Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Chiến lược đại dương xanh cho các sản phẩm nước mắm nam ngư của công ty CP thực phẩm masan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.75 KB, 16 trang )

CHIẾN LƯỢC ĐẠI DƯƠNG XANH CHO CÁC SẢN PHẨM NƯỚC MẮM
NAM NGƯ CỦA CÔNG TY CP THỰC PHẨM MASAN

I/ Chiến lược Đại Dương Xanh

1. Nội dung
"Đại Dương Xanh" chiến lược là một chiến lược phát triển và mở rộng thị trường,
trong đó có không có đối thủ cạnh tranh hoặc cạnh tranh không cần thiết mà các công
ty có thể khám phá và khai thác – của các học giả Kim và Mauborgne (được xem xét
nghiên cứu về chiến lược của hai giáo sư tại Viện INSEAD của Pháp).
Có một cần phân biệt giữa chiến lược và chiến lược Blue Ocean Dương Red. Blue
Ocean là những khoảng trống thị trường chưa được khai thác đầy đủ các giá trị tiềm
năng, trong khi một sự giàu có cơ hội để phát triển hứa hẹn lợi nhuận cao. Trong mô
hình này đại dương, cạnh tranh không cần thiết, bởi vì quy tắc của trò chơi đã không
được thiết lập. Các đại dương đỏ là thị trường truyền thống phổ biến, đã bị lấp đầy bởi
các đối thủ cạnh tranh và đã được khai thác ở độ sâu. Trong Red Dương, ranh giới đã
được thành lập và được chấp nhận và các quy tắc của cạnh tranh được xác định rõ
ràng.

2. Đặc điểm của chiến lược Đại dương xanh
Từ các khái niệm trên, nó có thể dễ dàng thấy rằng chiến lược Blue Ocean có
những đặc điểm sau đây:
• Không tập trung vào khai thác nhu cầu hiện tại, tập trung vào việc tạo ra và có
những nhu cầu mới.
• Đừng cố gắng để cân bằng giá trị / chi phí, chỉ đạo để phá vỡ trạng thái cân bằng giá
trị / chi phí.


• Không đặt toàn bộ hoạt động của công ty trong việc theo đuổi sự khác biệt hoặc chi
phí thấp. Chiến lược Đại dương xanh hoạt động chung của công ty trong chiến lược:
theo đuổi sự khác biệt cũng như theo đuổi chi phí thấp.


. Đừng cạnh tranh trong khoảng thị trường đang tồn tại, hãy tạo ra một thị trường
không có cạnh tranh.
. Đừng đánh bại đối thủ cạnh tranh, hãy làm cho cạnh tranh trở nên không cần thiết.
II/ Chiến lược đại dương xanh cho các sản phẩm nước mắm Nam Ngư của Công
Ty CP Thực Phẩm Masan
1. Tổng quan về Công ty CP Masan Food
1.1. Giới Thiệu
Công ty CP Thực Phẩm Masan được thành lập trên cơ sở sáp nhập Công ty cổ
phần thương mại Việt Tiến và Công ty công nghiệp nhập khẩu và xuất khẩu Công
Nghệ vào năm 2003. Tháng 12 năm 2008, Công ty cổ phần thương mại Masan đổi tên
thành Công ty Cổ phần Thực phẩm Masan (Masan Food).
Hiện nay, Masan Food là một trong những công ty hàng đầu trong ngành công
nghiệp thực phẩm tại Việt Nam.
1.2. Sản phẩm chính
Nước tương: Masan Food đã sản xuất và tung ra hai thương hiệu nước tương
Chin-su và Hoàng tử Ba duy trì thị phần 85%.
Nước mắm: Chin-su và Nam Ngư là hai thương hiệu của Masan Food mà làm cho
thị phần 59,3%.
Nước sốt hạt tiêu: Thực phẩm Masan chiếm 40% thị phần mặt hàng này với 2
thương hiệu Chin-su và nước sốt hạt tiêu Việt Nam
Mì: Masan đã chia sẻ thị trường 45% với các nhãn hiệu mì ăn liền Omachi và Tiến
Vua


