thời kỳ mới. Đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu cục bộ, vừa không
đồng bộ về cơ cấu chuyên môn. Tỷ lệ nhà giáo có trình độ sau đại
học trong giáo dục đại học còn thấp”; “Năng lực của một bộ phận
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn thấp. Các chế độ chính sách
đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đặc biệt là chính sách
lương và phụ cấp theo lương, chưa thỏa đáng, chưa thu hút được
người giỏi vào ngành giáo dục, chưa tạo được động lực phấn đấu
vươn lên trong hoạt động nghề nghiệp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng được các yêu cầu đổi mới giáo dục”.
Lý giải cho những bất cập, hạn chế nêu trên, trong nội dung của
chiến lược này cũng đã nêu “Chưa nhận thức đúng vai trò quyết định
3


của đội ngũ nhà giáo và sự cần thiết phải tập trung đổi mới quản lý
nhà nước về giáo dục”.
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm nhiều cấp,
trong đó giáo dục đại họclà cấp cuối cùng và đóng vai trò hết sức
quan trọng.Giáo dục đại học có mục tiêu đào tạo nhân lực, nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài, nghiên cứu khoa học công nghệ để tạo ra
tri thức và sản phẩm mới.Bên cạnh đó, giáo dục đại học là nơi giúp
người học hoàn thiện cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ. Chuẩn bị

tốt nhất các điều kiện cần thiết để tham gia vào thị trường lao động
có hàm lượng tri thức cao, đáp ứng các yêu cầu về phát triển nguồn
nhân lực phục vụ cho sự ngiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập về tri thức và khoa
học. Để các trường đại học hoàn thành được sứ mệnh cao cả này, đòi
hỏi cần phải có các chiến lược quy hoạch, phát triển, quản lý các
trường đại học một cách cụ thể, trong đó, vai trò của các cơ quan
quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học là
một trong những yếu tố có vai trò quyết địnhquan trọng.
Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ cũng như
Bộ giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành liên quan đã xây dựng và
ban hành nhiều chính sách đối với Giáo dục - Đào tạo nói chung và
đội ngũ giảng viên các trường đại học nói riêng. Đây là những căn cứ
và là cơ sở pháp lý cho các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các
trường đại học thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước đối với
đội ngũ giảng viên. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số bất cập,
hạn chế cần phải nghiên cứu để hoàn thiện và đưa vào áp dụng, nhằm
hướng tới hiệu quả, hiệu lực trong công tác quản lý nhà nước đối với
đội ngũ này. Từ đó góp phần quan trọng chung để thực hiện thành
công chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Bộ Xây dựng là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu
tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công
nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; nhà ở; công sở; thị trường
bất động sản; vật liệu xây dựng; quản lý nhà nước các dịch vụ công
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp.
Cũng như các bộ, ngành khác, Bộ Xây dựng cũng có các đơn vị sự
nghiệp công lập, trong đó có các trường đại học. Đối với khu vực
4



MiềnNam hiện nay Bộ Xây dựng có 02 trường Đại học là đại học
Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh và đại học Xây dựng Miền Tây. Các
trường Đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng có trách nhiệm đào tạo,
bồi dưỡng nhân lực cho Bộ và cho phát triểnchung của đất nước.
Việc quản lý nhà nước đối với các trường đại học công lập thuộc Bộ
Xây dựng ở khu vực Miền Nam là hết sức cần thiết và trong thời gian
qua đã được chú trọng.Tuy nhiên, hiện nay công tác quản lý nhà
nước đối với các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu
vực phía Nam còn tồn tại nhiều bất cấp.Những quy định pháp lý về
lĩnh vực này còn chưa thống nhất và đồng bộ. Công tác thanh tra,
kiểm tra về đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập thuộc Bộ
Xây dựng chưa được chú trọng và tiến hành thường xuyên.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài“Quản lý Nhà
nước đối với đội ngũ giảng viên các Trường đại học công lập thuộc
Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam” làm luận văn thạc sỹ Quản lý
công.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có nhiều ấn phẩm, công trình nghiên cứu
khoa học liên quan tới giáo dục, giáo dục đại học nói riêng. Trong đó
các công trình nghiên cứu liên quan tới quản lý nhà nước đối với giáo
dục nói chung và quản lý nhà nước đối với đội ngũ viên chức, giảng
viên các trường đại học đã hệ thống hóa cơ sở lý luận, pháp lý cũng
như nội dung quản lý liên quan tới đội ngũ giảng viên. Trong đó,
phần lớn các công trình tập trung nghiên cứu các nội dung quản lý về
chất lượng của giáo dục nói chung và chất lượng của đội ngũ giảng
viên nói riêng. Các công trình nghiên cứu này đã làm nổi bật các hạn
chế, bất cập liên quan tới công tác quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục, đội ngũ giảng viên. Từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể gắn

với các hạn chế, yếu kém nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước
cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở
các cơ sở giáo dục đại học công lập nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu về đổi
mới và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu hội nhập
và phát triển trong giao đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đối với Bộ Xây dựng, là cơ quan thuộc Chính phủ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực, trong đó có các trường đại học công lập. Các cơ
sở giáo dục đại học công lập này đã và đang có nhiều đóng góp quan
trọng trong việc đào tạo ra nhân lực phục vụ cho các ngành nghề
5


thuộc Bộ Xây dựng quản lý. Việc hoàn thiện công tác quản lý nhà
nước đối với đội ngũ giảng viên ở các trường thuộc bộ Xây dựng là
yêu cầu quan trọng để góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo
dục nói chung cũng như phục vụ đắc lực cho các lĩnh vực thuộc Bộ
quản lý. Hiện nay, qua tìm hiểu của tác giả, chưa có luận văn hay
công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cức vấn đề quản lý nhà
nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học thuộc Bộ xây dựng.
Do vậy, việc lựa chọn đề tài này đảm bảo không có sự trùng lắp với
các công trình nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của luận văn này là nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp
lý về quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập. Từ
đó đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối
với giảng viên các trường đại học công lập nói chung và các trường đại học
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm

vụ cụ thể sau đây:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý nhà nước về quản lý
nhà nước đối với đội ngũ giảng viên đại học trường đại học công lập.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý nhà
nước đối với giảng viên các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu
vực Miền Nam.
- Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn hoạt động quản lý
nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập nói chung và các
trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam nói riêng.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là hoạt động quản lý nhà nước
đối với giảng viên các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực
Miền Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Các trường đại học thuộc Bộ Xây
dựng ở khu vựcMiềnNam (bao gồm: Trường đại học Kiến trúc TP.
Hồ Chí Minh và Trường đại học Xây dựng Miền Tây).
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2010 đến nay.
6


