BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/…………
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ ÁNH DƯƠNG
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG NÔ
TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ ÁNH DƯƠNG
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG NÔ
TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN QUANG THÁI
ĐẮK LẮK – NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quang Thái.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực và chưa
hề được công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào.
Các thông tin trích dẫn trong Luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn
gốc, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Đắk Lắk, tháng 3 năm 2017
Học viên
Lê Ánh Dương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………...
01
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
……………………………………………………………………..…
1.1. Khái niệm, đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự …....….………
1.2. Các yếu tố tác động đến cưỡng chế thi hành án dân sự ………………...
09
09
16
1.3. Nội dung các quy định pháp luật hiện hành về cưỡng chế thi hành án dân
sự ……………………………………………………………………...
23
Chương 2: THỰC TRẠNG CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG …………..
52
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn
huyện Krông Nô ……………..……………….…………………………….
2.2. Thực trạng cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô
52
55
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CƯỠNG
CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG NÔ,
TỈNH ĐẮK NÔNG …………………………………………………
72
3.1. Phương hướng bảo đảm cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện
Krông Nô ……………………………..…. ……….……………….
72
3.2. Giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác cưỡng chế thi hành
án dân sự huyện Krông Nô ………………………………..………….
KẾT LUẬN ……………………………………………………………….
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………...
75
90
92
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì ổn định, trật tự kỷ cương xã
hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển
lành mạnh của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhằm hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008,
tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa XII
đã thông qua Luật thi hành án dân sự (có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/7/2009). Đây là văn bản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan Thi
hành án dân sự thực hiện tốt hơn vai trò, nhiệm vụ của mình trong hoạt động
tư pháp nói chung và quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án nói riêng. Trên cơ sở các quy định của Luật Thi hành án dân sự năm
2008, Tổng cục Thi hành án dân sự đã tham mưu cho Bộ Tư pháp ban hành
và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc phối hợp với các Bộ,
ngành có liên quan ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật Thi hành án dân sự, từ Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
Thông tư, Thông tư liên tịch đến các văn bản quy phạm pháp luật trong nội bộ
Ngành, cơ quan Thi hành án dân sự. Sau 05 năm thi hành, Luật Thi hành án
dân sự đã phát huy được hiệu quả trong thực tế cuộc sống, tuy nhiên bên cạnh
đó cũng đã bộc lộ một số vướng mắc, hạn chế, bất cập, thậm chí yếu kém cần
được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Ngày 25/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/7/2015. Để có hướng dẫn kịp thời trong việc thực hiện các
điều luật được sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung, ngày 18/7/2015,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ - CP quy định chi tiết và
1
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, một số
quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung nhằm tạo
thuận lợi cho người dân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình; tạo thuận lợi cho cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên trong
việc thực hiện nhiệm vụ được giao; đồng thời bảo đảm nguyên tắc người phải
thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực
pháp luật. Tuy nhiên, để đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống và thực
thi ở từng địa bàn cụ thể đòi hỏi phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, có giải pháp
phù hợp.
Đối với huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông là địa bàn huyện miền núi với
nhiều đặc thù. Thời gian qua công tác THADS nói chung và việc cưỡng chế
THADS trên địa bàn huyện nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thì công tác này vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, vấn
đề cưỡng chế THADS của người phải thi hành án phải được nghiên cứu kỹ
lưỡng để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền
lợi hợp pháp của đương sự. Trước tình hình đó, tác giả lựa chọn đề tài "Cưỡng
chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông" làm đề
tài luận văn thạc sĩ của mình. Đây là một vấn đề cấp thiết có ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc đối với lĩnh vực thi hành án dân sự. Việc nghiên cứu kỹ biện pháp
cưỡng chế giúp đem lại quyền và lợi ích thực tế cho cá nhân, tổ chức, góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành án dân sự là một lĩnh vực khó khăn, phức tạp và rất nhạy cảm.