2. Sản phẩm Nước mắm Nam Ngư
2.1.

Tổng quan thị trường nước sốt cá của Việt Nam

Theo Tổng cục Thống kê, mỗi năm, Việt Nam đã bán được hơn 200 triệu lít nước

mắm với tổng doanh thu của khoảng 7200-7500 tỷ đồng, tạo ra một sức hấp dẫn rất
lớn cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài (công ty). Tuy nhiên, mặc dù
nghề làm nước mắm xuất hiện một thời gian dài trước đây với hàng trăm cơ sở sản
xuất, nhưng bây giờ, thị trường đã thuộc về nhãn hiệu hàng hoá lớn. Theo một cuộc
khảo sát do Công ty nghiên cứu thị trường Nielsen Việt Nam, nước mắm có khoảng
20% doanh số bán hàng của ngành công nghiệp thực phẩm tại Việt Nam với một tốc
độ tăng trưởng trung bình 23% mỗi năm. Thống kê tại các siêu thị lớn cũng cho thấy
rằng doanh số bán nước mắm đóng chai là cao nhất trong lĩnh vực nước sốt. Và các
thị trường nước sốt với trên 95% gia đình Việt Nam được sử dụng trong bữa ăn hàng
ngày trong nhiều năm đã diễn ra rất thú vị. Số liệu từ chương trình Tổng cục Thống
kê, mỗi tháng, doanh số bán hàng của ngành đạt khoảng 600-650 tỷ đồng nhưng 400
tỷ đồng thuộc Masan Food. Các doanh số bán hàng được thành lập kể từ giữa năm
2009, khi Masan trên thị trường Đệ Nhị thương hiệu nước mắm Nam Ngư.
Không chỉ Chinsu, Nam Ngư II, vào đầu những năm 2010, thị trường cũng chứng
kiến sự xuất hiện của một thương hiệu nước sốt cá tên là Đệ Nhất của Acecook.
Acecook đã dành rất nhiều trong chiến dịch truyền thông, quảng cáo và các mức chi
tiêu hiện hành cho quảng cáo, khuyến mãi chiếm 70% doanh số bán hàng của thương
hiệu này. Một thời gian dài, trên các kệ hàng trong siêu thị, Đệ Nhất chai nước mắm
(20.000 VND) là luôn luôn đi kèm với quà tặng một chai dầu ăn trị giá 10.000 đồng.
Đối với quà tặng trị giá lên đến 50% của mặt hàng đó, Đệ Nhất thu hút các bà nội trợ,
và tất nhiên, doanh số bán hàng của thương hiệu này tăng lên nhanh chóng. Tính đến
thời điểm này, Đệ Nhất nước mắm đã có 3% thị phần trên toàn khu vực.
Do áp lực cạnh tranh từ các thương hiệu lớn của nước mắm trên thị trường, vào


đầu những năm 2009, Liên Thành đầu tư xây dựng hệ thống phân phối, thay đổi hệ
thống nhận dạng.
Theo tính toán của các doanh nhân, sau khi hai sóng Đệ nhị Nam Ngư và gần đây
hơn là Đệ Nhất thương hiệu cá trong nước sốt, chẳng hạn như Thanh Liên, Thuận
Phát, Hưng Thịnh, Hồng Hạnh Hạnh phúc, Thanh Hà (Phú Quốc), 584 (Nha Trang) ...

đang thu hẹp thị trường.
Với chiến dịch quảng cáo và khuyến mãi của hai thương hiệu mạnh của Masan và
Acecook, Liên Thành đã đạt được chỉ 3 tỷ đồng doanh thu mỗi tháng mặc dù được
xếp hạng thứ sáu trên thị trường, Hồng Hạnh chỉ bán được hơn 3 triệu lít mỗi năm,
khoảng 1 triệu lít Hạnh Phúc nhãn hiệu ...
Tổng quan về thị trường của nước sốt cá Việt Nam đã đề cập ở trên cho thấy thực
tế là Masan thực sự là một thương hiệu mạnh. Không chỉ thành công với thương hiệu
Chin-su, Masan cũng đang tìm kiếm một hướng cụ thể, nhắm vào phân khúc thị
trường đại chúng của nông thôn Việt Nam với thương hiệu nước mắm Nam Ngư, điều
này có thể được coi là một thành công Chiến lược Đại dương xanh của công ty Masan
Food.
2.2. Chiến lược Đại dương xanh cho thương hiệu nước mắm Nam Ngư
Sau 18 tháng nghiên cứu liên tục dựa trên các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm
nghiêm ngặt nhất được áp dụng trên thế giới, vào tháng 11/2007, Tổng công ty Masan
Food đã giới thiệu sạch nước mắm Nam Ngư, đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của
Bộ Y tế.
Được sản xuất bởi công nghệ hiện đại của Chin-su các loại thực phẩm có một chuỗi
khép kín, Nam Ngư tự hào là sản phẩm góp phần bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng
với tiêu chí 4 "không":
• Không có Urê có hại.
• Không có vi khuẩn kỵ khí gây ra những thay đổi mùi.