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụngphương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm
của Đảng và pháp luật củaNhà nước về giáo dục, đào tạo làm cơ sở
phương pháp luận.
5.2. Các phương pháp cụ thể
Để giải quyết những vấn đề cụ thể mà nội dung của đề tài

hướng đến, các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành đều được áp
dụng như:
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
5.2.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu, tổng hợp
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Mặc dù luận văn chỉ nghiên cứu ở phạm vi các trường đại học
thuộc Bộ Xây dựng ở Miền Nam, tuy nhiên đối với các Bộ khác cũng có thể
áp dụng các giảipháp, kiến nghịmà luận văn đưa ra nếu các Bộ này cũng
quản lý các trường đại học có đặc điểm như hai trường đại học là đại học
Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh và đại học Xây dựng Miền Tây.
Luận văn là nguồn tài liệu cung cấp cho việc nghiên cứu về
hoạt động quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và đội ngũ giảng
viên đại học nói riêng trong thời gian tới.
Luận văn cũng sẽ là tài liệu tham khảo, nghiên cứu cụ thể
cho công tác quản lý đội ngũ giảng viên trực tiếp tại hai trường trong
phạm vi nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn.
Luận văn ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục thì được thiết kế thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước đối
với giảng viên các trường đại học công lập.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với đội ngũ
giảng viên các trường đại họccông lập thuộc Bộ Xây dựng ở
khu vực Miền Nam.
Chƣơng 3: Đề xuất một số giải pháp hoàn quản lý nhà nước
đối với đội ngũ giảng viên các trường đại họccông lậpnói
chung và các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở
khu vực Miền Nam nói riêng.
7



Phần nội dung
CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP
1.1. Giảng viên các Trƣờng đại học công lập
1.1.1. Khái niệm giảng viên và giảng viên đại học công lập
Theo Quyết định số 202/TCCP-VC ngày 08/6/1994 của Ban tổ
chức - Cán bộ Chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch
công chức ngành giáo dục vào đào tạo: “Giảng viên là viên chức chuyên
môn đảm nhiệm việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc
chuyên ngành đào tạo của trường đại học hoặc cao đẳng.
Theo Luật giáo dục 2005: “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ
giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo giảng
dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp gọi là giáo viên, ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên”.
Như vậy, Giảng viên đại học được hiểu là những người trực
tiếp làm công tác giảng dạy, nghiên cứu ở một hoặc nhiều hơn một
chuyên ngành ở các cơ sở đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng và được bổ
nhiệm vào ngạch giảng viên.
1.1.2. Vai trò của giảng viên đại học
Về cơ bản, giảng viên các trường đại học có các vai trò sau:
- Thứ nhất là vai trò đào tạo.
- Thứ hai là vai trò nghiên cứu khoa học
Ngoài ra, giảng viên còn đảm nhận các vai trò khác như quản
lý, nhà chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, đồng thời
giảng viên còn là người giúp gìn giữ và phát huy các giá trị truyền
thông văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

1.1.3. Tiêu chuẩn để trở thành giảng viên đại học
- Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độđạt chuẩn
đượcđào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu
nghề nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng.
- Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với nhà giáo giáo giảng dạy cao đẳng,
đại học; có bằng thạc sỹ trở lên đối với nhà giáo giảng dạy chuyên
đề, hướng dẫn luận văn thạc sĩ; có bằng tiến sĩ trở lên đối với nhà
giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận án tiến sĩ.
8


- Giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học là người có nhân
thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có sức khỏetheo yêu cầu
nghề nghiệp; đạt trình độ về chuyên môn nghiệp vụ quy định tạiđiểm
e, khoản 1, Điều 77, của Luật giáo dục.
- Trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình
độ đại học là thạc sĩ trở lên. Trường hợp đặc biệt ở một số ngành
chuyên môn đặc thù do Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo quy định.
1.1.4.Nhiệm vụ của giảng viên
- Giảng dạy theo mục tiêu, chương trìnhđào tạo và thực hiện
đầy đủ, có chất lượng chương trình đào tạo;
- Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao
công nghệ, bảođảm chất lượng đào tạo.
- Định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính
trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy;
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của giảng viên;
- Tôn trọng nhân cách người học, đối xử công bằng với
người học, bảo vệ các quyền, lợiích chínhđáng của người học;
- Tham gia quản lý và giám sát cơ sở giáo dụcđại học, tham

gia công tác Đảng, đoàn thể và công tác khác.
1.1.5. Quyền của giảng viên
- Được giảng dạy đúng chuyên ngành đào tạo;
- Được đào tạo nâng cao trình độ bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ;
- Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các
trường, cơ sở giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học;
- Được bảo vệ phẩm chất, danh dự;
- Được nghỉ hè, nghĩ Tế tâm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định
của Bộ giáo dục và Đào tạo và các ngày nghỉ khác theo quy định của
Bộ luật Lao động.
- Được bổ nhiệm chức danh của giảng viên, được phong tặng
Nhà giáo nhân dân, Nhà giáoưu tú và được khen thưởng theo quy
định của pháp luật.
- Được bảo đảm về mặt tổ chức và vật chất kỹ thuật cho các
hoạt động nghề nghiệp; được sử dụng các dịch vụđào tạo, nghiên cứu
khoa học và công nghệ và dịch vụ công cộng của nhà trường;
- Được quyền lựa chọn giáo trình, tài liệu tham khảo, phương
pháp và phương tiện giảng dạy nhằm phát huy năng lực cá nhân, bảo
9