Trong những năm gần đây thi hành án dân sự được Đảng, Nhà nước và nhân
dân quan tâm, cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
lĩnh vực này, cụ thể:
2
- Đề tài cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mớí” do TS.Nguyễn Đình
Lộc làm chủ nhiệm được xem là công trình nghiên cứu lớn có liên quan đến
thi hành án nói chung và THADS nói riêng. Đề tài này tập trung chủ yếu vào
việc nghiên cứu để đưa ra các luận giải khoa học nhằm đổi mới công tác quản
lý thi hành án (kể cả dân sự và hình sự) theo hướng gọn đầu mối đã được đề
ra trong các nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam và định hướng cải cách
tư pháp ở nước ta. Hơn nữa việc nghiên cứu của đề tài được thực hiện trong
bối cảnh Bộ Chính trị chưa ban hành Nghị quyết số 49 về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020.
- Đề tài cấp Nhà nước KX 04-06 về "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của toà
án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân" do TS. Uông
Chu Lưu làm chủ nhiệm. Đề tài đi sâu vào nghiên cứu các yêu cầu của cải cách
tư pháp, hệ thống các thủ tục tư pháp như điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
nhưng với mục tiêu chung nhất là để nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của
toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
- "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay" của Nguyễn Quang Thái đã nghiên cứu về THADS dưới góc
độ pháp chế XHCN.
- "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của
Nguyễn Thanh Thủy. Đây là đề tài nghiên cứu khá sâu về cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật THADS.
- "Hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam" của
Đặng Đình Quyền. Đây là đề tài nghiên cứu về THADS dưới góc độ lý luận
và thực tiễn về áp dụng pháp luật.
3
Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành của
các chuyên gia, các nhà nghiên cứu khoa học như: "Pháp lệnh thi hành án sự
năm 2004 với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án" của tác
giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề về
nghiệp vụ THADS năm 2005; "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự"
của tác giả Trần Phương Thảo, Tạp chí Luật học số 7/2007; "Một số kiến nghị
từ thực tiễn hoạt động kiểm sát THADS ở xã, phường, thị trấn" của tác giả
Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 19/2006; "Hòa giải - biện pháp nâng
cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS" của tác giả Phạm
Quốc Toản, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 7/2006;
"THADS phải là công việc, nhiệm vụ của cấp uỷ, chính quyền đoàn thể nhân
dân" của tác giả Trương Vĩnh Trọng, Tạp chí Dân chủ và PL 8/2005; "Biện
pháp tự nguyện trong Thi hành án dân sự", của tác giả Phạm Quang Dũng,
Tạp chí Dân chủ và PL số 4/2005; "Vai trò của công tác hòa giải trong
THADS", của tác giả Đỗ Xuân Lợi, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 01/2005;
"Tổ chức và hoạt động THADS trong cải cách tư pháp" của PGS.TS. Nguyễn
Văn Luyện; “Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả việc bán đấu
giá tài sản thi hành án” của đồng tác giả Ths. Lê Anh Tuấn và Ths. Nguyễn
Thị Nhàn, Tạp chí Dân chủ và PL số chuyên đề tháng 3/2016; ...
Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng dự thảo Bộ luật Thi
hành án nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết
số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020, trên các diễn đàn nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế cũng đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết bình luận, đánh giá về lĩnh vực thi
hành án nói chung, THADS nói riêng. Đây là những công trình nghiên cứu có
tác động tích cực liên quan đến hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác
thi hành án, nhất là THADS ở Việt Nam.
4
Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng dự thảo Bộ luật Thi
hành án nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết
số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020, trên các diễn đàn nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế cũng đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết bình luận, đánh giá về lĩnh vực thi
hành án nói chung, THADS nói riêng. Đây là những công trình nghiên cứu có
tác động tích cực liên quan đến hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác
thi hành án, nhất là THADS ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về
cưỡng chế THADS, nội dung của chế định cưỡng chế THADS; nhận diện được
những hạn chế, bất cập của chế định này và các tồn tại, vướng mắc trong thực
tiễn thực hiện chúng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những
hạn chế, bất cập, vướng mắc, tồn tại đã nhận diện, góp phần giải quyết các khó
khăn, vướng mắc đặt ra trong công tác THADS trên địa bàn huyện Krông Nô,
tỉnh Đắk Nông hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định
trên những khía cạnh sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về cưỡng chế THADS như khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của cưỡng chế THADS.