• Không có vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm.
• Không có nấm men, nấm mốc.
Được chiết xuất từ cá cơm tươi với công thức nấu ăn đặc biệt, Nam Ngư là rất
ngon, quyến rũ, màu sắc hấp dẫn, bắt mắt, hương thơm đặc trưng. Nam Ngư không
phải là chỉ được sử dụng như nước sốt thơm ngon trong bữa ăn hàng ngày nhưng nó
cũng được sử dụng như gia vị cho hương vị xốt, ngâm, đóng góp thêm hương vị các
món ăn của gia đình.

Như đã đề cập ở trên, Masan đang dẫn đầu thị trường nước mắm tại Việt Nam với thị
phần 59,3%. Bên cạnh đó, nước mắm cũng là một mảng tạo ra doanh thu cao nhất cho
Masan Food với gần 50% doanh số bán hàng của công ty. Đó là do thực tế rằng
Masan Food đã thành công trong việc tìm kiếm một phân khúc thị trường hoàn toàn
mới, việc tìm kiếm một đại dương xanh của nó sở hữu. Masan đã tập trung vào thị
trường nông thôn của Việt Nam, từ đó bắt đầu phân phối các mặt hàng bao gồm nước
mắm Nam Ngư trên các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Với lợi thế của một
sản phẩm chất lượng tốt, đẹp và giá cả phải chăng, nước mắm Nam Ngư đã thực sự
chinh phục người dân nông thôn Việt Nam.
Nhận thấy thị trường nông thôn là một thị trường tiềm năng rất lớn vì 72% dân số
sống ở nông thôn, công ty đã tiến hành khảo sát thị trường và tìm thấy rằng các sản
phẩm nước sốt cá ở khu vực nông thôn nói chung theo định dạng truyền thống, tốt,
khá rẻ chỉ từ 15.000 20.000 đồng một lít, nhưng không đóng chai thủy tinh. Vì vậy,
các công ty cho các thương hiệu nước mắm Nam Ngư được tiêu thụ ở nông thôn.
Ngoài ra, đó cũng là một lợi thế giúp Masan Food được thành công trong việc tiếp cận
thị trường nông thôn là hệ thống phân phối rộng khắp công ty, cho đến nay, hệ thống
phân phối của Masan Food đã được thành lập tại 64 thành phố trên cả nước với 141
nhà phân phối và 125.000 nhà bán lẻ và nhân viên bán hàng mạnh mẽ lực lượng hơn
1200 người. Điều này làm cho nó dễ dàng cho các sản phẩm của Masan Food cho
người tiêu dùng trong cả khu vực thành thị và nông thôn. Và thực tế cho thấy rằng


nước mắm Nam Ngư đã có một kết quả đáng ngạc nhiên, chỉ trong khu dân cư số 7
(Quảng Ngãi), lên đến 90% hộ gia đình ở đây sử dụng nước mắm Nam Ngư của
Masan Food. Điều này cho thấy sự chỉ đạo của Masan là hoàn toàn chính xác.
Không chỉ vậy, dự đoán thực tế rằng trong tương lai gần, các đối thủ cạnh tranh cũng
sẽ đưa hàng đến các khu vực nông thôn để đạt được các công ty chia sẻ thị trường,
Masan Food đã phát động một chiến lược mới để thống trị đại dương xanh trước sự
cạnh tranh. Sau thành công hơn mong đợi của Nam Ngũ thương hiệu nước mắm,
Masan tiếp tục tung ra các sản phẩm với Ngũ Nam De Nhi trong đó lợi thế giá cả cạnh