đảm nội dung chương trình, chất lượng và hiệu quả của hoạt độngđào
tạo, khoa học và công nghệ;
- Được tham dự các hội thảo, hội nghị khoa học trong và ngoài
nướctheo quy địnhđể công bố các công trình khoa học, giáo dục.
1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với giảng viên các Trƣờng đại học công lập.
1.2.1. Khái niệm quản lý
Quản lý có nhiều cách hiểu, khái niệm khác nhau của các nhà
khoa học, nhà quản lý và các tổ chức đưa ra. Tuy nhiên, quản lý có

thể hiểu là quá trình điều hành, hướng dẫn, theo dõi, hỗ trợ, đôn đốc,
kiểm tra (gọi chung là tác động) của chủ thể quản lý đối với các hoạt
động, hành vi của đối tượng và khách thể quản lý nhằm hướng tớiđạt
được các mục tiêu đề ra trong một thời gian nhấtđịnh và các chi phí
tối thiểu về sức lao động và tài chính.
1.2.2. Quản lý nhà nước
Cũng giống như khái niệm quản lý, quản lý nhà nước cũng có
nhiều cách hiểu, khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể
hiểu quản lý nhà nước là sự tác động, điều chỉnh các hoạt động của
cá nhân và toàn bộ hành vi xã hội của các cơ quan, tổ chức nhà nước,
các cá nhân được nhà nước ủy quyền bằng hệ thống pháp luật để thực
thi quyền lực nhà nước, nhằm đảm bảo sự vận hành mang tính ổn
định và phát triển của toàn xã hội.
1.2.3. Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên đại học công lập
1.2.3.1. Khái niệm
Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập là sự tác động, điều chỉnh của các cơ quan quản lý nhà
nước lên các hoạt động của đội ngũ giảng viên làm việc tại các
trường đại học thông qua hệ thống pháp luật
1.2.3.2 Sự cần thiết và mục tiêu của quản lý nhà
nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập.
- Là cơ sở để đảm bảo thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật, chiến lược của Nhà nước về giáo
dục, giáo dục đại học và đội ngũ những người làm công tác giáo dục.
- Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên nhằm hướng
tới mục tiêu đảm bảo sự hài hòa, hợp lý về số lượng, chất lượng, cơ
cấu đội ngũ giảng viên ở các trường đại học, từ đó đảm bảo việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của toàn ngành giáo dục mà Đảng và Nhà
nước đã giao phó.
10



1.2.3.3. Cơ quan quản lý nhà nước đối với đội ngũ
giảng viên đại học công lập
Giảng viên là một bộ phận của viên chức, do vậy cơ quan quản lý nhà
nước đối vợi đội ngũ giảng viên cũng là cơ quan quản lý viên chức.
cụ thể bao gồm các cơ quan sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về viên chức;
- Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc
quản lý nhà nước về viên chức;
- Các cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về viên chức;
- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong
phạmvi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà
nước về viên chức
- Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ cũng như
chưa được giao quyền tự chủ thực hiện các nội dung vềquản lý viên
chức theo quy định.
1.2.3.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với đội ngũ
giảng viên.
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đội ngũ giảng
viên trong các cơ sở giáo dục đại học công lập;
- uy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên trong các
cơ sở giáo dục đại học công lập;
- Hướng dẫn, quy định và tổ chức thực hiện các quy định
pháp luật về tuyển dụng, quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng giảng
viên;
- uy định và tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, chính
sách đãi ngộ, chế độ khen thưởng và kỷ luật;
- Thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật đối với

giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Tiểu kết chƣơng 1:
Giảng viên đại học trong mọi thời đại luôn đóng một vai trò hết
sức quan trọng, vừa là lực lưỡng lao động tri thức trực tiếp tạo ra các
giá trị lao động, đồng thời là lực lưỡng đào tạo ra đội ngũ lao động
đòi hỏi hàm lượng tri thức cao cho các ngành nghề trong xã hội. Do
đó, nghiên cứu cơ sở lý luận về đội ngũ giảng viên nói riêng cũng
như quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên nói chung để làm nổi bật
vai trò cảu đội ngũ này cũng như các tiêu chuẩn, yêu cầu liên quan.
11


Bên cạnh đó, nghiên cứu cơ sở pháp lý trong việc quản lý nhà nước
đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập nhằm tìm hiểu
rõ các cơ quan quản lý, chức năng, vai trò, nội dung quản lý nhà
nướcvà các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban
hành để thực hiện các nội dungquản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên.Những nội dung nghiên cứu ở chương này là những cơ sở, luận cứ
quan trọng trong việc tìm hiểu thực trạng công tác quản lý nhà nước đối
với đội ngũ giảng viên mà trong phạm vi đề tài nghiên cứu.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP THUỘC BỘ XÂY DỰNG Ở KHU VỰC MIỀN NAM
2.1. Tổng quan về Bộ Xây dựng và các Trƣờng đại học công lập
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực MiềnNam
2.1.1 Về Bộ Xây dựng
Bộ Xây dựng là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu
tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công

nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; nhà ở; công sở; thị trường bất
động sản; vật liệu xây dựng; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong
các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, Bộ Xây dựng có 32 đơn vị sự nghiệp công trực
thuộc. Trong đó có 02 viên, 04 Trường đại học, 09 Trường Cao đẳng,
07 Trường Trung cấp, 02 Bệnh viện, 04 Trung tâm điều dưỡng, 02
Ban quản lý dự án đầu tư và 01 Nhà xuất bản.
2.1.2 Về các Trường đại học thuộc Bộ Xây dựng và các
trường đại học thuộc Bộ xây dựng ở khu vực Miền Nam.
Hiện nay Bộ Xây dựng có 04 Trường đại học trực thuộc, bao
gồm: Miền bắc có trường đại học Kiến trúc Hà Nội; Miền trung có
trường đại học Xây dựng Miền Trung; miền nam có trường đại học
Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh và trường đại học Xây dựng miền Tây.
Ở khu vực Miền Nam, Trường đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí
Minh và Trường đại học Xây dựng Miền Tây được xem là hai trường
trọng điểm, giúp Bộ Xây dựng đào tạo ra nhân lực các ngành Kiến
trúc, Kỹ sư các ngành Xây dựng, Hạ tầng… phục vụ trực tiếp cho
nhu cầu thị trường lao động lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và các
tỉnh Miền Tây Nam Bộ.
12


2.1.3 Tổng quan về giảng viên các trường Đại học thuộc
Bộ Xây dựng

P.GS

TS

ThS


ĐH

Tỷ lệ
%
GV

trình
độ
SĐH

474

29

101

299

45

90.51

Đại học Xây dựng
Miền Trung

202

2


17

131

52

74.26

Đại học Kiến trúc TP.
Hồ Chí Minh

317

6

54

234

23

92.74

Đại học Xây dựng
Miền tây

178

2


13

125

38

78.65

Tổng cộng

1171

39

185

789

158

86.51

Tên Trƣờng

Số
lƣợng

Đại học Kiến trúc Hà
Nội


GS

2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với đội ngũ giảng viên các
trƣờng Đại học công lậpthuộcBộ Xây dựng ở phía Nam
2.2.1. Bộ máy tổ chức, quản lý
Bộ máy tổ chức quản lý của các trường đại học công lập
thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam bao gồm:
- Hội đồng Trường
- Ban Giám hiệu
- Hội đồng khoa học trường
- Các khoa chuyên môn, phòng nghiệp vụ, chức năng và các
đơn vị dịch vụ, hỗ trợ khác.
2.2.2.Hoạt động quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng
viên các trường Đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực
Miền Nam
2.2.2.1 hực trạng y dựng ế hoạch, quy hoạch đội
ngũ giảng viên
Ƣu điểm:
- Các cơ quan quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập đã ban hành nhiều chính sách chung trên
13


