Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Dịch vụ công tác xã hội với trẻ tự kỷ tại trung tâm sao mai quận thanh xuân hà nôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.66 KB, 80 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ
ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất cứ công trình nào.
Tác giả luận văn


LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu các thầy, cô giáo, cán bộ
quản lý Trường Đại học Lao động và xã hội đã quan tâm, tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập tại trường.
Tôi xin gửi đến giảng viên hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp lời biết ơn
sâu sắc nhất về những định hướng quan trọng và đặc biệt về tinh thần nghiêm
túc trong suốt quá trình để tôi có thể hoàn thành tốt khóa luận này.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến ban lãnh đạo Trung tâm Sao Mai cùng
toàn thể các cán bộ, nhân viên và các phụ huynh tham gia nghiên cứu đã tạo
điều kiện hỗ trợ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Cuối cùng, tôi xin
chân thành cám ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn bên tôi, động viên
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2017
Tác giả


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4



Chữ viết tắt
CTXH
NVCTXH
TC
TTK

Tên đầy đủ
Công tác xã hội
Nhân viên công tác xã hội
Thân chủ
Trẻ tự kỷ


A.
1.

Phần mở đầu

Lý do chọn đề tài

Hiện nay, tự kỷ được xem là “căn bệnh” của thời đại, số lượng trẻ tự kỷ
đang gia tăng một cách đáng báo động ở mọi quốc gia trên thế giới. Ở Mỹ,
những năm 80 của thế kỷ trước, người ta thống kê được số trẻ em mắc tự kỷ
chỉ chiếm 1/2000 trẻ. Đến năm 2010, ở Mỹ có khoảng 560.000 trẻ bị tự kỷ,
chiếm 1/110 trẻ. Tại Anh, số trẻ mắc tự kỷ vào khoảng 1/150 trẻ, theo Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO), cứ 160 người thì có một người tự kỷ [17,tr4].
Tại Việt Nam chưa có con số nghiên cứu chính thức về số lượng trẻ mắc
chứng bệnh tự kỷ. Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội,
nước ta khoảng 200.000 người mắc chứng tự kỷ. Nếu tính theo cách tính của

WHO, con số này chừng 500.000 người. Thực tế số lượng trẻ được chẩn đoán
và điều trị ngày càng tăng từ năm 2000 đến nay. Năm 2015, chỉ tính riêng
Bệnh viện Nhi Trung ương có 2.114 bệnh nhi mắc chứng tự kỷ, trước đó, năm
2014 là 1.847 trẻ. Như vậy, chỉ sau 1 năm số trẻ tự kỷ được phát hiện và điều
trị tại bệnh viện đã tăng gần gấp đôi. Nghiên cứu mô hình khuyết tật ở trẻ em
của khoa Phục hồi Chức năng Bệnh viện Nhi Trung ương giai đoạn 2010 –
2015 cho thấy số lượng trẻ được chẩn đoán và điều trị tự kỷ ngày càng đông;
số trẻ tự kỷ đến khám năm 2015 gấp 50 lần năm 2010; số trẻ tự kỷ đến điều trị
năm 2015 gấp 33 lần năm 2010 [25].
Từ số liệu nêu trên, có thể thấy số trẻ mắc tự kỷ có xu hướng ngày một
gia tăng. Tự kỷ không những gây khó khăn cho chính trẻ tự kỷ mà còn có tác
động, ảnh hưởng tiêu cực đến gia đình của trẻ tự kỷ. Khi trong gia đình có trẻ
tự kỷ thì chính gia đình đó diễn ra những thay đổi lớn theo hướng tiêu cực.
Đây là một cú sốc lớn cho các bậc cha mẹ và những thành viên khác trong gia
đình. Có thể nói, các gia đình có trẻ tự kỷ thường trải qua những đau đớn, bối
rối, căng thẳng và khủng hoảng tột cùng như đang phải đối mặt với một “tai
họa” khủng khiếp. Họ thường không biết phải làm gì hoặc không tìm kiếm các
nhà chuyên môn trợ giúp. Thái độ thương hại hay tội nghiệp của những người
thân quen đối với trẻ và gia đình có trẻ tự kỷ lại càng làm cho gia đình đau
khổ hơn. Những mâu thuẫn căng thẳng trong gia đình có trẻ tự kỷ có thể xảy
ra giữa vợ với chồng, giữa bố mẹ với con cái… Bên cạnh đó, gánh nặng về
kinh tế, thời gian chăm sóc trẻ tự kỷ cùng với những mâu thuẫn, những khó


khăn tâm lý đã trở thành nguy cơ đe dọa hạnh phúc gia đình nếu gia đình
không biết cách vượt qua vấn đề tự kỷ ở trẻ.
Đứng trước hàng loạt những yếu tố khó khăn trên thì việc ra đời các loại
hình dịch vụ CTXH đối với trẻ tự kỷ là một điều tất yếu để đáp ứng nhu cầu
của các bậc phụ huynh, các gia đình có trẻ bị tự kỷ. Tuy nhiên, hiện nay những
công trình nghiên cứu về các loại hình dịch vụ đối với TTK đang còn rất nhiều

hạn chế và khó khăn nhưng Trung tâm Sao Mai - Quận Thanh Xuân – Hà Nội
đã và đang triển khai khá thành công những loại hình đó. Trung tâm là đơn vị
đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực phát hiện sớm- can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ ở
Hà Nội nói riêng và Việt nam nói chung, tại đây trẻ được đối sử bình đẳng,
được học tập và trị liệu với những chuyên gia đến từ khắp mọi nơi trên thế
giới như Anh, Singaro, Nhật Bản… những thầy cô giáo được đào tạo bài bản,
chuyên sâu, ngày càng mang lại kết quả và cách nhìn tích cực đối với trẻ tự kỷ
góp công rất lớn trong việc hỗ trợ trẻ hòa nhập và tái hòa nhập tại cộng đồng.
Đó là lý do tôi chọn đề tài “ Dịch vụ Công Tác Xã Hội với trẻ tự kỷ tại Trung
tâm Sao Mai- Quận Thanh Xuân - Hà Nôi”.
Từ kết quả nghiên cứu, tôi xin được đưa ra cái nhìn tổng quan về hội
chứng tự kỷ, những hành vi bất thường được nhận diện ở trẻ tự kỷ, đồng thời
chỉ ra tính cần thiết của dịch vụ CTXH trong việc hỗ trợ trẻ tự kỷ và gia đình
trẻ, đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp
dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ tự kỷ tại Trung tâm Sao Mai, góp phần thúc
đẩy nghề CTXH phát triển, đảm bảo an sinh xã hội.
Tổng quan tình hình nghiên cứu về vấn đề tự kỷ
2.1.
Tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới về vấn đề tự kỷ
2.