tranh, nhưng chất lượng cao, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Với thiết kế lít
chai 1 nhưng chi phí chỉ có 14.000 đồng / chai, Nam Ngu De Nhi thực sự chinh phục
người tiêu dùng, đặc biệt là các bà nội trợ ở các vùng nông thôn và vùng sâu, vùng xa.
Điều này không chỉ giúp Masan củng cố thị phần của mình trong thị trường nông
thôn, nhưng nó cũng gây ra áp lực giá cả đối thủ cạnh tranh.
Hơn nữa, để duy trì vị trí dẫn đầu trong Blue Ocean, Masan tiếp tục ra mắt dòng sản
phẩm mới của nước mắm, chuẩn bị sẵn nước mắm chanh, tỏi, ớt, Chin-su mở là nhanh
chóng được chấp nhận bởi người tiêu dùng. Để đáp ứng thay đổi thị hiếu tiêu dùng,
một loạt các nhãn hiệu hàng hoá khác như: Thanh Hà, Cholimex, Hưng Thịnh ... cũng
giới thiệu loại nước mắm.
Với thị phần lớn, nước mắm thực phẩm giúp Masan phát triển mạnh mẽ. Theo báo cáo
tài chính, nước mắm chiếm 45% trong cơ cấu doanh thu và 42% lợi nhuận của công
ty. Với tốc độ tăng trưởng khoảng 10% của khu vực, các thương nhân dự báo doanh
thu từ nước mắm của Masan có thể đạt được mức tăng trưởng trung bình hàng năm
của 51% trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2013. Nhưng trên thực tế, trong năm 2008,
Masan Food đã đạt lợi nhuận ròng 23 triệu USD, năm 2009, doanh số bán hàng của
Masan Food là 3.958 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế là 668 tỷ đồng, đạt 167% so với năm
2008. Và theo báo cáo tài chính năm 2010, tổng doanh thu của Masan Food là hơn
5.689 tỷ đồng, doanh thu từ các sản phẩm nước mắm là 3845 tỷ đồng, lợi nhuận sau


thuế của Masan Food đạt mức kỷ lục 1252 tỷ đồng. Điều này là rất mong muốn thành
công cho các doanh nghiệp Việt Nam và nguồn gốc của thành công này là do rằng
thực phẩm Masan đã tìm thấy đại dương xanh của riêng mình và là một người tiên
phong trong phân khúc thị trường mới. Sự thành công của Masan Food là bằng chứng
điển hình cho sự thành công mà chiến lược Blue Ocean mang đến cho các doanh
nghiệp.

Câu 2: Anh / chị hãy phân tích 1 thí dụ về 1 doanh nghiệp tại Việt Nam tạo được sự khác
biệt thông qua kênh phân phối hoặc 1 tình huống xung đột (conflict) trong các kênh phân

phối của 1 doanh nghiệp tại Việt Nam và đề xuất hướng giải quyết.

Phân tích một ví dụ về một doanh nghiệp tại Việt Nam được thực hiện sự khác biệt
thông qua một kênh phân phối
Cho đến nay đã có nhiều khái niệm phân phối, phụ thuộc vào quan điểm và mục
đích nghiên cứu
- Nếu quan điểm của người tiêu dùng, phân phối hàng hóa chỉ đơn giản là một
chuyển hàng hóa thông qua trung gian nhiều người đứng giữa chúng và các nhà sản
xuất.
- Trên quan điểm quản lý trường học, phân phối hàng hoá, bao gồm tất cả các hoạt
động để đưa sản phẩm từ nhà sản xuất cho người tiêu dùng hoặc người sử dụng.
Đặc biệt, các nhà sản xuất liên kết với các hàng hóa trung gian để phân phối cho
người tiêu dùng lập các kênh phân phối. Stern và El. Ansary các kênh phân phối được
xác định như sau:
Phân phối là một hệ thống của các tổ chức độc lập liên quan đến quá trình của việc
tạo ra một sản phẩm hay dịch vụ đã sẵn sàng cho sử dụng hoặc tiêu thụ. (Bộ sưu tập
của các tác giả của Đại học Ngoại thương - "Lý thuyết Marketing" - NXB Giáo dục).