phạm vi toàn quốc. Đó là cơ sở thuận lợi cho các trường đại học
công lập thực hiện việc xây dựng, quy hoạch đội ngũ của mình nhằm
chuẩn hóa cũng như nâng cao trình độ chuyên môn cho giảng viên, từ
đó thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đơn vị không chỉ
hiện tại mà còn trong tương lai.
- Công tác xây dựng, quy hoạch đội ngũ viên chức nói chung
và đội ngũ giảng viên nói riêng đã được Cấp ủy Đảng của Nhà

trường chú trọng xây dựng, xem đó là một trong những nội dung hết
sức quan trọng, thể hiện sự quan tâm, lãnh đạo đúng đắn, đầy đủ về
công tác nhân sự. Xem công tác nhân sự, đội ngũ là vấn đề then chốt
nhằm xây dựng nhà trường ngày càng phát triển.
Hạn chế:
- Công tác xây dựng, quy hoạch đội ngũ giảng viên của các
trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền nam
nhìn chung chưa được chú trọng thực hiện trên thực tế, việc ban
hành, xây dựng các kế hoạch, quy hoạch chưa được thực hiện để làm
cơ sở cho công tác triển khai trên phạm vị toàn trường. Thay vào đó,
các trường chỉ mới dừng lại ở việc tạo các điều kiện, hỗ trợ cho “sự
chủ động” của viên chức thông qua các cơ chế, quy định trong quy
chế chi tiêu nội bộ của trường bằng các chính sách hộ trợ tài chính,
thời gian giảm định mức giờ chuẩn để giảng viên hoàn thành chương
trình đào tạo theo hạn định.
- Chưa ban hành cụ thể các quy định riêng biệt về công tác quy
hoạch, phát triển đội ngũcho từng năm và cho từng giai đoạn cụ thể
để làm căn cứ thực hiện cũng như xây dựng các giải pháp cụ thể để
hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.
- Một trong những lý do dẫn đến thực trạng trên làdo hiện nay
chưa có quy định của pháp luật buộc các trường phải thực hiện công
tác quy hoạch đội ngũ. Các chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên,
hay quy định về xếp loại, phần tầng các trường đại học đang chỉ dừng
lại ở dạng “mục tiêu phấn đấu” để các trường phải tự nỗ lực thực
hiện nếu muốn được đánh giá tốt, mà chưa bắt buộc phải có quy
hoạch, kế hoạch để triển khai các bước tiếp theo.
2.2.2.2 Thực trạng về công tác tuyển dụng đội ngũ giảng viên
Ƣu điểm:
- Nhìn chung công tác tuyển dụng viên chức là giảng viên ở
các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực miền nam

14


trong những năm qua đã thực hiện tương đối tốt, các trường đã tuyển
được đội ngũ giảng viên trẻ, năng động, có trình độ chuyên môn cao,
đáp ứng tốt các yêu cầu về thực hiện nhiệm vụ chính trị trong giảng
dạy và nghiên cứu khoa học.
- Các quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để các trường
thực hiện công tác tuyển dụng nhìn chung đầy đủ, tạo thuận lợi trong
quá trình thực hiện. Theo đó, công tác tuyển dụng viên chức là giảng
viên thực sự minh bạch, khách quan, rõ ràng về số lượng, tiêu chuẩn,
hình thức tuyển dụng…Do đó, dễ dàng tiếp nhận được hồ sơ các ứng
viên đạt các yêu cầu theo quy định tuyển dụng.
Hạn chế:
- Là đơn vị sự nghiệp công lập, việc tuyển dụng viên chức
mới phải căn cứ vào chỉ tiêu biên chế hàng năm được giao từ Bộ chủ
quản, do vậy các Trường chưa thể tự chủ động tuyển thêm các biên
chế dự phòng cho số viên chức nghỉ hưu theo chế độ, hoặc viên chức
rời bỏ nhiệm sở vì các lý do khác nhau.
- Việc tuyển dụng viên chức chỉ mới thực hiện từng năm một
mà không phải cho một giai đoạn cụ thể. Điều này cho thấy công tác
tuyển dụng nói riêng và dự báo sự thay đổi về nhân sự nói chung
chưa có sự đầu tư nghiên cứu.Nguyên nhân này có thể xuất phát từ
chủ quan của cơ quan, cũng có thể xuất phát từ các cơ chế, thể chế
quy định hiện hành. Cụ thể, hiện nay cả hai trường đại học thuộc bộ
Xây dựng ở khu vực Miền Nam đều đã xây dựng xong Đề án ví trí
việc làm theo quy định tại uyết định số 1071/ Đ-BXD ngày 28
tháng 10 năm 2013 của Bộ Xây dựng về Xây dựng đề án vị trí việc
làm trong các đơn vị hành chính và sự nghiệp thuộc Bộ Xây dựng.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu của tác giả luận văn thì cả hai trường này

vẫn chưa được thông qua Đề án vị trí việc làm mà trường đã xây
dựng và trình Bộ. Như vậy, việc sắp xếp các vị trí công việc cũng
như đánh giá sự thay đổi công việc của một viên chức trên thực tế có
thể thực hiện được, song nó chỉ mang tính nhất thời tại một thời điểm
mà không mang tính giai đoạn, chiến lược.
- Mặc dù các trường đã vận dụng linh hoạt cơ chế, điều kiện tốt
nhất có thể đề thu hút nhân tài nhằm tìm kiếm những người có năng lực
tốt nhất, song vì các một số ràng buộc như thời gian làm việc, thu nhập
thực tế….nên việc tuyển dụng trong nhiều đợt không đủ chỉ tiêu tuyển
dụng như mong muốn. Đặc biệt là việc tuyển các sinh viên có học lực ở
15


lại trường công tác là rất khó khăn, vì trên thực tế, nếu ra ngoài xã hội thì
các sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, giỏi có thể sẽ tìm kiếm được nhiều cơ
hội việc làm tốt, thu nhập cao và cơ hội thăng tiến rõ ràng hơn.
2.2.2.3 Thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giảng viên.
Ƣu điểm:
- Trong thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
giảng viên các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực
Miền Nam đã được hết sức chú trọng, quan tâm thực hiện và đạt
được các kết quả khả quan.
- Các quy định pháp luật liên quan đã quy định đầy đủ, rõ ràng,
gắn với các tiêu chuẩn của giảng viên đại học. Từ đó tạo cơ sở, điều
kiện cho các trường xây dựng các kế hoạch, chiến lược đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giảng viên nhằm đáp ứng kịp thời sự thay đổi, phát
triển của các trường đại học trong xu hướng phát triển chung về kinh
tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là sự thay đổi mạnh mẽ về tri thức, khoa
học và công nghệ.