Hội chứng tự kỷ đã có lịch sử phát triển gần 70 năm. Trong khoảng thời
gian này, nghiên cứu về tự kỷ nở rộ, phát triển nhanh chóng và đạt được
những thành tựu nghiên cứu nổi bật ở các nước có nền khoa học phát triển như
Mỹ; Châu Âu. Kết quả tìm kiếm từ “autism” (tự kỷ) trên PsyINFO là 38.250
bài báo, sách, luận văn, luận án. Nếu giới hạn “autism” ở tên của nghiên cứu
thì có 12.174 kết quả. Như vậy có thể nói là số lượng và chủ đề nghiên cứu về
tự kỷ trên thế giới là vô cùng rộng lớn, phong phú. Tự kỷ đã, đang và sẽ rất
được quan tâm nghiên cứu.[24]



Một nghiên cứu có ứng dụng tích cực trong can thiệp sớm cho TTK là
Ứng dụng phân tích hành vi (Aplied Behavior Analyis-ABA). Đây là kết quả
nghiên cứu của Matson, J.L vào năm 2012 ở Đại học Los Angeles California.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở để hình thành phương pháp can thiệp hành vi,
được dùng để phát huy tối đa khả năng học tập của TTK. ABA là một chương
trình can thiệp hành vi của TTK một cách toàn diện trong mọi lĩnh vực liên
quan. Tác giả thử nghiệm chương trình can thiệp sớm cho trẻ nhỏ dựa vào gia
đình cho trẻ. Các lĩnh vực đó có thể là: xã hội, giao tiếp, tự chăm sóc, vui
chơi…. Cấu trúc của ABA gồm hai thành phần chính: dạy thử nghiệm các kỹ
năng riêng biệt và thay đổi hành vi. Các nghiên cứuđều cho thấy sự giáo dục
phù hợp nhất đối với TTK là can thiệp hành vi sớm và tích cực.[20,tr55]
Hepworth D.J (nhà tâm lý Nhi) và Lori Frost (nhà âm ngữ trị liệu)
nghiên cứu phương pháp PECS là Hệ thống giao tiếp thông qua trao đổi tranh
(Picture Exchange Communication System) ứng dụng vào can thiệp sớm cho
TTK. Tác giả sử dụng một loạt chiến lược để giúp TTK có được các kĩ năng
giao tiếp. Tuy nhiên, phương pháp này mới tập trung vào giúp trẻ giao tiếp
không lời, cho phép trẻ lựa chọn cách thể hiện nhu cầu của mình bằng tranh
ảnh. Điều này đã giảm nhẹ hành vi của TTK, và trẻ trở nên vui vẻ hơn chứ
chưa tập trung vào phát triển kĩ năng giao tiếp cho TTK.[23]
Một tổ chức chuyên nghiên cứu về biện pháp can thiệp giúp cải thiện
nhận thức ở TTK đã ghi nhận hiệu quả của phương pháp tương tác xã hội đối
với trẻ tự kỷ. Nghiên cứu này được thực hiện tại một trường đại học ở
Washington, nằm trong chuỗi chương trình chuyên biệt nhằm tìm hiểu về các
phương pháp cải thiện nhận thức và phản ứng của bộ não trẻ tự kỷ. Đứng đầu
nhóm nghiên cứu, bà Geraldine Dawson cho biết: “Quá trình lớn lên và tiếp
thu của một đứa trẻ đang tập đi ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng tương tác xã
hội hàng ngày của các em. Riêng đối với những đứa trẻ mắc chứng tự kỷ thì
sự can thiệp sớm của cộng đồng sẽ giúp các bé nhận được sự tương tác, quan
tâm của cộng đồng" [19, tr.6].

Ngày 11/4 được Liên Hợp Quốc chọn làm ngày tự kỷ (Autism
Awareness Day). Theo báo cáo của Bộ Y tế Trung Quốc, nước này có khoảng
1,6 triệu trẻ tự kỷ (2006). Với đặc trưng là để lại hậu quả lâu dài trong suốt
cuộc đời. Về mặt nhân văn đây là vấn đề xã hội cần hỗ trợ, can thiệp; về mặt


kinh tế xã hội, việc can thiệp sớm sẽ giúp giảm bớt gánh nặng kinh tế xã hội.
Nghiên cứu của Mỹ cho biết con số đánh giá đối với những trẻ sinh vào năm
2000, toàn bộ chi phí chi suốt cuộc đời một đứa trẻ tự kỷ là 3,74 triệu đô la
Mỹ, trong đó cho phí lớn nhất là mất sức lao động chiếm 60% tổng chi phí.
Như vậy, với số lượng lớn trẻ tự kỷ, tổn hại do không có khả năng lao động là
một con số rất lớn [12, tr.15].
Sự tham gia của công tác xã hội trong việc nghiên cứu, hỗ trợ trẻ tự kỷ
cũng như gia đình có trẻ tự kỷ trên thế giới đã và đang dành được nhiều sự
quan tâm của các nhà hoạt động công tác xã hội cũng như các tổ chức xã hội
khác. Điều này khẳng định tầm quan trọng của chuyên ngành CTXH trong
lĩnh vực tự kỷ, từ đó có thể thấy cơ hội phát triển dành cho dịch vụ CTXH là
rất lớn, chính những dịch vụ đó sẽ làm thay đổi và ảnh hưởng trực tiếp đến
tương lai của TTK sau này.
2.2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam về tự kỷ và dịch vụ
công tác xã hội đối với trẻ tự kỷ

Ở Việt Nam nghiên cứu về trẻ tự kỷ chỉ mới được bắt đầu nghiên cứu
vào khoảng thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Từ năm 2015 trở lại đây, vấn đề trẻ tự
kỷ đã được nhiều ngành quan tâm nghiên cứu như tâm lý học, giáo dục học, y
học... Một loạt các Trung tâm nuôi dạy trẻ tự kỷ ra đời, các Bệnh viện mở ra
các khoa để can thiệp cho trẻ tự kỷ, các trường học mở các lớp học chăm sóc giáo dục TTK là những điều kiện thuận lợi cho các nghiên cứu này.
Nguyễn Thị Hương Giang (2010), “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm

sàng của trẻ tự kỷ từ 18 đến 36 tháng tuổi của” chỉ ra hiện nay ở Việt Nam
các nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng của TTK còn hạn chế, chưa có những
nghiên cứu mô tả lâm sàng một cách toàn diện ở lứa tuổi nhỏ trước 3 tuổi. Kết
quả cho thấy tỷ lệ trẻ tự kỷ ở mức độ nặng còn cao. Trẻ tự kỷ thường có khiếm
khuyết về chất lượng quan hệ xã hội như: Không giao tiếp bằng mắt (86,9%),
không biết gật đầu hay lắc đầu khi đồng ý hoặc phản đối (97,6%), Thích chơi
một mình (94,8%), không biết khoe khi được đồ vật (976%), không đáp ứng
khi được gọi tên (96,8 %). Khiếm khuyết về chất lượng giao tiếp: Phát ra một
chuỗi âm thanh khác thường (82,1%), không biết chơi giả vờ (98,4%)…. [3].