Như vậy, trong các kênh phân phối luôn có những nhà sản xuất, trung gian và khách
hàng cuối cùng.
Phương pháp phân phối và các kênh phân phối
Phương pháp phân phối
- Phương pháp phân phối trực tiếp là hoạt động phân phối hàng hóa trực tiếp từ
nhà sản xuất cho người tiêu dùng mà không có hệ thống trung gian.
Trong phương pháp phân phối trực tiếp, công ty có thể chủ động trong việc xác
định khối lượng kiểm tra, phân phối và giám sát hoạt động phân phối, kịp thời đáp
ứng sự phát triển của thị trường, tuy nhiên, các doanh nghiệp đã đầu tư lượng vốn lớn
cho các hoạt động phân phối.
Phương pháp phân phối gián tiếp phân phối hàng hóa thông qua mạng lưới các

trung gian.
Với phương pháp gián tiếp phân phối, công ty không phải lo lắng về vốn đầu tư
cho hoạt động phân phối cũng như áp dụng kinh nghiệm và sự hiểu biết của các trung
gian, giúp sản phẩm dễ dàng xâm nhập các thị trường mới, giới hạn và phân bổ rủi ro
trong kinh doanh. Tuy nhiên, việc thực hiện của phương pháp gián tiếp phân phối sẽ
làm giảm quyền tự chủ của doanh nghiệp. Việc kiểm soát hoạt động phân phối của
công ty là khó khăn hơn để đối phó với biến động của thị trường trong thời gian và
doanh thu từ hoạt động kinh doanh đã được chia sẻ với các trung gian.
Các loại kênh phân phối
- Kênh 0: một kênh phân phối trực tiếp. Kênh này chỉ có nhà sản xuất và người
tiêu dùng.
- Channel 1: gián tiếp kênh, kênh ngắn, còn được gọi là các kênh phân phối gián
tiếp, bao gồm cả hoạt động bán hàng thông qua một trung gian như một nhà bán lẻ.
Thông thường, kênh phân phối cấp độ 1 được sử dụng cho các hạng mục kinh doanh
có tính chất chuyên nghiệp của sản phẩm là hàng hóa dễ hỏng tươi ...


- Channel 2, 3 được gọi là kênh dài, đầy đủ kênh. Đây là loại của các kênh phân phối
là một trong những phổ biến nhất trong các hoạt động phân phối hàng hóa. Khi sử
dụng một kênh dài, nhà sản xuất không có mối quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng
cuối cùng, vì vậy các thông tin thu được thường là thông tin thứ cấp mà không phải là
kịp thời và do đó ít chính xác hơn. Trong mỗi kênh phân phối trung gian được gọi là
các kênh phân phối. Mức độ cao hơn, còn các kênh phân phối, phụ thuộc vào đặc tính
sản phẩm và các điều kiện thực tế trên thị trường để lựa chọn mức độ của các kênh và
các kênh phân phối.
II / sự khác biệt trong các kênh phân phối của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
của Tổng công ty Công ty Cổ phần Bảo hiểm Việt Nam (BIC)
1.

Tổng quan về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển của Tổng công ty Công ty Cổ

phần Bảo hiểm Việt Nam (BIC)

1.1.

Giới thiệu về BIC

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển của Tổng công ty Công ty Cổ phần Bảo hiểm Việt
Nam (BIC), trước đây là Việt Nam - Australia Công ty liên doanh Công ty Bảo
hiểm (một công ty liên doanh giữa Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam và Tập đoàn Bảo hiểm QBE quốc tế của Úc), là cấp giấy phép thành lập theo
giấy phép đầu tư 2126/GP của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 16 ngày 07
Tháng Tám năm 1999.
Theo giấy phép điều chỉnh 11/GPDC4/KDBH ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính, Việt Nam - Úc Bảo hiểm Liên doanh Công ty đổi tên thành
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển của Công ty Bảo hiểm Việt Nam dựa trên cơ sở
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã mua lại toàn bộ phần vốn của
Tập đoàn Bảo hiểm QBE quốc tế của Úc tại Việt Nam - Úc Bảo hiểm Công ty liên
doanh.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Việt Nam là một


đơn vị thành viên của hệ thống và Ngân hàng Đầu tư Phát triển của Việt Nam được
thành lập theo Quyết định số 292/QD-HDQT vào ngày 28 Tháng Mười Hai, năm
2005 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có vốn điều
lệ 5.000.000 $ (tương đương với 71,586 tỷ đồng), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam đầu tư 100% vốn, có con dấu riêng và hạch toán độc lập. BIC đi vào
hoạt động chính thức vào 01 ngày 01 tháng năm năm 2006.
1.2.