+ Phân tích, đánh giá những quy định của Luật THADS về cưỡng chế
THADS.
+ Khảo sát tình hình thực hiện cưỡng chế THADS tại huyện Krông Nô,
tỉnh Đắk Nông hiện nay.
5
+ Tìm ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cưỡng chế
THADS trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về cưỡng chế
THADS, là các quy định của pháp luật về cưỡng chế THADS và thực trạng
thực hiện cưỡng chế trong hoạt động THADS trên địa bàn huyện Krông Nô,
tỉnh Đắk Nông hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều quy định về biện pháp cưỡng
chế cụ thể. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này, nhưng đa phần các tác
giả chỉ nghiên cứu chuyên sâu về một biện pháp nhất định. Do đó, trong phạm vi
giới hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu được trình bày tổng quát 06
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất
thuộc nội dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của cưỡng
chế THADS; cơ sở của việc pháp luật quy định cưỡng chế THADS; nội dung
các quy định của luật thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm
2014 (Luật THADS) về cưỡng chế THADS và thực tiễn thực hiện chúng tại
huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông trong những năm qua.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết;
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn;
6
+ Phương pháp thống kê;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp;
+ Phương pháp so sánh;
+ Phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống hóa các vấn đề lý
luận về THADS; Làm rõ được đặc điểm, ý nghĩa, nội dung của cưỡng chế
THADS và cơ sở của việc quy định biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
(BPCC THADS).
- Ý nghĩa thực tiễn
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của Luật THADS về
cưỡng chế THADS và thực tiễn thực hiện.
- Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện
những quy định của pháp luật về cưỡng chế THADS.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác thi hành án dân sự tại
địa phương trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng về cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn
huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm cưỡng chế thi hành án dân
sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự ở cấp huyện
- Để làm rõ khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự ở cấp huyện, cần
làm rõ khái niệm thi hành án dân sự.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thì thi hành được hiểu là: “Thực hiện điều
chính thức đã quyết định” [48, tr.1559]. Như vậy, thi hành án chính là việc
thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ
quan có thẩm quyền.
Thi hành án ở Việt Nam hiện nay gồm có: Thi hành án hình sự và thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính.
Thi hành án dân sự là việc thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt
tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng,
tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài
sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại.
Tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014(Luật THADS) quy định
những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm:
1. Bản án, quyết định quy định tại điều 1 của Luật này đã có hiệu
lực pháp luật:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án;
8
d) Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh mà sau ba mươi ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật
đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án;
e) Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại;
g) Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được
thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ
cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần,
nhận người lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời [41, tr.1].
Như vậy: Cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện có nhiệm vụ, quyền
hạn được quy định tại Điều 16 Luật THADS [41, tr.9] như sau:
Thứ nhất: Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định: (i) Bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự có
trụ sở; (ii) Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối với bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự cấp
huyện có trụ sở; (iii) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án cấp tỉnh
đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện nơi
cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có trụ sở; (iv)) Bản án, quyết định do cơ
quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi khác, cơ quan thi hành án thi hành án
dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án cấp quan khu ủy thác.
9
Thứ hai: Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm
quyền theo quy định của Luật này.
Thứ ba: Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và
phương tiện hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh.
Thứ tư: Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động
thi hành án theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh.
Thứ năm: Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự.
Thứ sáu: Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 của Luật này.
Thứ bảy: Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân
khi có yêu cầu.
Như vậy, thi hành án dân sự không chỉ do một mình cơ quan thi hành
án dân sự tiến hành mà còn tiến hành bởi các cá nhân, tổ chức được nhà nước
cho phép thực hiện theo trình tự thủ tục pháp luật quy định. Đến nay sau một
thời gian thực hiện, theo Nghị quyết số 37/2015/QH13 ngày 23 tháng 11 năm
2015 của Quốc hội về việc thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại.
Từ đó có thể rút ra khái niệm thi hành án dân sự như sau: “Thi hành án
dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan thi hành án dân sự, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định để thực hiện bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác
của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức”.
- Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự cấp huyện:
Trước hết cần xác định, cưỡng chế là gì? Liên quan đến vấn đề này,
qua nghiên cứu cho thấy, cưỡng chế là biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ
10
chức phải thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực
của một cá nhân, tổ chức có thẩm quyền.