Ths. Đào Thị Thu Thủy (2012): “Nghiên cứu hành vi ngôn ngữ của trẻ
tự kỷ 5-6 tuổi của” chỉ ra can thiệp hành vi ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ sẽ giúp trẻ
tăng cường khả năng nhận thức, tương tác và hòa nhập cộng đồng. Nghiên cứu
cũng mô tả thực trạng hành vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ tuổi mẫu giáo nhằm giúp
giáo viên hỗ trợ, chuyên gia giáo dục trẻ tự kỷ…xác định được mức độ hành
vi ngôn ngữ của trẻ tự kỷ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục TTK, giúp
trẻ tự kỷ tham gia học hòa nhập. Có thể thấy kết quả nghiên cứu này đã đóng
góp về mặt lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu hành vi ngôn ngữ của TTK
độ tuổi 5 – 6 tuổi. Tuy nhiên đây mới chỉ là sự đóng góp ở khía cạnh chuyên
môn dành cho các chuyên gia, giáo viên hỗ trợ trẻ còn về phía gia đình do
chuyên môn giáo dục can thiệp trẻ có nhu cầu đặc biệt còn hạn chế nên ngoài
mặt lý luận, những gia đình có trẻ tự kỷ cũng cần một sự hỗ trợ cụ thể hơn
[13].
Năm 2013, tác giả Hoàng Thị Phương trong công trình “Một số biện
pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5 – 6 tuổi”, trong đó giao
tiếp được khai thác dưới góc độ hành vi văn hóa sơ đẳng nhưng là cơ bản, phổ
biến, đặc trưng cho lứa tuổi mẫu giáo lớn. Đó là những kỹ năng mang tính nền
tảng làm cơ sở để giáo dục và phát triển sau này cho trẻ ở cấp tiểu học [11,
tr.8].

Năm 2014, Nguyễn Thị Thanh đã hoàn thành luận án tiến sĩ với đề tài “
Biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ tự kỉ từ 3 – 4 tuổi”, luận án đi
sâu nghiên cứu việc phát triển các kỹ năng giao tiếp cho trẻ tự kỷ nói chung và
trẻ từ 3 – 4 tuổi nói riêng [11, tr.9].
Tóm lại, từ kết quả các nghiên cứu được dẫn ra trên đây, đã giúp khẳng
định được một số vấn đề sau: Các đề tài nghiên cứu này đều chưa đề cập đến
khía cạnh kết hợp sự tham gia của các nguồn lực gia đình, xã hội vào hỗ trợ
trẻ tự kỷ; chưa nói đến vai trò, quy trình nghiệp vụ mà NVCTXH sử dụng để
hỗ trợ trẻ tự kỷ giảm thiểu những hành vi bất thường trong giao tiếp, hay chưa
kết nối được các dịch vụ xã hội trong CTXH để hỗ trợ trẻ tự kỷ cũng như gia
đình trẻ.
Mặc dù vậy những tài liệu, nghiên cứu đã được công bố nói trên luôn là
những tài liệu tham khảo quan trọng và bổ ích để tôi đi sâu nghiên cứu và thực


hiện nghiên cứu đề tài "Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ tự kỷ tại Trung
Tâm Sao Mai – Quận Thanh Xuân – Hà Nội".
3.

Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng dịch vụ công tác xã hội
đối với trẻ tự kỷ, đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dịch vụ
công tác xã hội với trẻ tự kỷ tại Trung Tâm Sao Mai hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ tự kỷ.
Phân tích thực trạng dịch vụ công tác xã hội với trẻ tự kỷ tại Trung tâm
Sao Mai – Quận Thanh Xuân – Hà Nội.
Đề xuất một số biện pháp giúp cho dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ tự
kỷ tại Trung Tâm Sao Mai đạt hiệu quả cao hơn.

5. Khách thể nghiên cứu
4.

-

Đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu trên 50 khách thể sau: 2 NVCTXH; 20
trẻ mắc hội chứng tự kỷ; 15 gia đình có trẻ đang theo học tại trung tâm; 13
giáo viên dạy TTK tại trung tâm Sao Mai.
6.

Đối tượng nghiên cứu

Dịch vụ công tác xã hội trong việc trợ giúp trẻ em tự kỷ tại Trung tâm
Sao Mai.
Phạm vi nghiên cứu
7.1.
Nội dung nghiên cứu
7.

Trong luận văn này chúng tôi tập trung vào việc nghiên cứu lý luận và
thực trạng về dịch vụ CTXH đối với TTK tại Trung tâm Sao Mai – Quận
Thanh Xuân – Hà Nội và đề xuất một số biện nâng cao hiệu quả của dịch vụ
CTXH đối với TTK tại Trung tâm.
7.2.

Không gian nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Sao Mai- quận Thanh XuânHà Nội.
7.3.


Thời gian nghiên cứu


8.

Từ ngày 1/2/2107 – 1/6/2017
Phương pháp nghiên cứu

Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này tôi chủ yếu sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
8.1.

Phương pháp phân tích tài liệu, văn bản

Sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, văn bản là tiến hành phân loại,
lựa chọn, khái quát, so sánh thông tin từ các tài liệu, văn bản như: Nghị định,
Thông tư, Quyết định, chính sách, sách, báo, thông tin trên Internet, các kết
quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhằm tìm ra những nội dung, những
vấn đề có liên quan đến dịch vụ CTXH đối với trẻ tự kỷ, trên cơ sở đó xác
định xem những vấn đề gì được giải quyết và những vấn đề gì chưa được giải
quyết.
8.2.

Phương pháp quan sát

Là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu bằng cách
quan sát, theo dõi và ghi chép các biểu hiện, hành vi bất thường của trẻ tự kỷ
để đánh giá mức độ tự kỷ ở trẻ; Quan sát hoạt động của NVCTXH, giáo viên,
gia đình trong quá trình tương tác với trẻ để có cơ sở đánh giá thực trạng cung
cấp dịch vụ CTXH đối với TTK; Quan sát những thay đổi của trẻ trước và sau

khi có sự can thiệp, hỗ trợ bằng các kỹ năng công tác xã hội để đánh giá hiệu
quả của dịch vụ CTXH đối với TTK.
8.3.

Phương pháp chuyên gia

Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong các lĩnh vực tâm lý, giáo
dục, y tế, CTXH về các biện pháp nhằm cải thiện khả năng giao tiếp, tương
tác xã hội của TTK; giảm thiểu những hành vi bất thường ở trẻ tự kỷ.
8.4.

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: phát ra 50 phiếu bảng hỏi
dành cho các bậc phụ huynh có con đang theo học tại trung tâm Sao Mai với 6
câu hỏi dưới hình thức trắc nghiệm, câu hỏi mở, câu hỏi đóng, câu hỏi dạng
tần suất,dạng đánh giá mức độ xoay quanh nội dung nghiên cứu về các loại
hình dịch vụ CTXH đối với TTK để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài. Từ


đó, làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH đối với
TTK, và đề ra biện pháp cung cấp dịch vụ CTXH cho TTK trên địa bàn đạt
hiệu quả cao hơn.
8.5.