- Hầu hết giảng viên đã ý thức tốt việc tự học tập, nâng cao
trình độ chuyên môn các kỹ năng sư phạm, các kiến thức bổ trợ như
tin học, ngoại ngữ. Do vậy, giảng viên luôn ủng hộ các chương trình
đào tạo và bồi dưỡng mà các trường đề xuất, xây dựng.
- Ngoài việc thực hiện các kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chung của
trường, các đơn vị trực thuộc cũng đã chủ động trong phạm vị và quyền
hạn cho ph p của Hiệu trưởng Nhà trường. Đó là việc các Khoa đã chủ
động liên hệ, phối hợp với các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp có chung
các chuyên ngành, lĩnh vực hoạt động tổ chức các buổi trao đổi, sinh hoạt
học thuật, các buổi báo cáo chuyên đề. Các nội dung này bên cạnh tạo môi
trường sinh hoạt chuyên môn thì nó còn là một trong những cách thức đào
tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, mặc dù không cấp bằng hay chứng chỉ công
nhận cho các giảng viên tham gia.
- Các trường đã chủ động xây dựng và chuẩn bị tốt nguồn kinh
phí kịp thời hỗ trợ cho giảng viên theo học các khóa đào tạo, bồi
dưỡng. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ của Nhà nước cũng như các cơ quan,
tổ chức và trường học nơi giảng viên tham gia chương trình. Đây là
điều kiện tốt để giảng viên hoàn thành nhiệm vụ học tập, bảo đảm
các tiêu chuẩn, yêu cầu chung của pháp luật cũng như định hướng
phát triển của nhà trường.
16


Hạn chế:
- Công tác đào tao, bồi dưỡng mặc dù đã được quan tâm, chú
trọng thực hiện và mang lại các kết quả tích cực. Song nhìn chung
công tác này chưa mang tính hệ thống, toàn diện, cụ thể là việc đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên chưa được cụ thể hóa thành các kế
hoạch, chiến lược hàng năm hay một giai đoạn. Thay vào đó là đào
tạo, bồi dưỡng còn mang tính thời vụ, đột xuất. Tức là chưa gắn với

chiến lược phát triển chung, cụ thể của từng đơn vị và toàn trường.
Do đó chưa có sự chủ động và lộ trình cho các nội dung, chương
trình đào tạo phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ.
- Giữa chiến lược chỉ đạo chung của cấp ủy Đảng và Ban Giám
hiệu Nhà trường chưa có sự thống nhất cao trong nhận thực và xây
dựng các chương trình hành động cụ thể để hoàn thành các nội dung
trongNghị quyết mà Đảng ủy đã đề ra. Công tác đánh giá, tổng kết
công tác đào tạo, bồi dưỡng từng năm, từng giai đoạn chưa được chú
trọng thực hiện. Từ đó chưa nhìn nhận hết được các ưu điểm, tồn tại
để đưa ra các giải pháp hoặc điều chỉnh, thay đổi các chương trình,
phương thức đào tạo cho từng đối tượng giảng viên khác nhau.
- Một số chương trình đào tạo còn nặng về tính lý thuyết, thiếu
thực tế và đôi khi là “không cần thiết” cho một số đối tượng giảng
viên. Ví dụ như việc yêu cầu tất cả các giảng viên giảng dạy trình độ
đại học phải có chứng chỉ “lý luận giảng dạy đại học” hay” Nghiệp
vụ sư phạm”, hoặc phải có trình độ “Trung cấp lý luận chính trị”. uy
định này là cần thiết, phù hợp cho giảng viên nói chung nhưng chưa
hẳn phù hợp, cần thiết đối với giảng viên giảng dạy các ngành nghề
mang tính nghệ thuật cao như Thời trang, Thiết kế mỹ thuật, Kiến
trúc…Bởi lẽ giảng viên giảng dạy các ngành nghề này chủ yếu là
thực hành dựa trên các nguyên lý thiết kế, nghệ thuật và thị hiếu thẩm
mỹ của các đối tượng liên quan. Từ thực tế đó, dẫn tới tình trạng
giảng viên bắt buộc phải tham gia các khóa đào tạo này không hứng
thú cũng như sau khóa học không phát huy hoặc ứng dụng nhiều vào
quá trình giảng dạy thực tế. Và từ đó câu chuyện tốn thời gian, kinh
phí đào tạo, bồi dưỡng, gây lãng phí chungcho Trường và xã hội.
- Với những trường đại học giảng dạy và đào tạo các ngành nghề
mang tính đặc thù, trong điều kiện yêu cầu về trình độ, số lượng giảng viên
phải có bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ tối thiểu trong một ngành nghề cụ thể đã dẫn
tới thực tế là các giảng viên vì việc phải chuẩn hóa bằng cấp, nhưng thực tế

17


các chuyên ngành học Thạc sĩ, Tiến sĩ lại không gắn với chuyên môn giảng
dạy. Thực tế này là sự mâu thuẫn giữa trong Luật giáo dục đại học, cụ thể tại
mục 3, Điều 54 quy định “Trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng
dạy trình độ đại học là Thạc sĩ trở lên. Trường hợp đặc biệt ở các ngành
chuyên môn đặc thù do Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo quy định”. Thế
nhưng, hiện nay, Bộ giáo dục và Đào tạo chưa ban hành một quy định cụ
thể nào về trình độ chuẩn của giảng viên giảng dạy chương trình đại học đối
với các ngành có chuyên môn đặc thù. Điều nay gây khó khăn rất lớn cho
các trường có đào tạo ngành nghề đặc thù, trong đó có các trường đại học
công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam.
- Mặc dù các cơ chế hộ trợ của Nhà nước cũng như sự quan
tâm, hỗ trợ thêm về kinh phí của Trường đại học nơi giảng viên công
tác là tương đối tốt, song chỉ mới đáp ứng một phần, gây khó khăn
không nhỏ cho giảng viên tham gia học tập nâng cao trình độ, đặc
biệt là tham gia học tập ở nước ngoài.
2.2.2.4. hực trạng tổ chức thực hiện chế độ tiền
lương, chính sách đãi ngộ, chế độ khen thưởng và kỉ luậtđối với đội
ngũ giảng viên.
Ƣu điểm:
- Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã hết sức quan
tâm, nghiên cứu để cải cách chế độ tiền lương, nhằm hướng tới sự
hợp lý theo sự vận động, phát triển của nền kinh tế thị trường. Các
quy định về mức lương tối thiểu và các phụ cấp ngành nghề, thâm
niên công tácđối với viên chức là giảng viên giảng dạy trong các cơ
sở giáo dục đại học công lập đã thể hiện phần nào sự hợp lý trong
tổng quan chung về mức lương so với các khu vực khác trong nền
kinh tế quốc dân.