Từ cách hiểu trên, trong THADS Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật có được thi hành nghiêm chỉnh, dứt điểm hay không; kỷ cương
pháp luật có được tôn trọng; lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể, của
các tổ chức xã hội và mọi công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc
nhiều vào kết quả của việc thi hành án.
Với tính chất dân sự của mình, thi hành án dân sự là quá trình thực hiện
các quyền, nghĩa vụ dân sự (chủ yếu là các quyền, nghĩa vụ về tài sản) của
các bên đã được bản án, quyết định của Tòa án ghi nhận. Trong thi hành án
dân sự, các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả thuận với nhau nhằm
thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Tự
nguyện thi hành án đã trở thành như một nguyên tắc, biện pháp quan trọng
trong hoạt động thi hành án dân sự.
Thuyết phục để các bên tự nguyện thi hành án là nhiệm vụ của Chấp
hành viên, của cơ quan thi hành án trong quá trình tổ chức thi hành án. Thuyết
phục trong thi hành án dân sự bắt nguồn từ việc các bên đương sự có quyền tự
nguyện thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định ghi
nhận, thể hiện ý chí của các bên đương sự nhằm thi hành bản án, quyết định
của Tòa án.
Tuy vậy, khi người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục,
mặc dù có điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh để không
tự nguyện thi hành, thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi
hành. Cưỡng chế thi hành án thể hiện quyền năng của cơ quan thi hành án,
bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, nhằm đảm bảo bản án được thi
hành nghiêm chỉnh, đúng pháp luật.
11
Theo quy định, sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án do Chấp
hành viên ấn định, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không
thi hành án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có
hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án, thì Chấp
hành viên có quyền áp dụng kịp thời các biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Như vậy, “Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt
buộc của cơ quan thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền
quy định của pháp luật, nhằm buộc đương sự (người phải thi hành án), người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ
về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong trường
hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi
hành trong thời hạn do Chấp hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần
ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại tài sản”.
1.1.2. Đặc điểm cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế thi hành án là biện pháp nghiêm khắc nhất mà CHV cơ
quan thi hành án áp dụng khi thực thi các bản án, quyết định. Do đó, cưỡng
chế thi hành án dân sự có đặc điểm:
Thứ nhất, quyền cưỡng chế THADS chỉ do Nhà nước tổ chức thực hiện.
Đặc trưng này xuất phát từ tính chất, mức độ phức tạp của hoạt động THADS.
Hơn nữa đặc trưng này cũng xuất phát từ chức năng của Nhà nước đó là duy
trì và bảo đảm trật tự xã hội. Thực tiễn cho thấy, trong quan hệ pháp luật
THADS, một bên đương sự là người có quyền lợi, còn bên kia có nghĩa vụ.
Về nguyên tắc bên có nghĩa vụ phải tự giác thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn
các nghĩa vụ của mình cho bên có quyền lợi. Trong trường hợp bên có nghĩa
vụ không tự thực hiện nghĩa vụ thì bên có quyền sẽ sử dụng các quyền mà
pháp luật cho phép để buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ. Quyền
cơ bản mà người được thi hành án có thể sử dụng ở đây đó chính là quyền
12
nộp đơn yêu cầu THADS. "Theo yêu cầu của bên có quyền lợi, nhà nước phát
động quyền cưỡng chế thi hành và việc thực hiện quyền lợi của bên có quyền
sẽ tất yếu làm tổn hại đến vùng lợi ích của bên có nghĩa vụ”.... Đặc trưng này
thể hiện, pháp luật không cho phép người được thi hành án và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan, tự dùng sức mạnh bạo lực để buộc bên có
nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cho mình.
Thứ hai, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được chấp hành viên
áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án
nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của
Tòa án.
Chấp hành viên là công chức, được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức
thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành. Việc pháp luật
quy định cụ thể như vậy vừa để tránh tình trạng các đối tượng khác lạm dụng
việc thi hành án để làm ẩu hoặc gây áp lực đối với người phải thi hành án, mặt
khác tăng cường tính trách nhiệm cá nhân của CHV khi tổ chức hoạt động
này. Là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành án các bản án, quyết
định dân sự của Tòa án, khi thực hiện nhiệm vụ CHV chỉ tuân theo pháp luật,
chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. CHV khi tiến
hành hoạt động thi hành án chỉ được thực hiện những gì pháp luật cho phép
và phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thi hành án.