Phạm vi hoạt động và các sản phẩm và dịch vụ


BIC có chức năng kinh doanh trên các hình thức bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo hiểm
phi nhân thọ trong nước và nước ngoài, hoạt động đầu tư tài chính, như sau:
Trực tiếp bảo hiểm
- Nhà thầu và rủi ro xây dựng
- Nhà thầu thực vật và Máy móc
- Máy móc Breakdown
- Tất cả các tài sản rủi ro
- Fire và bảo hiểm Perils Đồng Minh
- Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
- Tiền bảo hiểm
- Bảo hiểm tai nạn cá nhân
- Bảo hiểm du lịch
- Bảo hiểm trách nhiệm
- Bảo hiểm hàng hóa Marine
- Hull Bảo hiểm
- Bảo hiểm xe cơ giới


- Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính
- Hàng không bảo hiểm
- Các sản phẩm bảo hiểm khác
Tái bảo hiểm:
Tiếp nhận và nhượng tái bảo hiểm liên quan đến tất cả các lớp bảo hiểm nhân thọ
không
Đầu tư tài chính
Kinh doanh cổ phiếu và trái phiếu, tham gia vào các công ty cổ phần và đầu tư tài
chính khác.
Những người khác
- Mất Khảo sát ý kiến

- Các hoạt động khác theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản, hoạt động cho
vay (như đã nêu theo Luật Tổ chức tín dụng).
2. Sự khác biệt trong các kênh phân phối của BIC
2.1. Sự phân bố của BIC
- Kênh phân phối trực tiếp: Ngoài ra để bán bảo hiểm trực tiếp cho khách hàng, BIC là
công ty bảo hiểm đầu tiên đi tiên phong trong phát triển các kênh bán hàng của bảo
hiểm trực tuyến. Kênh tập trung vào xây dựng BIC bao gồm: mua / bán bảo hiểm qua
máy ATM, thông qua tin nhắn điện thoại di động (SMS), internet (ví điện tử Vnmart),
thông qua tổng đài 1800,9456.
Cụ thể, từ cuối tháng Sáu, 2010, BIC đã hoàn thành việc thành lập, bán chương trình
bảo hiểm tại các hộp của các dịch vụ đa phương tiện tại các siêu thị Coopmart ở thành
phố Hồ Chí Minh khu vực và sẽ tiếp tục mở rộng đến 60 siêu thị Coopmart trên toàn
quốc. BIC đánh giá cao các kênh phân phối bảo hiểm bán hàng trực tuyến là sự phát


triển tiềm năng và sẽ tập trung nguồn lực để mở rộng trong tương lai để xác nhận vị trí
lãnh đạo thị trường.
- Kênh phân phối gián tiếp: Trong kênh này, BIC vẫn sử dụng các kênh phân phối
truyền thống là đại lý và môi giới. Đầu năm sáu tháng đầu năm 2010, BIC tiếp tục mở
rộng mạng lưới bán hàng của mình với việc thành lập 12 khu vực bán hàng văn phòng
tại các tỉnh, thành phố lớn trên khắp đất nước, có tiềm năng phát triển của hoạt động
bảo hiểm, nâng tổng số bán hàng khu vực Sở BIC cho 50 phòng bên cạnh hệ thống 19
chi nhánh trong hoạt động ổn định.
Bên cạnh đó, giống như nhiều công ty bảo hiểm khác, BIC cũng tiến hành cung cấp
sản phẩm bảo hiểm thông qua hệ thống ngân hàng. Doanh thu từ các kênh
bancassurance của BIC trong 6 tháng đầu năm 2010 đạt gần 30 tỷ đồng, chiếm 14%
tổng doanh thu cho công ty (riêng các dịch vụ của các ngân hàng thương mại là đại lý
bán bảo hiểm trực tiếp.)
BIC hiện đang cung cấp gần 10 sản phẩm bảo hiểm thông qua hệ thống BIDV và
liên kết các ngân hàng như Seabank, Bắc Á, Phương Đông, VRB, Techcombank ... với

kế hoạch đa dạng hóa sản phẩm và liên tục mở rộng liên kết mạng lưới với các ngân
hàng khác ngoài BIDV.
2.2.