Phương pháp phòng vấn sâu

Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu ban lãnh đạo trung tâm với 5 câu hỏi mở
xoay quanh các nội dung: các loại dình dịch vụ CTXH đối với TTK, các yếu
tố ảnh hưởng đến dịch vụ CTXH đối với TTK, tầm quan trọng của các dịch vụ

CTXH đối với TTk; và cũng tiến hành phỏng vấn sâu 5 câu hỏi đối với
NVCTXH tại trung tâm với các nội dung liên quan để khai thác thêm thông tin
phục vụ đề tài nghiên cứu.
8.6.

Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phương pháp thống kê toán học để phân tích và xử lý dữ liệu
có được qua các kết quả nghiên cứu, các kết quả phỏng vấn và số liệu thu thập
được trong quá trình nghiên cứu.
8.7.

Phương pháp điển cứu

Sử dụng phương pháp điển cứu nghiên cứu một trường hợp cụ thể để
làm nổi bật được những hiệu quả mà dịch vụ CTXH mang lại đối với trẻ tự kỷ
tại địa bàn nghiên cứu.
9.

Kết cấu khóa luận tốt nghiệp

Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Danh mục tài
liệu tham khảo; nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ tự kỷ
Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác xã hội với trẻ tự kỷ tại Trung tâm
Sao Mai – Quận Thanh Xuân – Hà Nội.
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả dịch vụ công tác xã hội với trẻ tự
kỷ tại Trung tâm Sao Mai – quận Thanh Xuân – Hà Nội.



Chương 1
LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ TỰ KỶ
1.1.
Lý luận về trẻ tự kỷ
1.1.1. Khái niệm tự kỷ
Tự kỷ xuất phát từ chữ Hy lạp: “Autism”, nghĩa là tự động, tự thân trong
tâm thần học, được Bleuler sử dụng lần đầu tiên để chỉ một triệu chứng cơ bản
của bệnh tâm thần phân liệt. Triệu chứng tự kỷ là nét cơ bản của các triệu
chứng âm tính trong tâm thần phân liệt. Người bệnh mất đi phần lớn các chức
năng giao tiếp và tương tác với môi trường xã hội. Biểu hiện như là thu kín
vào bên trong, khó giao tiếp, khó tương tác. Chứng tự kỷ ở trẻ em được phát
hiện và mô tả tại Mỹ và Úc bởi Leo Kanner (1943) và Hans Asperer (1944)
dùng để chỉ một chứng bệnh (ngày nay gọi là rối loạn) biểu hiện bằng sự sút
kém nghiêm trọng và lan tỏa các chức năng tâm thần trên các phương diện:
Các chức năng tương tác xã hội kém phát triển nghiêm trọng; chức năng ngôn
ngữ phát triển chậm và lệch lạc bất thường, hành vi và ứng xử nghèo nàn, định
hình, lặp đi lặp lại, bệnh phát trước 36 tháng tuổi.[24]
Theo trang của Liên hợp quốc về tự kỷ thì: Tự kỷ là một loại khuyết tật
phát triển suốt đời được thể hiện trong vòng 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do rối
loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. Tự kỷ có thể
xảy ra ở bất kỳ cá nhân nào không phân biệt giới tính, chủng tộc, giàu nghèo
và địa vị xã hội. Tự kỷ được biểu hiện ra ngoài bằng những khiếm khuyết về
tương tác xã hội, khó khăn về giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, và hành vi,
sở thích và hoạt động mang tính hạn hẹp và lặp đi lặp lại.
Theo Hệ thống phân loại bệnh tật thế giới (ICD-10) của Tổ chức Y tế
thế giới, bệnh tự kỷ là bệnh rối loạn phát triển lan tỏa với các triệu chứng như
hạn chế khả năng tương tác xã hội, hạn chế khả năng giao tiếp và có hành vi
kém đa dạng, lặp đi lặp lại (WHO, 1992) [24]. Bệnh phát hiện trước 3 tuổi và
tỉ lệ mắc bệnh ở nam cao gấp 3 - 4 lần ở nữ
Theo trang Web: edoctor.vn thì Chứng tự kỷ hay còn gọi là Autism là

cụm từ mô tả chứng rối loạn cảm giác, hành vi.[23]


Theo trang Web: tretuky.com thì Tự kỷ là một loại khuyết tật phát triển
thể hiện trong vòng 3 năm đầu đời. Tự kỷ là do rối loạn của hệ thần kinh gây
ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra ở bất kỳ cá nhân nào
không phân biệt giới tính, giàu nghèo và địa vị xã hội...[24]
Qua khảo sát các khái niệm từ các nguồn khác nhau tôi cho rằng tự kỷ
được hiểu như sau: “Tự kỷ là hội chứng rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh
hưởng đến hoạt động của não bộ. Người bị tự kỷ có những rối loạn về nhiều
mặt nhưng biểu hiện rõ nhất là rối loạn về giao tiếp, quan hệ xã hội và hành
vi”.
Đề tài sẽ sử dụng thuật ngữ “tự kỷ” thay cho các thuật ngữ khác như “tự
phong tỏa”, “tự bế”; thuật ngữ “hội chứng tự kỷ” cũng tương đồng với thuật
ngữ “tự kỷ”. Đề tài không nghiên cứu tất cả các rối loạn trong nhóm rối loạn
phát triển lan tỏa mà chỉ nghiên cứu rối loạn phổ tự kỷ hay gọi chung là tự kỷ.
1.1.2.

Tiêu chuẩn chẩn đoán tự kỷ ở trẻ em

Hiện nay đang có 2 tiêu chí chẩn đoán được đánh giá rất cao về tính
chính xác và độ tin cậy trong chẩn đoán tự kỷ đó là: 1) Sổ tay thống kê và
chẩn đoán các rối loạn tâm thần, Hội tâm thần học Hoa Kỳ (DSM); 2) Hệ
thống phân loại bệnh tật thế giới (International Classification of Diseases,
ICD).
*Sổ tay thống kê và chẩn đoán các rối loạn tâm thần, Hội tâm thần học
Hoa Kỳ:
Nghiên cứu chứng minh các tiêu chí của DSM-IV-TR có độ tin cậy cao,
không có tiêu chí nào bị thừa. Vì thế, DSM-IV-TR rất hiệu quả trong việc chẩn
đoán bệnh tự kỷ ngay cả khi một bác sĩ chưa có kinh nghiệm chịu trách nhiệm

chẩn đoán. Tuy nhiên, với hội chứng Asperger và PDDNOS, các tiêu chí này
lại không mấy hữu dụng. Theo nghiên cứu của Tryon nếu dùng các tiêu chí
của DSM-IV-TR để chẩn đoán hội chứng Asperger, 85% trẻ có bệnh sẽ được
chẩn đoán là không có bệnh. Như vậy, các tiêu chí dành cho hội chứng
Asperger trong DSM-IV-TR chưa phù hợp. Thực tế, các bác sĩ thường chẩn
đoán hội chứng Asperger nếu trẻ có các dấu hiệu của bệnh tự kỷ nhưng không
bị chậm nói.