Thứ ba, đối tượng của cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc
hành vi của người phải thi hành án.
Mục đích chính của hoạt động THADS đó là bảo vệ quyền lợi. Và như
vậy, khi bảo vệ quyền lợi của bên được thi hành án tất yếu sẽ tác động đến
quyền lợi của bên phải thi hành án. Trong số những quyền mà bên phải thi
hành án buộc phải thực hiện hoặc chuyển giao cho bên được thi hành án chủ
13
yếu liên quan đến tài sản, kể cả nhà và đất liên quan trực tiếp đến "quyền có
nơi ở thích đáng là một quyền cơ bản của con người…mọi người cần phải
được pháp luật (PL) bảo vệ trước hoạt động cưỡng đoạt nhà ở và đất đai của
họ".... Theo TS. Đinh Trung Tụng thì:
Cần phải nhấn mạnh rằng, thi hành án là một vấn đề hết sức hệ
trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước, đến trật tự, kỷ cương PL và ảnh hưởng sâu sắc
đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, hay nói rộng hơn là
quyền dân sự cơ bản của con người, như quyền về tài sản, quyền
được lao động, quyền tự do, quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm.... [26]
Do vậy, khi cưỡng chế thì sẽ tác động đến quyền tài sản hoặc các hành
vi khác của con người.
Thứ tư, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, người bị
áp dụng ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do
tòa án tuyên, họ còn phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự.
Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. Người phải
thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định của pháp Luật thi hành án dân sự [41, tr.3].
Trong trường hợp này, đương nhiên được hiểu người phải thi hành án chống
lại bản án, quyết định nhân danh Nhà nước nên mọi chi phí liên quan đến việc
tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự thì người bị cưỡng chế phải chịu mọi
chi phí do hành vi chống đối của mình gây ra.
Thứ năm, các biện pháp cưỡng chế được chấp hành viên quyết định áp
dụng không những có hiệu lực đối với người phải thi hành án dân sự mà còn
có hiệu lực đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
14
Bản án, quyết định của Toà án nhân danh Nhà nước không chỉ có hiệu
lực pháp lý đối với người được thi hành án, người phải thi hành án, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đối với cơ quan THADS mà đối với tất cả các
cơ quan tổ chức và mọi cá nhân. Vì vậy, trách nhiệm tôn trọng và thi hành
nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án là trách nhiệm của tất cả mọi
người trong xã hội. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiến pháp
và Điều 19 Bộ luật tố tụng dân sự nước cộng hòa XHCN Việt Nam đó là:
”1 Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành và phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
2 Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án và cơ
quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của
Tòa án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.3 Tòa án có quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án thông báo tiến độ, kết quả thi hành bản án, quyết
định của Tòa án. Cơ quan thi hành án trực tiếp tổ chức thi hành
bản án, quyết định của Tòa án có trách nhiệm trả lời cho Tòa án
[42, tr.6].
Điều này cũng loại bỏ tư tưởng coi việc thi hành án bản án, quyết định
của Toà án là trách nhiệm của cơ quan thi hành án và khoán trắng cho cơ
quan này thực hiện.
1.2. Các yếu tố tác động đến cưỡng chế thi hành án dân sự
Theo từ điển tiếng Việt thì: Bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết 48, tr.38]. Như vậy, các
yếu tố bảo đảm cưỡng chế THADS là những yếu tố, những điều kiện cần thiết
để pháp chế trong hoạt động này chắc chắn thực hiện được. Có thể kế đến các
yếu tố sau:
15
1.2.1. Yếu tố pháp lý
Thứ nhất: Phải có một hệ thống pháp luật "cần" và "đủ" để điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong cưỡng chế THADS: Theo yêu cầu này thì các văn
bản quy phạm pháp luật phải được ban hành đồng bộ, tất cả các quan hệ phát
sinh trong hoạt động cưỡng chế THADS và Nhà nước phải kiểm soát được,
qua đó có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên có liên quan,
đồng thời không làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
yêu cầu quản lý xã hội của Nhà nước.