Phân phối thông qua hệ thống ATM - sự khác biệt của BIC

Các phân phối sản phẩm thông qua các đại lý, sử dụng mạng lưới phân phối thông qua
các ngân hàng (bancassurance) hoặc cung cấp các sản phẩm thông qua các nhà môi
giới chứng khoán, bảo hiểm ... đòi hỏi đầu tư tốn kém trong việc đào tạo nguồn nhân
lực, hoa hồng cho đại lý, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Kênh bán hàng trực tuyến
giúp doanh nghiệp giảm một số chi phí không cần thiết và đặc biệt, giúp doanh nghiệp
tăng doanh số bán hàng nhờ vào khách hàng mới mà kênh truyền thống không thể truy
cập. Với những thay đổi trong xu hướng tiêu dùng, đặc biệt là nắm bắt nhanh chóng
các công nghệ mới của giới trẻ ngày nay, các kênh bán hàng trực tuyến sẽ phát triển


mạnh và sẽ là một hướng quan trọng của sự phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm
trong tương lai.
Nếu Công ty Bảo hiểm Prudential Việt Nam hợp tác với thương mại nước ngoài của
Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam (Vietcombank) để thực hiện các dịch vụ
thanh toán phí bảo hiểm qua kênh ngân hàng trực tuyến VCB-iB @ nking, góp phần
đa dạng hóa các kênh thanh toán phí bảo hiểm. Khách hàng sẽ được miễn phí giao
dịch, hoạt động 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần, các giao dịch có thể được thực hiện
bất cứ nơi nào tại bất kỳ thời điểm nào, lệ phí xác nhận sẽ được gửi đến bạn, thông tin
tài chính của khách hàng sẽ luôn luôn được bảo mật tối đa.
Hoặc Hàn Quốc Công ty Bảo hiểm Việt Nam áp dụng tiện ích nhắn tin trên điện thoại
di động. Theo đó, để đảm bảo lợi ích của khách hàng khi nhận được khiếu nại và bảo
hiểm đầu tiên từ khách hàng, đại lý bảo hiểm sẽ gửi tin nhắn đến tổng đài dịch vụ của
công ty. Chi tiết đầy đủ của tin nhắn, gửi thời gian và người gửi sẽ được sử dụng làm
cơ sở để xác định thời điểm hiệu lực của bảo hiểm tạm thời, do đó nó sẽ đảm bảo tính

khách quan của bồi thường.
Đây là những công ty bảo hiểm không được bán hàng trực tuyến, nhưng đã đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin để cải thiện chất lượng dịch vụ, trong khi đó, BIC đã
mạnh dạn đi tiên phong trong việc triển khai bán bảo hiểm qua máy ATM. Đây là sự
khác biệt trong các kênh phân phối của BIC, giúp công ty gặt hái những thành công
như mong đợi, cho các công ty bảo hiểm trên thị trường Việt Nam ngày nay.
2.2.1. Hệ thống ATM của BIDV
Hệ thống ATM bao gồm các thành phố 64/64 với hơn 1.000 máy ATM BIDV trở
thành ngân hàng đầu tiên có máy ATM mạng trong cả nước.
Khách hàng luôn luôn sẽ cảm thấy thoải mái bởi vì hệ thống ATM BIDV không
chỉ chấp nhận thanh toán thẻ nhưng cũng chấp nhận thẻ VISA, thẻ của các ngân hàng


khác ở các Banknetvn liên minh các ngân hàng Vietinbank, Agribank, Saigonbank và
ABBank, MHB, Habubank và một số của các ngân hàng trong liên minh Smartlink
(Vietcombank, Techcombank, Navibank và SCB).
Rộng hệ thống ATM và dịch vụ thuận tiện là những điểm lợi thế của BIC khi phân
phối các sản phẩm bảo hiểm thông qua hệ thống ATM. Bên cạnh các kênh truyền
thống để bán bảo hiểm, BIC đã thực hiện bán bảo hiểm qua máy ATM. Theo đó, trong
vòng 24 giờ, BIC sẽ theo dõi với khách hàng để xác nhận thông tin và gửi giấy chứng
nhận bảo hiểm cho khách hàng. Đây là điểm ưu việt của kênh này là khách hàng có
nhu cầu mua bảo hiểm có thể chủ động chọn thời gian và địa điểm ATM để thực hiện
các giao dịch và BIC đã thành công bán sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng cá nhân,
chẳng hạn như động cơ bảo hiểm, bảo hiểm người, bảo hiểm chung cư cho hơn 2 triệu
khách hàng có thẻ ATM của BIDV. Tổng công ty bảo hiểm đầu tiên triển khai bán bảo
hiểm qua máy ATM, trong năm 2011, BIC sẽ tiếp tục duy trì vị trí hàng đầu trong sự
phát triển của các kênh bán bảo hiểm trực tuyến. BIC hiện đang xúc tiến để mở rộng
kết nối mạng lưới ngân hàng ngoài hệ thống BIDV, trong Mặt khác, BIC cũng có kế
hoạch đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm được cung cấp thông qua các kênh ATM để
cung cấp cho khách hàng nhiều sự lựa chọn.