Bảng 1.1: Các tiêu chí dùng trong DSM-IV-TR
Nhóm triệu
chứng

Hành vi

1. Khi giao tiếp với người
khác, trẻ ít dùng cử chỉ, dáng
điệu, biểu hiện khuôn mặt
hay giao tiếp bằng mắt.
Nhóm 1:
2.Không có bạn cùng trang
Hạn chế khả
lứa.
năng
3.Không chủ động chia sẻ sở
tương
thích và niềm vui với người
tác xã hội
khác.
4.Không đáp lại cảm xúc

và hành vi của người khác
khi tương tác xã hội.
1.Chậm biết nói.
2. Khó có thể gợi chuyện
hoặc tiếp chuyện người khác.
Nhóm 2:
3.Không biết sử dụng ngôn
Hạn chế khả
ngữ đúng cách:
năng giao
4.Dùng từ hoặc cấu trúc câu
tiếp
lặp đi lặp lại và sai nghĩa.
5.Không chơi bắt chước hoặc
chơi đóng vai.
1.Sở thích của trẻ rất hạn
chế, trẻ bị thu hút bởi một vài
đồ vật/hành động nhất định.
Nhóm 3:
2. Có hành vi lặp đi lặp lại
Hành vi lặp đi tạo thành thói quen cứng
lặp lại, sở thích nhắc.
hạn
3. Có hành vi vận động lặp đi
chế
lặp lại và thường thấy ở trẻ
tự kỷ (như vỗ tay, xoay vòng
tròn,v.v.).
4. Chú ý đến một số bộ phận
nhất định của đồ vật.


Tiêu chí chẩn
đoán bệnh tự kỷ

Có ít nhât 2 hành vi
thuộc nhóm này

Có ít nhất 1 hành vi
thuộc nhóm này

Có ít nhất 1 hành vi
thuộc nhóm này

(Nguồn: [20, tr.163 - 167])


* Hệ thống phân loại bệnh tật thế giới (International Classification of
Diseases, ICD).
Theo Hệ thống phân loại bệnh tật thế giới (ICD-10) của Tổ chức Y tế
thế giới, bệnh tự kỷ là bệnh rối loạn phát triển lan tỏa với các triệu chứng như
hạn chế khả năng tương tác xã hội, hạn chế khả năng giao tiếp và có hành vi
kém đa dạng, lặp đi lặp lại (WHO, 1992) [21, tr. 412]. Bệnh phát hiện trước 3
tuổi và tỉ lệ mắc bệnh ở nam cao gấp 3 - 4 lần ở nữ. Những tiêu chí để chẩn
đoán bệnh là:
Một là, trẻ không có khả năng tương tác xã hội như các trẻ cùng tuổi.
Hai là, hành vi và sở thích của trẻ kém đa dạng, trẻ thường lặp đi lặp lại
một số hành vi nhất định.
Trẻ tự kỷ
1.1.3.1.
Khái niệm trẻ tự kỷ

1.1.3.

Qua khảo sát các khái niệm từ các nguồn khác nhau tôi cho rằng trẻ tự
kỷ được hiểu như sau: Trẻ tự kỷ là trẻ có hội chứng rối loạn của hệ thần kinh
gây ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ. Trẻ bị tự kỷ có những rối loạn về
nhiều mặt nhưng biểu hiện rõ nhất là rối loạn về giao tiếp, quan hệ xã hội và
hành vi.
1.1.3.2.

Một số đặc điểm cơ bản của trẻ tự kỷ

Đặc điểm về hình dáng cơ thể: TTK có bề ngoài như bình thường. Các
công bố từ trước tới nay chưa có nghiên cứu nào nói đến sự khác thường về
thể trạng bên ngoài của TTK [11, tr.12].
Đặc điểm cảm giác: Ngưỡng cảm giác của TTK không bình thường. Do
đó trong trị liệu TTK người ta cũng quan tâm nhiều đến trị liệu giác quan hay
điều hòa cảm giác [11, tr.12-13].
Đặc điểm về tư duy, tưởng tượng: TTK cũng gặp khó khăn nhất định
trong tưởng tượng. Do đó, trẻ khó có thể hiểu trọn vẹn ý nghĩa những gì có
trong trí nhớ, khó khăn trong việc tổng kết, khái quát để đưa ra kết luận, rút
kinh nghiệm [11, tr.13].


Đặc điểm về hành vi: TTK ít quan tâm đến những chuẩn mực xã hội,
muốn làm theo sở thích cá nhân nên rất dễ có những hành vi trái ngược với sự
mong đợi của người khác như: La hét, khóc lóc khi người lớn không đáp ứng
sở thích của trẻ, tự ý lấy đồ của người khác mà không mắc cỡ hay sợ sệt. [24,
tr.145].
Đặc điểm về chú ý: TTK thường tập trung (dính chặt) vào một tính năng
của một đối tượng (vật thể hoặc một người) và bỏ qua "bức tranh tổng thể".

Ngược lại đối với những gì mà trẻ thích thì trẻ tập trung chú ý rất tốt [11, tr.
15].
Đặc điểm về cảm xúc: TTK gặp phải trở ngại trong tiến trình kết nối
làm bạn với những trẻ khác. Trẻ thường mất nhiều thời gian để hiểu được cảm
giác của người khác, thể hiện cảm xúc, tạo gắn bó với các cá nhân hoặc bộc lộ
sự quan tâm đến người khác [14, tr.35].
Đặc điểm tương tác xã hội: Khả năng tương tác xã hội của TTK là rất
kém. Điều này làm giảm khả năng giao tiếp của trẻ rất nhiều vì môi trường xã
hội là môi trường quan trọng để phát triển các kỹ năng giao tiếp, khó hòa nhập
với các bạn khi đến trường [14, tr.38].
Đặc điểm trí tuệ: Đặc điểm trí tuệ của TTK rất đa dạng. Một số TTK đi
kèm với hội chứng phân rã tuổi ấu thơ là tự kỷ nặng có thoái lùi phát triển.
Đặc điểm về giao tiếp: Trẻ bị suy giảm nhiều trong tương tác qua lại với
mọi người, hầu hết TTK biểu hiện sự cô lập, thích chơi một mình, tránh giao
tiếp với các bạn. Trong giao tiếp hàng ngày TTK không quan tâm đến lời nói
của đối tượng giao tiếp.
1.2.
1.2.1.

Lý luận về dịch vụ công tác xã hội.
Khái niệm về công tác xã hội

Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH (NASW): Công tác xã hội là hoạt
động nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng
cao hay khôi phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và
tạo ra các điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của họ (Zastrow, 1996).


Theo Cố Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh (trích từ tài liệu hội thảo 2004):
Định nghĩa cổ điển: CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng TỰ GIÚP. Nó

không phải là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát huy sứ mệnh
của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ tự giải quyết vấn
đề của mình.
Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế (IFSW) tại Hội nghị
Quốc tế Montreal, Canada, vào tháng 7/2000: CTXH chuyên nghiệp thúc đẩy
sự thay đổi xã hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con người,
sự tăng quyền lực và giải phóng cho con người, nhằm giúp cho cuộc sống của
họ ngày càng thoải mái và dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con
người và các hệ thống xã hội. CTXH can thiệp ở những điểm tương tác giữa
con người và môi trường của họ.
Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: CTXH góp phần giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh các vấn
đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội, hướng tới một
xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống
an sinh xã hội tiên tiến.
Theo TS.Bùi Thị Xuân Mai đưa ra khái niệm công tác xã hội như sau:
“Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp
các các nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và
tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính
sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm trợ giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải
quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần bảo đảm an sinh xã hội” [7,
tr. 19].
Trong luận văn này, chúng tôi đồng ý với khái niệm của tác giả Bùi Thị
Xuân Mai và sử dụng khái niệm này làm khái niệm công cụ nghiên cứu đề tài
luận văn này.
1.2.2.