- Cùng với mức lương cơ sở, phụ cấp ngành nghề, thâm niên
theo quy định của Nhà nước, các trường đại học đã áp dụng hình thức
trả lương linh hoạt, trong đó được trích từ nguồn thu sự nghiệp được
ph p theo quy định của pháp luật để chuyển vào phần “lương tăng
thêm” cho giảng viên. Từ đó tăng thêm các nguồn thu nhập, giúp
giảng viên yên tâm công tác, cống hiến cho sự phát triển của nhà
trường cũng như cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước.
- Mức lương cho giảng viên được tính toán hợp lý dựa trên các
ngạch giảng viên theo quy định, gắn với các nhiệm vụ trong giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, các hoạt động chuyên môn và đóng góp thực tế.
18


- Công tác thi đua, khen thưởng đã được xây dựng đầy đủ các
cơ chế, tiêu chí đánh giá rõ ràng, công bằng, cụ thể cho các danh hiệu
thi đua ở các cấp. Kèm theo đó là các khoản thưởng tương ứng theo
hướng ngày càng tăng. Điều này đã tạo động lực cho đội ngũ giảng
viên phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ theo phân công.
Hạn chế:
- Với sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế hiện nay, mức
lương cơ sở đối với giảng viên so với giá trị thực tế trên các mặt hàng
thiết yếu cũng như các dịch vụ cho cuộc sống là vẩn còn thấp. Trong
trường hợp các trường đại học công lập có nguồn thu sự nghiệp ít thì
không thể trả lương cao cho giảng viên. Chính điều này có thể dẫn tới
tình trạng giảng viên vì thu nhập thấp mà bỏ ra ngoài làm doanh
nghiệp, hoặc nếu có ở lại trường thì cũng phải tìm thêm các nguồn
thu nhập khác, dẫn tới việc không chuyên tâm, đầu tư cho công việc
chuyên môn là giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Do mặt bằng lương thấp, do đó các trường đại học công lập
khó thu hút được các nhân sự có trình độ chuyên môn cao. Thay vào

đó, các trường dân lập, quốc tế với cơ chế trả lương theo thỏa thuận
trong hợp đồng lao động có thể dễ dàng thu hút các nhân sự này.
- Hiện nay, Đảng và Nhà nước luôn xem giáo dục là quốc
sách, do đó luôn có những chính sách, cơ chế ưu tiên riêng dành cho
ngành giáo dục để đẩy mạnh chất lượng giáo dục và đào tạo các cấp.
Tuy nhiên, việc thực hiện quan điểm này chưa có sự đồng bộ khi chỉ
mới quan tâm thực hiện các nội dung về đầu tư cơ sở vật chất, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên mà chưa có cơ chế hoặc quy định
mức lương riêng cho đội ngũ giảng viên. Bởi lẽ chỉ khi nào giảng
viên thật sự yên tâm với thu nhập thì mới có thể yên tâm để thực hiện
tốt nhất các nhiệm vụ. Từ đó mới có thể nâng cao chất lượng dạy và
học theoxu hướng hội nhập và phát triển hiện nay.
- Khen thưởng, kỷ luật là một trong những nội dung quan
trọng và cần thiết để thực hiện các nội dung khác liên quan tới quản
lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập
như: công tác quy hoạch, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, đảm bảo sự
kỷ cương, quy định của Trường và ngành giáo dục…Và mặc dù quy
định đã đầy đủ, song trên thực tế công tác này được triển khai ở một
khía cạnh nào đó, nó như một nhiệm vụ bắt buộc, đôi khi là khô khan
19


và mang tính hình thức. Vì thế, nội dung công tác này chưa thu hút
đươc sự tham gia, hưởng ứng nhiệt tình của đội ngũ giảng viên. Theo
đó kết quả cũng như ý nghĩa của công tác thi đua, khen thưởng chưa
đi vào thực tế đời sống và hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học
của giảng viên.
- Mặc dù có triển khai song trên thực tế các trường chỉ thực
hiện từng năm một thông qua các thông báo mà chưa có xây dựng
các quy chế, quy định liên quan tới thi đua khen thưởng của Trường,

làm cơ sở chung mang tính ổn định, lâu dài và tránh sự thụ động cho
giảng viên trong việc xác định các nội dung thi đua.
2.2.2.5. Thực trạng về thanh tra, kiểm tra và xử lý
các vi phạm pháp luật đối với giảng viên trong các cơ sở giáo dục
đại học công lập.
Ƣu điểm:
- Các quy định liên quan tới công tác thanh tra, kiểm tra và
xử lý các vi phạm pháp luật đối với giảng viên các trường đại học
công lập được xây dựng và ban hành kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan, cá nhân liên quan thực hiện đầy đủ các chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
- Các trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực
Miền Nam đã căn cứ vào các quy định pháp luật về thanh tra, kiểm
tra, các quy định về xử lý vi phạm cũng như các hướng dẫn của các
cơ quan quản lý nhà nước để chủ động xây dựng và ban hành các quy
chế, quy định thực hiện trong phạm vi đơn vị của mình. Điều này đã
đảm bảo thực hiện các quy định liên quan tới công tác này trong
phạm vi của cơ quan, đơn vị.
- Nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra của các cơ quan, cá nhân làm
công tác thanh tra ngày càng được hoàn thiện theo hướng tăng cường
chuyên môn, nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh
đó là trách nhiệm, đạo đức ngành nghề ngày cũng được nâng cao.
Hạn chế:
- uản lý nhà nước về hoạt động thanh tra giáo dục đã được
quy định đầy đủ, cụ thể, trong đó quy định cơ chế hoạt động cho
thanh tra các trường đại học công lập Phòng Thanh tra giáo dục),
điều này đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát các nội dung công việc
liên quan tới đội ngũ giảng viên, song vì mang tính “nội bộ” nên còn
có tình trạng dễ dãi, xem đó là chuyện trong nhà “tự đóng cửa bảo
20