Thứ hai: Bản án, quyết định dân sự phải thật sự rõ ràng, có tính khả thi:
Bản án, quyết định dân sự là cơ sở pháp lý để ghi nhận quyền và nghĩa vụ của
các bên có liên quan. Vì vậy, để các bản án, quyết định dân sự có thể thi hành
trên thực tế thì trước hết bản án, quyết định dân sự đó phải cụ thể về nội dung.
Quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong bản án, quyết định dân sự phải có khả
năng thực thi trên thực tế. Ngoài ra, để tránh hiểu sai, hiểu không đúng thì lời
văn của bản án, phải rõ ràng, dễ hiểu và chỉ hiểu theo một nghĩa.
Bản án, quyết định dân sự phải đảm bảo tính chung thẩm cao. Có như
vậy mới hạn chế được tình trạng bản án, quyết định dân sự có hiệu lực PL được
đưa ra thi hành nhưng sau đó lại được tạm hoãn, kháng nghị, huỷ hoặc cải sửa
làm ảnh hưởng tới quá trình thực thi bản án của các cơ quan thi hành án.
1.2.2. Yếu tố chính trị
Thứ nhất: Cần phải có một hệ thống cơ quan THADS đủ mạnh để đảm
bảo cưỡng chế trong hoạt động THADS. Theo TS. Uông Chu Lưu thì:
“Tính chất hành chính - tư pháp của hoạt động thi hành án không
loại cơ quan thi hành án khỏi phạm vi các cơ quan thực hiện quyền
tư pháp. Theo cách tiếp cận chức năng - hệ thống của nhóm nghiên
cứu, cơ quan thực hiện quyền tư pháp được hiểu là cơ quan nhà
nước chuyên trách thực hiện chức năng bảo vệ PL, không phụ
16
thuộc vào việc cơ quan đó thuộc hệ thống hành pháp hay là cơ
quan do lập pháp bầu ra. Trong lĩnh vực hình sự hay dân sự quyền
tư pháp chỉ vận hành khi có hành vi, tranh chấp xâm hại đến các
giá trị PL, trật tự PL; mục tiêu bảo vệ PL của quyền tư pháp được
hoàn thành khi các giá trị và trật tự PL đó được khôi phục trên thực
tế. Thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp căn cứ trên một
bản án, quyết định cụ thể của Toà án liên quan đến những hành vi,
tranh chấp cụ thể chứ không phải hoạt động chấp hành - điều hành
mang tính quản lý nhà nước chung. Hoạt động thi hành án gắn liền
với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở các giai đoạn
trước đó nhưng bản thân hoạt động thi hành án không phải là hoạt
động tố tụng vì đây không phải là hoạt động chứng minh, xác định
bản chất sự việc, xác định tính hợp pháp, tính đúng đắn của các
loại tranh chấp mà chấp là hoạt động chấp hành, thi hành PL, thực
hiện phán quyết, quyết định của toà án. Bằng kết quả thi hành án
một cách đúng đắn, đầy đủ, đúng PL, các quyền và lợi ích hợp pháp
bị xâm hại được khôi phục trên thực tế, trật tự PL được giữ vững,
niềm tin của người dân vào sức mạnh và hiệu quả của quyền lực
nhà nước, vào công lý và công bằng xã hội mới được nuôi dưỡng,
duy trì, củng cố, tạo nên sự ổn định xã hội. Như vậy, hoạt động
THADS và thi hành án hình sự là hoạt động hành chính - tư pháp,
các cơ quan THADS và thi hành án hình sự thực hiện chức năng
chuyên trách bảo vệ PL phải thuộc vào hệ thống cơ quan tư pháp,
dưới sự quản lý thống nhất của Chính phủ về công tác thi hành án”
[52, tr.35].