Khái niệm dịch vụ

Dịch vụ được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là phi vật

chất, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Có những sản phẩm thiên về sản phẩm


hữu hình và những sản phẩm thiên hẳn về sản phẩm dịch vụ, tuy nhiên đa số
là những sản phẩm nằm trong khoảng giữa sản phẩm hàng hóa - dịch vụ.
1.2.3.

Khái niệm dịch vụ công tác xã hội

Dịch vụ công tác xã hội là hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực công
tác xã hội mà ở đó Nhân viên công tác xã hội sử dụng những kiến thức, kỹ
năng, phương pháp chuyên môn nhằm trợ giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng
nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường thực hiện chức năng xã hội,
đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ trợ
giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã
hội góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
1.3.
1.3.1.

Lý luận về dịch vụ công tác xã hội với trẻ tự kỷ
Khái niệm dịch vụ công tác xã hội với trẻ tự kỷ

Trên cơ sở phân tích những khái niệm về TTK, khái niệm công tác xã
hội, khái niệm về dịch vụ, khái niệm về dịch vụ công tác xã hội, tôi đưa ra
khái niệm về dịch vụ công tác xã hội đối với TTK như sau:“Dịch vụ công tác
xã hội đối với trẻ tự kỷ là hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực công tác xã
hội mà ở đó NVCTXH sử dụng những kiến thức, kỹ năng, phương pháp
chuyên môn nhằm trợ giúp trẻ bị tự kỷ, gia đình và xã hội nâng cao năng lực
đáp ứng nhu cầu và tăng cường thực hiện chức năng xã hội, đồng thời thúc
đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ liên quan tới việc

đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của trẻ tự kỷ”.
1.3.2.

Các loại dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ tự kỷ

Dịch vụ CTXH đối với TTK bao gồm những dịch vụ chủ yếu sau:
1/Chẩn đoán, đánh giá nhu cầu, xây dựng kế hoạch trợ giúp; 2/Tham vấn/tư
vấn cho gia đình trẻ tự kỷ; 3/Trị liệu; 4/Truyền thông, giáo dục nâng cao nhận
thức; 5/Vận động, kết nối, giới thiệu nguồn lực dịch vụ trợ giúp; 6/Biện hộ,
bảo vệ chính sách; 7/Dịch vụ CTXH cá nhân; 8/Dịch vụ CTXCH Nhóm.
Trong đề tài nghiên cứu này tôi tập chung nghiên cứu 6 loại hình dịch vụ đầu
tiên đó là: 1/Chẩn đoán, đánh giá nhu cầu, xây dựng kế hoạch trợ giúp;
2/Tham vấn/tư vấn cho gia đình trẻ tự kỷ; 3/Trị liệu; 4/Truyền thông, giáo dục
nâng cao nhận thức; 5/Vận động, kết nối, giới thiệu nguồn lực dịch vụ trợ


giúp; 6/Biện hộ, bảo vệ chính sách đều là những loại hình được sử dụng điển
hình nhất tại các trung tâm can thiệp.
1.3.2.1.

Chẩn đoán, đánh giá nhu cầu, xây dựng kế hoạch trợ giúp

Dịch vụ này được coi là dịch vụ rất quan trọng trong can thiệp trợ giúp
TTK và gia đình trẻ giải quyết vấn đề tự kỷ ở trẻ. Vì thông qua chẩn đoán,
đánh giá sẽ xác định được mức độ phát triển của trẻ theo từng lứa tuổi và các
rối loạn cũng như các vấn đề có liên quan để đánh giá nhu cầu toàn diện và
khả năng của TTK cũng như gia đình trẻ, từ đó làm cơ sở cho việc lập kế
hoạch và thực hiện kế hoạch can thiệp trợ gúp sát thực và đạt hiệu quả.
Dịch vụ này được cung cấp theo tiến trình sau: 1/Tiếp nhận ca, đánh giá
sơ bộ ban đầu; 2/Thu thập thông tin, chẩn đoán bằng các thang đánh giá; đánh

giá nhu cầu toàn diện; 3/Xây dựng kế hoạch can thiệp/trợ giúp.
Trong dịch vụ này, NVCTXH có vai trò là người đánh giá, điều phối,
kết nối, vì vậy cần phải có kiến thức và kỹ năng tốt, có trình độ chuyên môn
sâu, biết đánh giá các nhu cầu mong muốn đích thực của cha mẹ TTK, xác
định được những nguồn lực phù hợp với nhu cầu của cha mẹ có con bị tự kỷ
để từ đó cung cấp, kết nối một cách có hiệu quả những nhu cầu và nguồn lực
đó.
1.3.2.2.

Tham vấn/tư vấn cho gia đình trẻ tự kỷ

Trong các dịch vụ CTXH trợ giúp trẻ bị tự kỷ thì tham vấn, tư vấn luôn
là hoạt động chủ đạo vì nó hướng tới mục đích nâng cao năng lực tự giải quyết
vấn đề cho cha mẹ có con bị tự kỷ. Các hoạt động tham vấn/tư vấn được thực
hiện theo quy trình: 1/Thiết lập mối quan hệ; 2/Thu thập thông tin, xác định
vấn đề, phân tích điểm mạnh, điểm yếu; 3/Hệ thống hoá các thông tin; 4/Tìm
kiếm các giải pháp hỗ trợ; 5/Khái quát và truyền tải nội dung cho phụ huynh
TTK; 6/Kết thúc. Trong hoạt động tham vấn, NVCTXH đóng vai trò là nhà
tham vấn, cung cấp thông tin kiến thức, kỹ năng, tạo sự thay đổi. Để hoạt
động tham vấn, tư vấn đạt hiệu quả, NVCTXH cần có kiến thức toàn diện, kỹ
năng tốt và sẵn sàng giúp cha mẹ trẻ tự kỷ xử lý mọi tình huống xảy ra trong
cuộc sống của trẻ và gia đình.
1.3.2.3.

Trị liệu


Trên cơ sở kế hoạch can thiệp tổng thể của trẻ, NVCTXH xây dựng kế
hoạch trị liệu 3 tháng, từng tháng, từng tuần cho từng trẻ dựa trên kết quả đánh
giá nhu cầu toàn diện của từng trẻ, xác định mục tiêu, hoạt động, phương

pháp, thời gian và người thực hiện. Căn cứ kế hoạch tuần, NVCTXH xây
dựng giáo án trị liệu hàng ngày cho trẻ.
Các phương pháp trị liệu TTK bao gồm: Trị liệu cảm giác; Luyện tập
hành vi tích cực; Phương pháp chỉnh âm và trị liệu ngôn ngữ; Hoạt động thể
chất; Trị liệu thông qua các môn nghệ thuật; Máy vi tính.
1.3.2.4.

Truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức

Nhân viên CTXH tổ chức các hoạt động truyền thông, giáo dục nâng
cao nhận thức, kỹ năng cho cha mẹ trẻ tự kỷ và cộng đồng thong qua phương
pháp sau:
Truyền thông trực tiếp: Tư vấn nhóm; Tư vấn lưu động; hội nghị truyền
thông tại cộng đồng, trường học; Nói chuyện chuyên đề; tập huấn.
Truyền thông đại chúng: Báo, Đài, pan nơ, tờ rơi, áp phích, sách,
Website, tổng đài. Các hoạt động này giúp cha mẹ TTK hiểu và tự nhìn nhận
vấn đề, phân tích, đánh giá và tìm kiếm nguồn lực giải quyết vấn đề; tiếp cận
các chính sách dành cho trẻ tự kỷ.
1.3.2.5.

Vận động, kết nối, giới thiệu nguồn lực dịch vụ trợ giúp

Nhân viên CTXH thực hiện các hoạt động vận động, kết nối nguồn lực
cơ bản và hữu hiệu nhất đến từ phía gia đình cùng với đó là sự phối kết hợp
với các nguồn ngoại lực như cơ chế, chính sách đường lối của Đảng và Nhà
nước; Hội cha mẹ có con bị tự kỷ; chính quyền, các tổ chức đoàn thể, doanh
nghiệp cá nhân tại nơi sinh sống. Vì vậy, trong hoạt động này, NVCTXH đóng
vai trò trung gian kết nối cha mẹ có con bị tự kỷ với các chính sách, dịch vụ và
nguồn lực cần thiết để họ tiếp cận, có thêm sức mạnh giải quyết vấn đề.
NVCTXH cần giúp cho cha mẹ có con bị tự kỷ nói ra được tiếng nói, quan

điểm hoặc đại diện cho cha mẹ có con bị tự kỷ đưa ra tiếng nói và cố gắng
đảm bảo rằng quyền của trẻ em bị tự kỷ luôn được tôn trọng và nhu cầu của
TTK luôn được thoả mãn cũng như mang lại những dịch vụ tốt nhất cho các
em. Ngoài ra, điều đó sẽ góp phần thúc đẩy các cơ quan tổ chức cung ứng các


dịch vụ đáp ứng quyền và lợi ích hợp pháp cho các em, ví dụ như quyền đảm
bảo học tập, được hòa nhập với cuộc sống, quyền được chăm sóc sức khỏe.
1.3.2.6.

Biện hộ, bảo vệ chính sách

NVCTXH với vai trò là người biện hộ/vận động chính sách liên quan
đến đối tượng cần được biện hộ, giúp bảo vệ quyền lợi cho TTK và gia đình
TTK để họ được hưởng những dịch vụ, chính sách, quyền lợi của họ đặc biệt
trong những trường hợp họ bị từ chối những dịch vụ, chính sách mà họ là đối
tượng được hưởng.
1.4.

Cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trẻ tự kỷ

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác chăm sóc, nuôi dưỡng
đối tượng bảo trợ xã hội nói chung và chăm sóc, phục hồi chức năng cho TTK
nói riêng. Trong những năm qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây
dựng, ban hành như Luật Người khuyết tật, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP
ngày 10/04/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Người khuyết tật; Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày
25/03/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển nghề công tác
xã hội giai đoạn 2010 2020;…[16, tr.35]
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, trong giai đoạn

vừa qua, công tác chăm sóc và phục hồi chức năng cho người khuyết tật và
TTK đã phần nào đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của các gia đình trẻ,
góp phần quan trọng thực hiện chính sách an sinh xã hội và ổn định tình hình.
Năm 2006, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy định về giáo dục
hòa nhập dành cho người khuyết tật (23/2006/QĐ-BGD&ĐT). Theo quy định
này, người khuyết tật được định nghĩa là “Người khuyết tật, không phân biệt
nguồn gốc gây ra khuyết tật, là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận
cơ thể hoặc suy giảm chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau,
làm giảm khả năng hoạt động, khiến cho việc sinh hoạt, học tập, lao động gặp
nhiều khó khăn”.
Mục tiêu giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật là: 1) Giúp người
khuyết tật được hưởng quyền học tập bình đẳng như những người học khác; 2)
Tạo điều kiện và cơ hội cho người khuyết tật học văn hóa, học nghề, phục hồi


chức năng và phát triển khả năng của bản thân để hòa nhập cộng đồng. Nguồn
tài chính cho giáo dục hòa nhập người khuyết tật bao gồm ngân sách nhà
nước; tài trợ, viện trợ, quà tặng của các tổ chức xã hội, cá nhân trong nước và
ngoài nước; các nguồn thu hợp pháp khác…
Năm 2013, Bộ Giáo dục Đào tạo và Bộ Lao động Thương binh Xã hội
đã ban hành Quy định về Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập.
Trong quy định nêu rõ điều kiện và thủ tục thành lập, hoạt động, đình chỉ hoạt
động, tổ chức lại, giải thể Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập. Với
hai loại hình công lập và ngoài công lập, Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục
hòa nhập là cơ sở cung cấp nội dung chương trình, thiết bị, tài liệu dạy và học,
các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ giáo dục, tổ chức giáo dục phù hợp với đặc điểm và
hoàn cảnh của người khuyết tật.

Tiểu kết chương 1
Luận văn đã xây dựng được khái niệm Dịch vụ CTXH đối với trẻ em tự

kỷ như sau: “ Dịch vụ công tác xã hội đối với TTK là hoạt động chuyên
nghiệp trong lĩnh vực CTXH mà ở đó NVCTXH sử dụng những kiến thức, kỹ
năng, phương pháp chuyên môn nhằm trợ giúp trẻ bị tự kỷ, gia đình và toàn
xã hội nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường thực hiện chức
năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực
và dịch vụ liên quan tới việc đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của TTK”.
Luận văn cũng xác định được các DVCTXH gồm: 1/Chẩn đoán, đánh
giá nhu cầu, xây dựng kế hoạch trợ giúp; 2/Tham vấn, tư vấn; 3/Trị liệu;
4/Truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức; 5/Vận động, kết nối, giới thiệu
nguồn lực dịch vụ trợ giúp; 6/Biện hộ, bảo vệ chính sách; 7/Dịch vụ CTXH cá
nhân; 8/Dịch vụ CTXH nhóm.
Những khái niệm công cụ được đề cập đến trong luận văn là khái niệm
tự kỷ, trẻ tự kỷ; khái niệm công tác xã hội;khía niệm dịch vụ; khái niệm dịch
vụ CTXH; Dịch vụ công tác xã hội đối với trẻ tự kỷ; dấu hiệu nhận biết; đặc
điểm của trẻ tự kỷ.