nhau”. Do vậy, hầu như không có các kết luận thanh tra của phòng
chức năng kể cả khi có những sai phạm, không đúng pháp luật liên
quan tới đội ngũ giảng viên xảy ra ở trong đơn vị của mình.
- Công tác thanh của các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp là
Bộ giáo dục và Đào tạo, Bộ chủ quản) tuy có tiến hành nhưng số lượng
còn ít. Bên cạnh đó là tình trạng vẫn còn đâu đó có sự “thỏa thuận” về kết
luận thanh tra trước khi gửi tới các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải
quyết. Trong công tác thanh tra chưa đảm bảo thực hiện hết các nguyên
tắc cứng, theo tính pháp lý, mà cùng với nó, yếu tố “cái tình” vẫn còn chi
phối tương đối nhiều cho kết luận của đoàn thanh tra.
Công tác xử lý các vi phạm, kỷ luật đối với giảng viên còn
mang tính nhắc nhở, chưa thực hiện hết bản chất của các vi phạm xảy
ra. Điều này dẫn tới tình trạng chưa thật sự quyết liệt, nghiêm minh
trong các vấn đề cần thực hiện theo quy định của pháp luật, do đó
không chì làm giảm tính chất của pháp luật là đúng - sai phải rõ ràng,
mà còn làm ảnh hướng chung tới môi trường văn hóa, sư phạm trong
các trường đại học.
Tiểu kết chƣơng 2:
Với những thực trạng hiện có đã được phân tích cụ thể tại chương
2, đặc biệt là các hạn chế, nhược điểm đã nêu ở chương này, sẽ là cơ sở
cho các đề xuất, kiến nghị xoay quang các giải pháp nhằm hoàn thiện tốt
hơn nội dung quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại
học công lập nói chung và các trường thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền
Nam, nhằm hướng tới mục tiêu hoàn thiện các cơ chế, mục tiêu, phương
pháp quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công
lập thuộc Bộ Xây dựng và trên toàn quốc nói chung.
CHƢƠNG 3
HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI ĐỘI

NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
THUỘC BỘ XÂY DỰNG Ở KHU VỰC MIỀN N M
3.1. Một số định hƣớng của Đảng và Nhà nƣớc về giáo dục, đào
tạo và đổi mới công tác quản lý nhà nƣớc về đội ngũ giảng viên
các trƣờng đại học công lập.
3.2. Hoàn thiện quản lý nhà nƣớc đối với đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập thuộc Bộ Xây dựng ở khu vực Miền Nam
21


3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý nhà nước
về đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập.
- Cần nâng cao nhận thức cũng như sự chỉ đạo quyết liệt của
cấp ủy đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
- Cần phải có các đánh giá, phân tích thực trạng đội ngũ
giảng viên hiện tại, căn cứ vào chiến lược phát triển chung của ngành
giáo dục, các quy định về kiểm định, đảm bảo chất lượng giáo dục
đại học, đồng thời bám sát nhiệm vụ chính trị của nhà trường, đơn vị
trong hiện tại, tương lai trên cơ sở định biên số lượng giảng viên để
xây dựng kế hoạch, quy hoạch đội ngũ giảng viên.
- Cần phải đảm bảo sự bao quát chung cũng như cơ cấu hợp
lý về độ tuổi, số lượng các chức danh giảng viên. Vừa theo hướng trẻ
hóa đội ngũ vừa theo hướng nâng dần tỉ lệ giảng viên có trình độ
Tiến sĩ, giáo sư, Phó giáo sư, đồng thời nâng số lượng giảng viên
chính, giảng viên cao cấp.
- Do vậy cần phải có thông tin công bố rộng rãi trong phạm
vi cơ quan về các nội dung, chỉ tiêu trong kế hoạch để tất cả mọi
người cùng biết và thực hiện. Từ đó phát huy trách nhiệm chung của
mỗi cá nhân theo hướng phấn đấu, rèn luyện và học tập theo những
nội dung mà kế hoạch, quy hoạch đã đề ra. Tránh các trường hợp quy

hoạch chỉ nằm trên giấy tờ mà không được triển khai vào thức tế.
3.2.1.2 oàn thiện các quy định về tuyển dụng, quản lý và sử
dụng đội ngũ giảng viên.
- Cần thực hiện việc đánh giá lại các quy định liên quan tới
công tác tuyển dụng viên chức nói chung và giảng viên nói riêng theo
quy định hiện hành. Trên cơ sở đó rà soát, đánh giá các ưu điểm, hạn
chế mà quy định hiện tại đang điều chỉnh với tinh thần cầu thị, lắng
nghe tiếng nói của các bên liên quan đơn vị sự nghiệp nhà nước,
người được tuyển dụng, chuyên gia nhân sự…).
- Cần xây dựng và ban hành chính sách tuyển dụng riêng
thống nhất trên phạm vi toàn quốc đối với đội ngũ giảng viên trên cơ
sở áp dụng các tiêu chuẩn cụ thể được quy định trong Luật giáo dục
và Luật giáo dục đại học. Cùng với đó là việc quy định đầy đủ các
chế độ, chính sách đãi ngộ, thu hút người tài, người có trình độ
chuyên môn cao để trở thành giảng viên đại học. Các quy định về chế
độ đãi ngộ, trả lương cho giảng viên cần bám sát thực tế cuộc sống,
gắn với vùng, miền và sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
22


- Bộ giáo dục cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu về giảng viên
các trường đại học trên toàn quốc, luôn kịp thời cập nhập sự thay đổi,
biến động qua từng học kỳ, năm học. Từ đó tránh sự thụ động cũng
như có sự khoa học, hợp lý hơn trong công tác quản lý.Ở đây không
chỉ là phương pháp mà còn là việc thay đổi tư duy từ cũ sang mới
theo chiều hướng áp dụng công nghệ thông tin và các khoa học quản
lý đi kèm.
- Cần có sự rà soát, đánh giá tổng thể riêng đối với các luật
cũng như mối quan hệ giữa các luật với nhau như giữa Luật Viên
chức với Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học.