Việc xác định cơ quan THADS là cơ quan thực hiện chức năng chuyên
trách bảo vệ PL phải thuộc vào hệ thống cơ quan tư pháp là có cơ sở. Bởi vì,
17
như đã phân tích ở phần trên thì THADS mang tính chất của hoạt động hành
chính - tư pháp. Việc thực hiện quyền tư pháp thực chất là việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng PL vào việc phát hiện, đánh giá các hành vi vi
phạm PL hoặc các sự kiện để phán xét về tính chất pháp lý của hành vi hay sự
kiện, qua đó đưa ra các phán quyết và tổ chức thi hành các phán quyết đối với
những cá nhân, tổ chức có liên quan. Trong trường hợp này, vai trò của cơ
quan THADS chính là tổ chức thi hành các phán quyết đối với những cá nhân,
tổ chức có liên quan. Vì vậy, tuy hoạt động trung tâm làm ra sản phẩm cuối
cùng của quá trình thực hiện quyền tư pháp là hoạt động xét xử do tòa án thực
hiện, nhưng đây không phải là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp. Để
có thể đưa vụ án ra xét xử và biến kết quả xét xử của toà án được thi hành trên
thực tế còn có cả hệ thống các cơ quan tiến hành những hoạt động liên quan
trực tiếp tới hoạt động xét xử hoặc để thi hành các quyết định xét xử của tòa
án, đó là hoạt động điều tra, truy tố và thi hành án của các cơ quan nhà nước
như công an, kiểm sát, thi hành án. Theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 211-2002 của Bộ Chính trị và mới đây là Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị,
thuật ngữ "các cơ quan tư pháp" được hiểu bao gồm: Cơ quan điều tra; Cơ
quan công tố (các Viện Kiểm sát nhân dân); Cơ quan xét xử (các tòa án); Cơ
quan thi hành án hình sự, dân sự; Cảnh sát tư pháp; Các cơ quan, tổ chức bổ
trợ tư pháp.
Xuất phát từ các lý do trên, có thể khẳng định rằng, các cơ quan
THADS thuộc hệ thống cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Vì vậy, việc tổ
chức hệ thống các cơ quan THADS cũng cần bảo đảm cho Chấp hành viên có
thể độc lập trong việc đưa ra các quyết định cưỡng chế nhằm thi hành theo
đúng nội dung bản án, quyết định dân sự của Toà án.
18
Thứ hai: Bảo đảm sự phân công, phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan
nhà nước với nhau trong hoạt độngTHADS. Liên quan đến vấn đề này, Văn
kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: "Nhà nước ta là Nhà nước
pháp quyền XHCN. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp"...., tr.45. Yêu cầu này càng
thể hiện rõ trong việc bảo đảm thực hiện pháp chế trong hoạt độngTHADS.
Bởi vì, hoạt động cưỡng chế THADS không chỉ là hoạt động riêng của cơ
quan THADS mà đòi hỏi sự tham gia phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan điều tra,
truy tố, xét xử và kể cả thi hành án hình sự. Chưa kể hoạt động cưỡng chế
THADS có liên quan đến hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ví
dụ như liên quan đến đất đai, tài sản, phương tiện giao thông… Đây đều là
những vấn đề có liên quan mật thiết và giữ vai trò quyết định trực tiếp đến
việc thực hiện cưỡng chế THADS, song lại do rất nhiều các cơ quan ban
ngành khác nhau của Nhà nước tham gia thực hiện. Vì vậy, nếu không có sự
phối hợp thật tốt giữa các cơ quan nhà nước khác đối với cơ quan thi hành án
thì cưỡng chếTHADS sẽ không được thực hiện.