2.2.2. BIC của thành công
Về các chỉ tiêu hoạt động, BIC cho biết, tổng doanh thu tích lũy đến ngày 31/12/2010
đạt 875.570 tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2009. Đặc biệt, doanh thu từ các hoạt động
bảo hiểm tăng 36% so với năm 2009 và đạt 552.541 tỷ đồng.
Trong quý tư nhân 4 / 2010 (sau khi chuyển sang mô hình công ty cổ phần), doanh
thu từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm của BIC đạt 180.977 tỷ đồng, tăng 84% so với
cùng kỳ năm 2009, hoàn thành 106% kế hoạch, doanh số bán hàng các khoản đầu tư
tài chính đạt 64,994 tỷ đồng, hoàn thành 130% kế hoạch.


Tổng lợi nhuận trước thuế của BIC trong năm 2010 đạt 32.481 tỷ đồng. Chỉ có lợi
nhuận ra quý năm 2010 đạt 27.046 tỷ đồng, hoàn thành 108% kế hoạch do truyền
thông cổ đông.
BIC của tổng tài sản tại thời điểm 31/12/2010 là 2506.849 tỷ đồng, tăng 38% so với
năm 2009. Vốn chủ sở hữu đạt 682.652 tỷ đồng, tăng 32% so với năm 2009. Tổng bảo
quản quỹ cho các hoạt động bảo hiểm đạt 251.299 tỷ đồng, tăng 42% so với năm
2009.
Phù hợp với cơ cấu doanh thu của sản phẩm bảo hiểm, nhóm các kỹ thuật tài sản và
các sản phẩm bảo hiểm xe động cơ vẫn là sản phẩm chủ đạo, với mức tăng trưởng tốt
so với năm 2009 và chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu.
Kênh phân phối truyền thống như các đại lý và môi giới tiếp tục giữ tăng trưởng mạnh
mẽ, đặc biệt là trong năm 2010 đã chứng kiến một sự tăng trưởng mang tính đột phá
của kênh bancassurance (tăng 133% so với năm 2009, đóng góp 12,9% tổng doanh
thu) và sinh tiên phong trên thị trường của các kênh bán hàng trực tuyến (bao gồm cả
bán bảo hiểm thông qua ATM, SMS, Internet, điện thoại, ...).
Trong năm 2010, BIC đã mở 15 văn phòng kinh doanh. Cùng với sự ra đời của hai
công ty thành viên mới là BIC Bắc và BIC Sài Gòn trong các hoạt động chính thức từ
ngày 2011/01/01, tổng số mạng lưới hoạt động của công ty này đã lên đến 21 công ty
thành viên với 74 văn phòng bán hàng, hơn 500 nhân viên và hơn 1.000 đại lý bảo
hiểm trên cả nước. Các công ty bảo hiểm của BIC ở nước ngoài cũng đạt được những

kết quả tích cực với LVI đã di chuyển vị trí thứ 2 trong thị phần tại Lào, CVI đã vượt
mốc 4% thị phần bảo hiểm tại Campuchia.
Trong tháng Mười Hai, BIC đã được phê duyệt để giữ lại các mã chứng khoán BIC
của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VDS) và Tổng công ty bây giờ là
khẩn cấp để làm các thủ tục liên quan đến việc thực hiện niêm yết cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán tập trung tại cuối tháng Ba, 2011 như kế hoạch cam kết cho các
cổ đông.


References
1.

Chan Kim and Renée Mauborgne “Chiến lược Đại Dương Xanh” – Nhà xuất
bản tri thức

2.

Báo cáo tài chính hợp nhất năm 2008, 2009, 2010 của Công ty cổ phần Thực
phẩm Masan

3.



4.

www.masanfood.com/

5.


Tác giả bộ sưu tập của Đại học Ngoại thương - "Lý thuyết Marketing" -

NXB Giáo dục
6.



7.

/>
8.



9.

/>
10.

/>


×