Chương 2
THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRẺ TỰ KỶ
TẠI TRUNG TÂM SAO MAI – QUẬN THANH XUÂN – HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về Trung tâm Sao Mai – quận Thanh Xuân – Hà Nội
Trung tâm Sao Mai là đơn vị đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực phát
hiện sớm- can thiệp sớm cho TTK và TCPTT ở Hà Nội nói riêng và Việt nam
nói chung. Trung tâm có trụ sở rộng rãi, khang trang, các trang thiết bị đầy đủ
phục vụ cho khám,đánh giá – chẩn đoán, dạy và học. Có đội ngũ cán bộ, giáo
viên, nhân viên gần 90 người có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần
trách nhiệm cao, tận tâm, tận tình với trẻ khuyết tật. Đặc biệt, Trung tâm có
phòng khám do Thầy thuốc ưu tú, bác sĩ chuyên khoa 2 về tâm thần Đỗ Thúy
Lan phụ trách, hàng ngày bà trực tiếp khám cho bệnh nhi rất cẩn thận, tư vấn –
giải đáp cho phụ huynh của trẻ rất tận tình.

Trải qua 10 năm hoạt động với muôn vàn khó khăn không có vật chất,
cộng đồng còn kỳ thị với trẻ chậm phát triển tâm thần, gia đình trẻ tự ti và mặc
cảm nên thường giấu giếm, đã có cháu gái 14 tuổi mới đến trung tâm xin học
và 14 năm qua chỉ quanh quẩn trong nhà thậm chí hàng xóm không hề biết
ngôi nhà đó đã có một cô bé chậm khôn tồn tại. Trung Tâm Sao Mai ra đời có
một tập thể ban đầu 4 – 5 người đã phấn đấu không mệt mỏi từ mục tiêu từ
thiện phi lợi nhuận và chứng minh cho cộng đồng thấy được trẻ tự kỷ và trẻ
chậm khôn là những đứa trẻ học chậm và có hành vi ứng xử kém- chúng cần
một hệ thống giáo dục đặc biệt để phát triển đầy đủ các kỹ năng tự lập , ngôn
ngữ, giao tiếp… và học được hành vi ứng xử đúng để có thể hòa nhập với
chúng bạn cũng như hòa nhập cộng đồng ở tuổi trưởng thành.
2.1.1. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Trung tâm Sao Mai được mô tả theo sơ đồ
dưới đây:


Ban Giám Đốc

Phòng HC – Tài Vụ

Kế Toán
Thủ Quỹ

Nhân viên
chuyên
trách

Phòng Giáo Vụ QLCT

Phòng

khám

Phòng Tư
Vấn

Giáo viên
lớp

Nhà trị
liệu

Sơ đồ 2.1. cơ cấu tổ chức bộ máy của trung tâm Sao Mai
(Nguồn: Hành chính- Tổng hợp)

-

Cơ cấu tổ chức của Trung tâm Sao Mai gồm có:
Ban Giám đốc: Có 01 Giám đốc và 02 Phó giám đốc;
Các phòng chuyên môn gồm 2 phòng phụ trách các mảng khác nhau: 1)
phòng Hành chính – Tài vụ phụ trách mảng kế toán và nhân viên chuyên
trách. 2) phòng Giáo vụ - QLTC phụ trách các mảng về khám, tư vấn,
giáo viên lớp, nhà trị liệu, chuyên gia và tình nguyện viên.
2.1.2. Đội ngũ nhân viên công tác xã hội
Tổng số cán bộ, nhân viên công tác xã hội tại Trung tâm là 9
người.

Trong đó cán bộ, NVCTXH thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ
CTXH cho trẻ tự kỷ là 2 người.
Trình độ đào tạo: 8/8 cán bộ, NVCTXH đều có trình độ đại học trở lên,
gồm các chuyên ngành: Công tác xã hội: 2 người; Tâm lý: 3 người; Y tế: 2

người; Luật:
1 người; Chuyên ngành khác: 1 người.

Chuyên
gia và
TNV


Ngoài chuyên ngành được đào tạo ở bậc đại học, hàng năm, cán bộ
NVCTXH đều được tham gia các khóa đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực
thực hành nghề CTXH; kỹ năng can thiệp trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt; kỹ năng tham vấn; kỹ năng tâm lý lâm sàng trong chăm sóc, trợ giúp trẻ
tự kỷ; kỹ năng sàng lọc, đánh giá, can thiệp, trị liệu tâm lý trẻ tự kỷ;...và đã
được các đơn vị chuyên môn cấp chứng nhận.
2.1.3. Nhiệm vụ chủ yếu của Trung tâm
- Hỗ trợ trẻ một cách tốt nhất có bài bản và khoa học.
- Tạo môi trường tốt nhất cho sự phát triển của bé cả về các kỹ
năng sống, phương diện ngôn ngữ, tâm lý, sức khỏe… đặc biệt rèn tính
tự lập cho các bé, học với khả năng của trẻ, phát hiện những khả năng
tiềm ẩn của trẻ và giúp cho khả năng đó phát triển để phục vụ cuộc sống
cho trẻ tạo cơ hội lớn nhất cho trẻ được hòa nhập với cộng đồng.
Các dịch vụ CTXH Trung tâm đang cung cấp gồm: Phát hiện sớm
– can thiệp sớm; Tư vấn, tham vấn; Cung cấp thông tin; Đánh giá và trị
liệu tâm lý; Quản lý trường hợp; Truyền thông, giáo dục nâng cao nhận
thức; Đào tạo kỹ năng; Phát triển cộng đồng; Kết nối, giới thiệu nguồn
lực dịch vụ trợ giúp; Biện hộ bảo vệ chính sách.
2.2. Thực trạng trẻ tự kỷ tại Trung tâm Sao Mai
2.2.1. Số lượng trẻ tự kỷ
Trung tâm Sao Mai đã hoạt động được 22 năm (được thành lập
năm 1995) và là đơn vị đầu tiên trong lĩnh vực giáo dục, chăm sóc cho

trẻ khuyết tật trí tuệ ở Hà Nội và hiện là trung tâm có chất lượng cao ở
Hà Nội cũng như trên toàn quốc.Với mục tiêu áp dụng các phương thức
tiên tiến trong can thiệp sớm và giáo dục đặc biệt dành cho trẻ khuyết
tật trị trí tuệ, tự kỷ (can thiệp sớm dành cho trẻ từ 18 tháng tuổi đến 5
tuổi, giáo dục đặc biệt dành cho trẻ từ 5 tuổi đến 15 tuổi), giúp nâng cao
chất lượng cuộc sống cho trẻ, giúp trẻ hòa nhập và sống độc lập.
Hiện nay trung tâm có tổng số trẻ đang theo học và điều trị là 174
trẻ học bán trú, ngoài ra nhận tư vấn trực tiếp, gián tiếp cho bất kỳ phụ
huynh nào quan tâm đến vấn đề này. Theo kết quả cho thấy trong 174
trẻ đang theo học thì TTK có 68 em (39.1 %) trong có có 35 bé trai và
33 bé gái, như vậy tỷ lệ bé trai và bé gái bị tự kỷ là gần bằng nhau.


×