Thứ ba: Phát huy vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc bảo
đảm pháp chế. Đặc trưng của hệ thống chính trị ở nước ta là một đảng duy
nhất cầm quyền, trong khi đó bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh bản án, quyết
định của Toà án là một trong những nội dung cơ bản của quá trình cải cách tư
pháp ở nước ta, vì vậy, không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn
trong thời gian qua, dưới sự Lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác
THADS nói chung và việc cưỡng chế THADS nói riêng ngày càng thu được
những thành quả quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
19
1.2.3. Yếu tố kinh tế
Thứ nhất: Người có nghĩa vụ THADS, phải có khả năng về kinh tế để
thực hiện nghĩa vụ của mình: Thực tiễn cho thấy, nói đến THADS là nói đến
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, trong đó hầu hết các trường
hợp đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến khả năng và điều kiện kinh
tế của bên có nghĩa vụ. Bởi vì, dù bản án, quyết định của Toà án nhân danh
Nhà nước tuyên có hay và có đúng đến mấy đi chăng nữa, cộng thêm sự cố
gắng và nỗ lực tuyệt với của các cơ quan THADS nhưng người phải THADS
không điều kiện kinh tế để thực hiện nghĩa vụ thì bản án, quyết định đó mãi
mãi vẫn chỉ là con số không. Vì vậy, trong nội dung này có hai vấn đề lớn đặt
ra đó là: (i) Xác định chính xác khả năng kinh tế (nói đúng hơn là khả năng
thanh toán) thực sự của người phải THADS; (ii) Cần có được một cơ chế hợp
lý để xác định và triển khai thực hiện có hiệu quả khi người phải THADS có
khả năng thi hành nhưng khả năng đó đang do một đối tượng thứ ba nắm giữ
(đối tượng thứ ba ở đây có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý...). Cơ chế
thể hiện trong yếu tố thứ hai phải bắt đầu từ việc tạo điều kiện để quản lý
được khả năng kinh tế của cá nhân nói chung và người phải THADS nói
riêng, đến việc bảo đảm sự vận hành có hiệu quả giữa cơ quan chức năng thực
hiện nhiệm vụ THADS với cá nhân và cơ quan, tổ chức đang nắm giữ tiền, tài
sản của người phải THADS.
Thứ hai: Nhà nước phải đảm bảo đủ kinh phí, cơ sở vật chất, phương
tiện cho hoạt động của các cơ quan THADS.
1.2.4. Yếu tố xã hội
Thứ nhất: Về yếu tố gia đình: Cưỡng chế THADS thông thường sẽ tác
động trực tiếp đến một gia đình cụ thể nào đó của xã hội. Đúng như nguyên
Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã nói:
20
“THADS là công việc có nhiều khó khăn, phức tạp, nhưng có ý
nghĩa rất quan trọng trong bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích
của công dân, duy trì kỷ cương phép nước. Việc thi hành án tác
động trực tiếp đến các lợi ích vật chất và tinh thần của người phải
thi hành án và người được thi hành án, đến danh dự, uy tín của
những người này và của gia đình họ” [38, tr.5].
Vì vậy, THADS nói chung và cưỡng chế THADS nói riêng từ mỗi gia
đình sẽ là cơ sở quan trọng, quyết định việc bảo đảm cưỡng chế THADS
thành công hay thất bại. Vai trò của gia đình trong việc thực hiện pháp luật có
thể bắt đầu từ một người sau đó sẽ được lan toả đến tất cả mọi thành viên
trong gia đình. Muốn thực hiện được điều này thì khâu giáo dục và nâng cao ý
thức của mỗi cá nhân gia đình trở thành chìa khóa của sự thành công trong
hoạt động THADS.
Thứ hai: Yếu tố ngoài xã hội: Yếu tố quan trọng đầu tiên ở đây đó là
yếu tố làng, xã, thôn, bản của con người Việt Nam. Cho đến nay ở nước ta,
vẫn có tới 70 - 80% dân số của cả nước sống bằng nghề nông nghiệp và sống
chủ yếu ở vùng nông thôn (nhất là ở địa bàn tỉnh Đắc Nông). Vì vậy, làng xã
từ lâu đã trở thành như một thể chế bền vững, tồn tại cùng với chiều dài của
lịch sử dân tộc. Theo các nhà nghiên cứu khoa học xã hội thì yếu tố làng xã
thường thể hiện rõ mối quan hệ cộng đồng, trong đó ít thấy quan hệ trực tiếp
giữa cá nhân với các cộng đồng lớn mà thông qua gia đình, họ tộc. Công cụ
chủ yếu để điều chỉnh mối quan hệ trong làng xã dựa vào dư luận, thái độ
khích lệ, chê bai. Tập thể có vai trò lớn đối với việc thực hiện PL và các chủ
trương chính sách của Nhà nước.
Theo TS. Đào Ngọc Tuấn thì:
"Xét về mặt hành chính, làng xã giữ vai trò như mắt khâu trung
gian nối các cá thể với nhà nước. Tất cả các chỉ thị từ chính quyền
21