3.2.1.3. oàn thiện về cơ chế chính sách ồi dưỡng, đào tạo,
chế độ đãi ngộ và hen thưởng đối với đội ngũ giảng viên các trường
đại học công lập
- Cần rà soát lại các chương trình, nội dung đào tạo theo quy
định bắt chung của Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học và Điều lệ
Trường đại học.
- Cần có quy định riêng, cụ thể đối với chuẩn chức danh giảng
viên đối với các ngành nghề mang tính đặc thù, từ đó xây dựng các chế
độ, chính sách bồi dưỡng riêng cho các đối tượng giảng viên này.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng cần có sự thay đổi theo
các hướng khác nhau như đào tạo chuyên sâu theo chuyên ngành
dạng hình thức đào tạo cấp bằng), đào tạo, bồi dưỡng theo chuyên
đề về văn hóa, lịch sử, phương pháp nghiên cứu khoa học, hay tâm
lý, giáo dục trong thời kỳ kỷ nguyên số
- Cần thức hiện công tác thi đua khen thưởng theo hướng
thực chất hơn, trong đó gắn với các nhiệm vụ cụ thể được quy định
cho từng chức danh giảng viên. Cùng với đó là hoàn thiện các công
cụ theo dõi, đánh giá mức độ hoàn thành công việc cũng như các nội
dung đã đăng ký thi đua hàng năm. Đảm bảo sự minh bạch, công
bằng và công khai rộng rãi kết quả thi đua đạt được cho từng cá nhân,
tập thể nơi giảng viên công tác.
- Xem xét lại cách thức trả lương cho đội ngũ giảng viên
hiện nay trên cơ sở dựa vào năng lực và kết quả lao động thực tế.
Tránh các trường hợp cào bằng theo hệ số bằng cấp, chuyên môn, giờ
giấc lên lớp…Hay đúng hơn đó chính là trả lương theo vị trí việc làm
đã được xây dựng và phê duyệt hàng năm hay theo giai đoạn.
23


3.2.1.4. oàn thiện về công tác thanh tra, iểm tra và ư

lý vi phạm ỷ luật.
- Cần phải thay đổi nhận thức theo hướng nâng cao tinh thần
trách nhiệm, đạo đức công vụ của các bộ phận nhân sự tham gia công
tác thanh tra, kiểm tra.
- Phải xây dựng cơ chế thật sự công khai, minh bạch, đặc biệt
là công khai những vi phạm, sai phạm, khuyết điểm, từ đó sẽ tăng
thêm giá trị của kết quả thanh tra, làm gương để các đơn vị khác
tránh được những sai sót, vi phạm ở cùng một nội dung, ở trong cùng
khối sự nghiệp giáo dục là các trường đại học công lập.
- Cần xây dựng cơ chế phối hợp, giám sát các hoạt động liên
quan của giảng viên trong trường đại học. Bên cạnh đó cần tăng thêm
các chức năng, nhiệm vụ của phòng Thanh tra giáo dục trong nhà
trường, theo hướng tăng quyền hạn, và quyền hạn đó phải tương đối
độc lập với quyền lực của Hiệu trưởng.
3.2.1.5. Các iến nghị đối với Chính phủ, ộ giáo dục và
Đào tạo và các ộ ngành khác ở rung ương
Với Chính phủ:
- Cần rà soát, tổng kết, đánh giá lại việc thực hiện các nội dung
theo quy định của pháp luật ở các cơ sở giáo dục đại học công lập
liên quan tới việc quản lý nhà nước về viên chức nói chung và đội
ngũ giảng viên nói riêng. Trong đó, cần đánh giá một cách chính xác
sự tác động, mối quan hệ giữa các Luật Viên chức, Luật giáo dục và
Luật giáo dục đại học.
- Chính phủ cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn về trách nhiệm
giải trình đối với các trường đại học hiện nay. Đó là trách nhiệm giải
trình trước các bên liên quan mà trước hết là với các cơ quan quản lý
nhà nước.Cùng với đó là trách nhiệm kiểm soát, kiểm duyệt của các
cơ quan quản lý nhà nước đối với các nội dung giải trình mà các
trường đã thực hiện. Trong đó nội dung giải trình về đội ngũ cán bộ,
viên chức nói chung và đội ngũ giảng viên nói riêng theo hướng đảm

bảo các quy định của pháp luật về số lượng, chất lượng và các nội
dụng quản lý, sử dụng là điều quan trọng cần thiết để thực hiện tốt
hơn công tác quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường
đại học công lập.
Với Bộ giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ
24


- Cần rà soát, nghiên cứu thay đổi các chế độ chính sách liên
quan tới tiền lương và các phụ cấp khác dành cho đội ngũ giảng viên
tại các trường đại học công lập. Nhằm hướng tới việc tăng thu nhập
thực tế từ lương, tạo sự yên tâm cho đội ngũ giảng viên yên tâm gắn
bó, công tác tại các trường. Các chính sách trả lương cho đội ngũviên
chức cần gắn với thực tế của thị trường lao động, trên cơ sở đóng góp
thực tế sức lao động của giảng viên đại học.
- Bộ giáo dục cần sớm có các hướng dẫn liên quan tới chuẩn
đội ngũ giảng viên ở các ngành nghề đặc thù, giúp cho các trường đại
học thuận lợi cho công tác tuyển dụng, bổ nhiệm ngạch giảng viên
cũng như quá trình sử dụng, quản lý.
- Xem x t điều chỉnh các quy định về đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giảng viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế, kèm th o đó là các
cơ chế, chế độ chính sách dành cho công tác này.
- Tham mưu, xây dựng và trình Chính phủ lộ trình hội nhập
đại học Việt Nam với đại học trong khu vực và trên thế giới. Trong
đó chú trọng các giải pháp để nâng tầng xếp hạng các đại học Việt
Nam trong khu vực, Châu Á và trên thế giới. Từ đó làm cơ sở động
lực cho các trường phấn đấu nâng cao chất lượng mọi mặt để đạt các
chuẩn theo quy định.
Với bộ chủ quản (Bộ Xây dựng):
- Bộ chủ quản đóng vai trò là cơ quan trực tiếp quản lý đội

ngũ giảng viên tại các trường trực thuộc sự quản lý của Bộ, do đó, Bộ
Xây dựng cần phải thường xuyên thực hiện công tác hướng dẫn,
thanh tra, kiểm tra các nội dung quản lý nhà nước về đội ngũ giảng
viên các trường thuộc Bộ Quản lý.
- Xác định lại các tiêu chuẩn chuyên môn cũng như các tiêu
chuẩn khác đối với đội ngũ giảng viên các trường trực thuộc trên cơ
sở các tiêu chuẩn chung và tính đặc thù riêng của Bộ mình, từ đó đề
nghị Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành hoặc phối hợp ban hành các
quy định về tiêu chuẩn đối với đội ngũ giảng viên.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng, quy hoạch đội ngũ giảng viên
các trường do Bộ quản lý, làm cơ sở cho các trường trực thuộc tiếp
tục xây dựng chiến lược riêng của mình trên chiến lược chung của Bộ
cũng như toàn ngành giáo dục trên toàn quốc.
Tiểu kết chƣơng 3
25


×